8 Bộ Kinh Phật Thường Được Đọc Tụng Niệm_Phiên bản 1.1

Kinh Lăng Nghiêm_Phẩm 1


Listen Later

Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh) là một bộ kinh Đại thừa quan trọng trong Phật giáo, dạy về chân tâm bản tánh vốn thanh tịnh sáng suốt, cách nhận biết và đoạn trừ vọng tưởng, hàng phục ma chướng, và phương pháp tu tập shamatha, samadhi, dhyana để chứng ngộ đạo Bồ Đề. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do vô minh mà luân hồi, và chỉ rõ con đường trực chỉ chân tâm để giải thoát.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 1

Đề Mục Kinh

Kinh Đại Phật Đỉnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm (Suramgama), gọi tắt là Kinh Thủ Lăng Nghiêm.

Sa môn tên là Bát Lạt Mật Đế, người Thiên Trúc dịch.

Sa môn tên là Di Già Thích Ca người Ô Tràng, dịch theo tiếng Trung Quốc.

Đệ tử thụ Bồ tát giới, tên là Phòng Dung, chức Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự, ghi chép lời dịch.

Phần Thứ Nhất – Phần Tựa

Chương I - Tựa Chung

Như vậy tôi được nghe trong một thời, Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn thành Thất La Phiệt, cùng với chúng đại tỷ khưu một nghìn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc vô lậu Đại A la hán. Các vị Phật tử trụ trì, khéo vượt trên chư hữu, ở các quốc độ đầy đủ uy nghi, theo Phật chuyển Pháp luân, có khả năng thật hiện lời di chúc nhiệm mầu của Phật, nghiêm giữ giới luật thanh tịnh để làm khuôn phép cho ba cõi, hiện thân vô số, cứu vớt chúng sinh, tột đời vị lai, khỏi các trần lụy. Các vị tên là: Đại trí Xá Lợi Phất, Ma ha Mục Kiền Liên, Ma ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đà La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà làm thượng thủ.

Lại có vô số các vị Bích chi vô học và sơ tâm đồng đến chỗ Phật giảng đạo. Nhằm ngày các vị tỷ khưu mãn hạ tự tứ, các vị Bồ tát, từ mười phương đến, xin Phật giải quyết nghi hoặc, kính vâng đức Từ Nghiêm, thỉnh cầu nghĩa thâm mật. Đức Như Lai giải pháp tọa, ngồi khoan thai, vì cả trong Hội tỏ bày nghĩa sâu. Chúng Hội thanh tịnh được pháp chưa từng có. Giọng nói của Phật hòa nhã như tiếng chim ca lăng tầng già, nghe khắp mười phương. Hằng sa Bồ tát đều đến đạo trường, có ngài Văn Thù Sư Lợi làm thượng thủ.

Chương II - Tựa Riêng

Duyên Khởi Của Kinh

Khi ấy vua Ba Tư Nặc, nhân ngày kỵ phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thụ trai nơi cung cấm; vua sắm đủ các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ Tát. Trong thành lại có các trưởng giả cư sĩ đồng thời cùng trai tăng, chờ Phật đến chứng. Phật khiến ngài Văn Thù chia lãnh các vị Bồ Tát và A la hán đi đến các nhà trai chủ.

Duy có ông A Nan trước đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng chúng. Ông về một mình, không có Thượng tọa và A Xà Lê cùng đi và ngày ấy cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ ông cầm bình bát vào trong một thành trên đường đi, theo thứ lớp khất thực; tâm ông trước hết cầu được một người tối hậu đàn việt làm trai chủ, không kể sang hèn, phát tâm làm sao cho tất cả chúng sinh được viên thành vô lượng công đức. Ông A Nan đã biết đức Phật Thế Tôn quở ông Tu Bồ Đề và ông Đại Ca Diếp làm A la hán mà tâm không công bằng. Ông kính vâng lời dạy vô giá của Phật độ thoát mọi điều chê bai nghi hoặc. Ông đến bên thành, thong thả vào cửa, uy nghi nghiêm chỉnh, kính giữ phép hóa trai.

Trong khi khất thực, ông A Nan đi qua nhà người dâm nữ Ma Đăng Già, bị phép huyễn thuật. Nàng ấy dùng tà chú Tiên phạm thiên đạo Sa Tỳ Ca La bắt vào phòng riêng, dựa kề vuốt ve làm cho ông A Nan gần phá giới thể. Đức Như Lai biết ông A Nan mắc phải dâm thuật, nên dùng trai rồi, liền trở về tịnh xá. Vua cùng đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, mong nghe những pháp chủ yếu của đạo Phật.

Khi ấy trên đỉnh đức Thế Tôn, phóng hào quang bách bảo vô úy; trong hào quang hiện ra tòa sen báu nghìn cánh, có hóa thân của Phật kết già ngồi trên, tuyên đọc thần chú, khiến ngài Văn Thù đem chú nầy đến giúp đỡ, tiêu diệt tà chú, đưa ông A Nan cùng nàng Ma Đăng Già đều về chỗ Phật ở. Ông A Nan thấy Phật, đỉnh lễ khóc lóc, giận mình từ vô thủy đến nay, một bề học rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực, tha thiết xin Phật dạy cho những phép Xa Ma Tha, Tam Ma, Thiền Na, là những phương tiện tu hành đầu tiên để thành đạo Bồ Đề của thập phương Như Lai. Lúc ấy lại có hằng sa Bồ tát, Đại A la hán và Bích chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe Phật dạy, lui về chỗ ngồi, yên lặng lĩnh thụ thánh chỉ của Phật.

Phần Thứ Hai - Phần Chính Tông

Chương I - Chỉ Ngay Chỗ Viên Ngộ

Mục I - Gạn Hỏi Cái Tâm

Đoạn I - Nêu Trước Nguyên Do Của Thường Trụ Và Lưu Chuyển

Phật bảo ông A Nan: "Tôi với ông đồng phái, tình như anh em ruột; lúc ông mới phát tâm thì ở trong Phật pháp, thấy những tướng tốt gì mà bỏ được những ân ái sâu nặng thế gian?" Ông A Nan bạch Phật: "Tôi thấy 32 tướng của Như Lai tốt đẹp lạ thường, hình thể sáng suốt như ngọc lưu ly, thường tự suy nghĩ: Tướng ấy không thể do dục ái sinh ra, vì sao? Giống dâm dục nhơ nhớp, tanh hôi kết cấu, máu mủ xen lộn, làm sao sinh được thân vàng thắm chói trong sạch sáng suốt như vậy, nên tôi ước mong, cắt tóc theo Phật tu học".

Phật dạy: "Hay thay, A Nan, các ông nên biết hết thảy chúng sinh từ vô thủy đến nay sống chết nối nhau, đều do không biết chân tâm thường trụ, tánh tịnh minh thể, dùng các vọng tưởng, vọng tưởng này không thật, nên có luân chuyển. Nay ông muốn cứu cánh nghiên cứu vô thượng bồ đề, phát minh chân tánh, nên dùng tâm ngay thẳng đáp lời tôi hỏi. Mười phương Như Lai, do tâm ngay thẳng mà thoát sinh tử, tâm ngôn đều thẳng, từ đầu đến cuối, ở giữa cũng không cong queo. Tôi hỏi ông, khi ông phát tâm, vì thấy 32 tướng sáng tốt của Như Lai, vậy ông lấy gì thấy và lấy gì thích?" Ông A Nan thưa: "Tôi dùng tâm và mắt, mắt thấy tướng tốt của Phật, tâm sinh mến thích, vì vậy phát tâm, nguyện ra khỏi sinh tử".

Phật dạy: "Như lời ông nói, chỗ mến thích là do tâm và mắt. Nếu ông không biết tâm mắt ở đâu, thì không thể hàng phục trần lao. Như đánh giặc, vua sai binh trừ giặc, phải biết giặc ở đâu. Làm ông lưu chuyển lỗi tại tâm mắt. Tôi hỏi ông, tâm mắt hiện ở chỗ nào?" Ông A Nan thưa: "Tất cả mười loại chúng sinh trong thế gian, đều cho cái tâm hiểu biết ở trong thân. Tôi thấy con mắt sen xanh của Phật cũng ở trên mặt Phật. Nay tôi quan sát bốn đại thô phù là các căn của tôi, chỉ ở trước mặt, còn cái tâm hiểu biết quả ở trong thân".

Phật dạy: "Ông nay ngồi trong giảng đường của tôi, thấy gì trước hết?" Ông A Nan thưa: "Tôi ở trong giảng đường nhiều tầng rộng lớn thanh tịnh này, trước hết thấy Như Lai, thứ đến thấy chúng, rồi nhìn ra ngoài thấy cây cối vườn rừng". Phật dạy: "Ông nhìn ra vườn rừng, do đâu mà thấy?" Ông A Nan thưa: "Giảng đường này cửa sổ mở rộng, nên tôi ngồi trong này thấy thông ra ngoài". Phật bảo ông A Nan: "Như lời ông nói, ngồi trong giảng đường cửa mở, thấy rừng suối ở ngoài, lẽ đâu người ấy không thấy Phật, mà thấy rừng suối?" Ông A Nan thưa: "Không thể không thấy Phật mà thấy rừng suối ở ngoài". Phật dạy: "Đúng vậy".

Đoạn II - Chấp Tâm Ở Trong Thân

Phật bảo ông A Nan: "Ông nay trong giảng đường, cửa sổ mở rộng, thấy rừng suối ở ngoài, lẽ đâu cái tâm hiểu biết của ông ở trong thân, mà không thấy mắt tai mũi lưỡi ở trong, lại thấy rừng suối ở ngoài. Nếu thấy trong thân, thì trước hết phải thấy ruột gan móng vuốt, tóc lông sinh trưởng, gân chuyển mạch rung. Lại sao không thấy? Nếu không thấy trong, sao thấy ngoài?" Ông A Nan thưa: "Thấy trong thân thì không phải ở trong thân". Phật dạy: "Giả sử đèn ở ngoài phòng, sao có thể soi trong phòng? Nếu tâm ông hiểu biết ở trong thân, thì không thấy trong, giống đèn ở ngoài phòng, không soi được trong phòng. Lời này không lầm, sao trái với nghĩa Như Lai?".

Đoạn III - Chấp Tâm Ở Ngoài Thân

Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, như Phật dạy, không thấy trong, nên không ở trong thân. Thân tâm biết nhau, không rời nhau, nên không ở ngoài thân. Nay con nghĩ tâm ở một chỗ nào đó giữa hai cái". Phật dạy: "Ông nói tâm ở giữa, cái giữa ấy không được mơ hồ. Sao ông cho là giữa? Chỗ giữa ấy, ở trên thân, hay ở chỗ khác? Nếu ở trên thân, thì ở giữa bề mặt, tức là ngoài, không phải giữa. Nếu ở giữa trong thân, thì giống như ở trong. Nếu ở chỗ khác, thì có dấu biết, hay không dấu biết? Nếu không dấu biết, thì như không. Nếu có dấu biết, thì có phương hướng, như ở giữa thân. Ông tự xem, cái giữa ấy chỉ vào đâu?" Ông A Nan thưa: "Cái tâm suy lường này không ở trong ngoài và giữa, thật như Phật dạy, thân tâm biết nhau, không rời nhau, do ba chỗ quyết định, tâm ở trong thân".

Phật dạy: "Cái tâm của ông nếu ở giữa thân và cánh tay, thì có tự tánh, khi ở trong thân thì thấy trong thân, khi gặp vật ngoài thì thấy ngoài thân. Ví như có người lấy chén lưu ly đậy hai con mắt, tuy có vật đậy, nhưng tánh con mắt không thương tổn, mắt liền thấy vật. Cái tâm ông nếu biết, gặp vật ngoài thì tâm có theo ra biết không? Nếu theo ra biết, thì thấy ruột gan trong thân, sao gọi là biết trong? Nếu không theo ra, thì không thấy vật ngoài. Sao ông nói tâm ở giữa thân biết nhau với thân? Lời này không đúng".

Đoạn IV - Chấp Tâm Ở Chỗ Sở Duyên

Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, con nghe Phật nói với Văn Thù v.v., tâm không ở trong không ở ngoài. Con nghĩ nếu ở trong thì không thấy ngoài, nếu ở ngoài thì thân tâm không biết nhau. Nay thân tâm biết nhau, mà không thấy trong, tất tâm ở giữa". Phật dạy: "Ông nói giữa, cái giữa ấy phải chỉ rõ. Nay cái giữa ấy ở chỗ nào? Ở trên đất, ở trên hư không, hay ở trên thân? Nếu ở trên thân, ở bề mặt thì không phải giữa, ở trong thì giống như ở trong. Nếu ở trên đất, thì có chỗ dính, chỗ không dính. Nếu không dính, thì như hư không, nếu dính thì như vật. Vật có dấu biết, hư không vô tri, sao thành giữa? Nếu ở trên hư không, thì trên dưới không giữa, khắp mười phương thì không giữa. Ông không biết, trong Như Lai tàng, tánh biết là chân không, tánh không là chân biết, thanh tịnh bản nhiên, đầy khắp pháp giới, tùy chúng sinh tâm, ứng sở tri lượng. Một người ở giữa, thì giữa một người, mười phương hư không cũng vậy. Các giữa không có chỗ nhất định, thì biết giữa ở đâu? Không có chỗ nhất định, tức là hư vọng, không phải chân thật. Vậy tâm ông không ở giữa".

Đoạn V - Chấp Tâm Ở Chỗ Sở Duyên

Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, con cùng các bạn đường, như Phú Lâu Na và Mục Kiền Liên, cho tâm ở chỗ phân biệt. Như con suy nghĩ, phân biệt, cái hay biết này vì có đối duyên, duyên sở thì ở chỗ duyên. Không phải trong ngoài giữa, không có chỗ nhất định". Phật dạy: "Ông nói ở chỗ duyên, cái duyên ấy có di động hay không? Nếu di động, thì như ở giữa, nếu không di động, thì như ở một chỗ. Duyên sở không phải không chỗ, mà nói có chỗ. Duyên trên sở duyên, sở duyên phi sở, sở duyên phi duyên, hỗn loạn không chỗ. Vậy tâm ông không ở chỗ duyên".

Đoạn VI - Chấp Tâm Ở Phi Sở Hữu

Ông A Nan bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, xưa Phật dạy Văn Thù Sư Lợi v.v., cái thấy không thấy tối là thấy. Tâm không thấy trong là tâm. Con nghĩ cái thấy trước mắt là tâm". Phật duỗi tay vàng bóp đầu A Nan, bảo: "A Nan, cái thấy trước mắt không phải tâm". A Nan thưa: "Đó là tâm con". Phật quở: "Không phải". A Nan đứng dậy bạch Phật: "Nếu không phải tâm, thì là gì?" Phật dạy: "Đó là tiền trần hư vọng tướng, không phải tâm ông. Ông chạy trốn nó, nó theo ông. Nếu không phải tâm, thì sao gọi là tâm?".

Đoạn VII - Chấp Tâm Ở Sở Hữu

Ông A Nan thưa: "Bạch Thế Tôn, con không phải Mục Kiền Liên v.v., họ ngộ được tâm viên minh thường trụ, con chưa ngộ, xin Phật thương xót chỉ dạy". Phật từ bi bảo A Nan và đại chúng: "Các ông còn dùng攀緣 tâm nghe pháp, pháp cũng thành sở duyên, chưa được pháp tánh. Như người chỉ mặt nguyệt, chỉ là chỉ, nguyệt là nguyệt. Pháp tôi dạy các ông cũng vậy. Nếu cho cái thấy nghe suy lường là tâm, thì tâm ấy phải rời các trần sắc thanh hương vị xúc, riêng có toàn tánh. Như ông nay ngồi, rời cái thấy nghe, rời ly hợp, trần tướng, cái hay biết còn lại là tâm. Nếu rời trần tướng, không có phân biệt, thì tâm ấy đồng quy quy tinh. Sao có thể phân biệt pháp tôi? Như người lấy tay bóp hư không, chỉ uổng công, hư không sao bị thương? Phật nói chân tâm, ông cho không phải, như người chỉ vật, vật không phải chỉ. Ông lấy trần làm tâm, nên bị luân chuyển. Từ đầu đến nay, ông nhận giặc làm con, mất nguyên thường, nên bị luân chuyển".

A Nan thưa: "Bạch Thế Tôn, nếu cái hay biết ấy là con, sao con không biết? Cái hay biết ấy không rời con, sao không phải chân tâm?" Phật dạy: "Tất cả chúng sinh từ vô thủy, các vọng tưởng tồn tại, chưa từng nhận bốn đại thường trụ, nhân đó sinh diệt. Ông nay chưa ngộ, cho sinh diệt là tâm. Nên biết chân tâm vô sở trụ, bất sinh bất diệt".

A Nan thưa: "Bạch Thế Tôn, trước con chưa được Phật chỉ dạy, cho tâm như của Ca Lưu Đà Di, ở ngoài thân, nay được Phật khai thị, con dùng tâm nhận, miệng nói, mắt thấy, tay chỉ, đó là tâm con. Nếu không phải, thì là gì?" Phật dạy: "A Nan, đó không phải tâm ông". A Nan kêu to, bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, không phải tâm con, thì gọi là gì?" Phật dạy: "Đó là tiền trần hư vọng tướng, mê hoặc ông chân tánh. Do mê chân tánh, từ vô thủy đến nay, nhận giặc làm con, mất nguyên thường, nên bị luân chuyển".

Mục II - Chỉ Cột Nút Để Chỉ Đầu Nút

Phật bảo A Nan: "Ông tuy nhớ rõ mười hai bộ kinh, nhưng đối với nghĩa liễu của Phật, chưa thông suốt. Nay tôi chỉ cho ông". Phật lấy khăn hoa buộc sáu nút, hỏi A Nan: "Cái này là gì?" A Nan thưa: "Khăn hoa". Phật buộc sáu nút, hỏi: "Cái nút thứ nhất gọi là gì?" A Nan thưa: "Nút". Phật buộc các nút khác, hỏi tương tự. Phật nói: "Sao khăn một, nút sáu?" A Nan thưa: "Khăn bản một, nút do buộc mà có". Phật dạy: "Sáu nút không phải một, một không phải sáu. Theo ý ông, sáu và một đồng thời, hay thứ lớp?" A Nan thưa: "Đồng thời". Phật dạy: "Nếu đồng thời, thì khi buộc ba nút đầu, sao gọi nút thứ ba? Không lẽ nút thứ ba là nút thứ nhất?" A Nan thưa: "Khăn một, nút nhiều, nút thứ nhất không phải thứ hai, thứ sáu không phải thứ nhất". Phật dạy: "Sáu nút tuy khác, nhưng khăn thể một, không thể lẫn lộn. Cái tâm ông cũng vậy, cứu cánh minh liễu, không thể lẫn lộn".

Mục III - Chỉ Cởi Nút Trước Sau

Phật dạy: "Nếu ông không thích sáu nút, thích một khăn, thì cởi nút thứ sáu". A Nan thưa: "Nếu cởi nút thứ sáu, thì các nút khác vẫn còn". Phật dạy: "Sáu căn cũng vậy, đầu cởi thô trược, cuối cùng vi tế". Phật cầm khăn hỏi: "Cởi nút, khăn có hủy không?" A Nan thưa: "Không". Phật cởi từng nút, hỏi: "Sao không cởi nút thứ ba trước?" A Nan thưa: "Nút có thứ lớp". Phật dạy: "Sáu căn cởi cũng vậy, đầu cởi thô, sau cởi tế, cứu cánh viên minh".

A Nan thưa: "Nay con cởi nút, thấy không nút, là khăn bản. Sao Phật nói không phải khăn, không phải nút?" Phật dạy: "Ta đầu hỏi ông khăn một nút sáu, ông nói đúng. Nay xem kỹ, khăn do tơ, màu do nhuộm, nút do buộc. Ông còn chấp tướng, sao trách ta?" A Nan thưa: "Nếu không phải khăn nút, thì không có sáu một. Xin Phật cởi nút cho con". Phật cầm khăn kéo mạnh, hỏi: "Sao?" A Nan thưa: "Không cởi". Phật dạy: "Ta kéo mạnh không cởi, ông kéo một đầu, sao cởi?" A Nan thưa: "Phải cởi từ nút gần". Phật dạy: "Đúng vậy, phải cởi từ nút gần, không thể cách nút mà cởi. Ta thường nói các căn bản chân tâm thanh tịnh. Ông phải phát minh sáu căn hư vọng, cởi nút từ gần, nút kia tự cởi, được samadhi, gọi là Bồ Đề Niết Bàn".

Việc nghe và trì niệm Kinh Thủ Lăng Nghiêm mang lại lợi ích vô lượng, như tiêu trừ nghiệp chướng nặng nề từ vô thủy, hàng phục ma chướng ngoại đạo, tăng trưởng trí huệ bồ đề, bảo hộ khỏi tai ương ác đạo, giúp chứng ngộ chân tâm bản tánh, thành tựu quả vị Phật, và mang lại an lạc viên mãn trong hiện tại lẫn vị lai.

...more
View all episodesView all episodes
Download on the App Store

8 Bộ Kinh Phật Thường Được Đọc Tụng Niệm_Phiên bản 1.1By Nguoi Mien Trung