
Sign up to save your podcasts
Or


Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh) là một bộ kinh Đại thừa quan trọng trong Phật giáo, dạy về chân tâm bản tánh vốn thanh tịnh sáng suốt, cách nhận biết và đoạn trừ vọng tưởng, hàng phục ma chướng, và phương pháp tu tập shamatha, samadhi, dhyana để chứng ngộ đạo Bồ Đề. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do vô minh mà luân hồi, và chỉ rõ con đường trực chỉ chân tâm để giải thoát.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 2
Tánh Thấy Không Sinh Diệt
Khi ấy ông A Nan cùng cả đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thủy đến nay, bỏ mất bản tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần làm tâm, ngày nay được khai ngộ như em bé mất sữa, bỗng gặp mẹ hiền, chắp tay lễ Phật, xin Đức Như Lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ vọng, chỗ hư chỗ thật, ở nơi hiện tiền phát minh ra hai tánh sinh diệt, và không sinh diệt.
Khi ấy vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật:
Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy bảo, tôi thấy bọn Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử đều nói thân này chết rồi là mất hẳn và gọi đó là Niết bàn; nay tuy được gặp Phật nhưng tôi vẫn còn hồ nghi, xin Phật chỉ rõ thế nào chứng biết tánh không sinh diệt nơi tâm này. Hiện nay các hàng hữu lậu trong đại chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.
Phật bảo:
Đại vương, thân ông hiện đó, nay tôi hỏi ông: Cái nhục thân đó của ông có như kim cang thường còn, không hư hỏng hay lại cũng biến đổi và tan rã?
Bạch Thế Tôn, thân tôi hiện nay rốt cuộc về sau cũng thay đổi và tiêu diệt.
Phật bảo:
Đại vương, ông chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải diệt?
Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường thay đổi của tôi đây, tuy chưa hề bị diệt; song tôi xét nó hiện nay niệm niệm dời đổi, mãi mãi không thôi như lửa thành tro, lần lần tiêu mất; vì tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất.
Phật dạy:
Đúng thế, đại vương, tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn bé thì như thế nào?
Bạch Thế Tôn, lúc tôi bé nhỏ, da thịt mướt mị, đến khi trưởng thành, huyết khí sung túc; nay thì tuổi già, ngày thêm suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần lẫn lộn, tóc bạc mặt nhăn, chừng sống không được bao lâu nữa, so sánh sao được với lúc đương còn trẻ mạnh!
Phật bảo:
Đại vương, hình dung của ông, nào phải đương trẻ mà già liền đâu?
Vua bạch:
Thưa Thế Tôn, sự biến hóa thầm thầm dời đổi, tôi thật không hay; nắng mưa thấm thoát, lần đến thế nầy. Vì sao? Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ, nhưng mặt mày của tôi đã già hơn khi 10 tuổi; khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20 tuổi và đến nay đã 60 lại thêm hai tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khỏe mạnh hơn nhiều.
Bạch Thế Tôn, tôi thấy thầm thầm dời đổi như thế; thân nầy đến nay tuy đã suy yếu, nhưng trong sự thay đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu tôi suy xét chín chắn hơn nữa thì cái biến đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi thay đổi; lại đâu mỗi năm mỗi thay đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến hóa; lại không những mỗi tháng mỗi biến hóa mà còn mỗi ngày mỗi đổi thay; xét cho cùng, nghĩ cho kỹ, trong mỗi sát na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân tôi rốt cuộc phải biến đổi và tiêu diệt.
Phật bảo:
Đại vương, ông thấy biến hóa dồi đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?
Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật:
Thật tôi không biết.
Phật bảo:
Nay tôi chỉ cho ông cái tánh không sinh diệt, đại vương, khi ông mấy tuổi, mới thấy nước sông Hằng.
Vua bạch:
Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết lễ thần Kỳ Bà Thiên thì đã đi qua sông ấy; lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng.
Phật bảo:
Đại vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dồi đổi mãi mãi; vậy khi ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?
Vua bạch:
Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn không khác.
Phật bảo:
Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng, có già trẻ gì không?
Vua bạch:
Thưa Thế Tôn, không.
Phật bảo:
Đại vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị nhăn thì thay đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay đổi. Cái thay đổi thì phải diệt, còn cái không thay đổi kia, vốn không sinh diệt, làm sao trong ấy, lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt Già Lê kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn.
Vua nghe lời Phật dạy như vậy, tin biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với đại chúng nhảy nhót vui mừng, được cái chưa từng có.
Tánh Thấy Không Bị Mất
Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ dài bạch Phật:
Thưa Thế Tôn, nếu cái thấy nghe đó thật không sinh diệt thì làm sao Đức Thế Tôn lại gọi bọn chúng tôi bỏ mất chân tánh, làm việc trái ngược? Xin Phật mở lòng từ bi, rửa sạch trần cấu cho chúng tôi.
Khi ấy Đức Như Lai rũ cánh tay kim sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo ông A Nan rằng:
Ông nay thấy tay Mẫu đà la tôi là chính hay là ngược?
Ông A Nan bạch:
Chúng sinh thế gian cho đó là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là chính, thế nào là ngược.
Phật bảo ông A Nan:
Nếu người thế gian cho đó là ngược, thì người thế gian gọi thế nào là chính?
Ông A Nan bạch Phật:
Đức Như Lai đưa cánh tay lên, tay Đâu la miên chỉ lên trên không thì gọi là chính.
Phật liền giơ cánh tay lên và bảo ông A Nan rằng:
Cái trái ngược như thế, chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau; các người thế gian lắp đi lắp lại mà xem thấy. Nay lấy cái thân ông và Pháp thân thanh tịnh của chư Như Lai, so theo đó mà phát minh, thì thân của Như Lai gọi là chánh biến tri, thân của các ông gọi là tánh trái ngược; tùy ông xét kỹ nơi thân ông và thân Phật, cái gọi là trái ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là trái ngược?
Khi ấy ông A Nan cùng cả đại chúng chăm chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay động, chẳng biết thân tâm chỗ nào trái ngược. Phật phát lòng từ bi, thương xót ông A Nan và đại chúng, phát tiếng hải triều, khắp bảo trong hội:
Các Thiện nam tử, tôi thường nói rằng: Sắc, tâm, các duyên và các tâm sở, các pháp sở duyên, đều duy tâm tánh biến hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra trong tâm tánh. Làm sao các ông lại bỏ mất tâm tánh quý báu ấy, nhận cái mê trong ngộ. Mê muội thành có hư không, trong hư không mê muội ấy, kết cái mê muội thành ra có sắc; sắc xen với vọng tưởng; tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay động bên trong, giong ruổi theo cảnh vật bên ngoài; rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng đó làm tâm tánh.
Một phen lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết định lầm cho rằng tâm ở trong sắc thân, mà không biết sắc thân, cho đến núi sông, hư không, đất liền bên ngoài đều là những vật hiện trong tâm tánh; ví như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một cái bọt nước; rồi cho nó là toàn hết cả nước, cùng tột các biển lớn.
Bọn ông tức là những người mê lầm nhiều lớp, như cánh tay tôi rũ xuống, không có sai khác. Như Lai gọi là đáng thương xót đó.
Ông A Nan vâng nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà bạch Phật rằng:
Tuy tôi vâng nghe diệu âm của Phật như vậy, ngộ được chỗ thường trụ viên mãn sẵn có của tâm tánh, nhưng tôi ngộ được pháp âm của Phật vừa dạy là tôi hiện lấy tâm phan duyên mà thỏa mãn chỗ ước mong.
Tôi luống được tâm ấy, chưa dár nhận là tâm tánh bản lai; mong Phật thương xót, tuyên lời viên âm, nhổ gốc nghi ngờ của tôi, đem về đạo vô thượng.
Phật bảo ông A Nan:
Bọn ông còn lấy tâm phan duyên mà nghe pháp thì cái pháp nhận được đó cũng chỉ là sở duyên, chứ không phải nhận được pháp tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác thì người kia lẽ ra phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng.
Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó là mặt trăng thì người ấy chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay chỉ nữa.
Vì sao? Vì nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng vậy. Đâu những bỏ mất ngón tay lại cũng không phân biệt được sáng và tối.
Vì sao? Vì lấy ngón tay tối làm mặt trăng sáng thì không rõ biết được hai tánh sáng tối. Ông cũng như vậy. Nếu lấy cái phân biệt pháp âm tôi làm tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời cái phân biệt tiếng nói, có tánh phân biệt.
Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, rốt cuộc ở mãi không được, còn người giữ trạm thì không đi đâu, gọi là chủ trạm. Tâm cũng như vậy, nếu thật tâm ông thì không đi đâu, làm sao rời cái tiếng, lại không có tánh phân biệt?
Nói như thế chẳng những đối với tâm phân biệt các tiếng; cái phân biệt hình dung của tôi, rời các sắc tướng, cũng không có tánh phân biệt; như vậy cho đến cái phân biệt đều không, không phải sắc, không phải không, mà bọn Câu Xá Ly lầm là minh đế, thì rời các Pháp trần, cũng không tánh phân biệt.
Như vậy tâm tánh của ông đều có chỗ trả về, lấy gì mà làm chủ?
Cái Không Thể Trả Về
Ông A Nan bạch:
Như tâm tánh của tôi đều có chỗ trả về, thì tâm tánh diệu minh bất diệt của Như Lai làm sao lại không có chỗ trả về?
Xin Phật thương xót chỉ bảo cho tôi điều ấy.
Phật bảo ông A Nan:
Hãy lấy cái tánh thấy của ông thấy tôi đây. Tánh thấy ấy tuy không phải là tâm tánh diệu minh, nhưng nó như mặt trăng thứ hai, chứ không phải bóng của mặt trăng.
Ông hãy nghe cho chín, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.
A Nan, đại giảng đường nầy mở rộng phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm vắng trăng, mây mù mờ mịt thì lại tối tăm; chỗ có các cửa thì thấy thông suốt; chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bít; chỗ phân biệt được, thấy cảnh sở duyên; trong chỗ rỗng trống, toàn là hư không; cảnh tượng mù mịt khi bụi dấy lên; mưa tạnh trời quang thì lại thấy trong lặng.
A Nan, ông hãy xem các tướng biến hóa nầy, nay tôi đều trả về nơi xuất phát của nó.
Thế nào là nơi xuất phát? A Nan, các tướng biến hóa nầy, sáng trả về cho mặt trời. Vì sao? Vì nếu không có mặt trời thì không có sáng. Nguyên nhân cái sáng là do mặt trời, nên trả về cho mặt trời là đúng.
Tối trả về cho mây mù. Vì sao? Vì không mây mù thì không tối; nguyên nhân cái tối là do mây mù, nên trả về cho mây mù là đúng.
Thông suốt trả về cho cửa sổ. Vì sao? Vì không cửa thì không thông suốt; nguyên nhân cái thông suốt là do cửa, nên trả về cho cửa là đúng.
Ngăn bít trả về cho tường nhà. Vì sao? Vì không tường nhà thì không ngăn bít; nguyên nhân cái ngăn bít là do tường nhà, nên trả về cho tường nhà là đúng.
Cảnh sở duyên trả về cho phân biệt. Vì sao? Vì không phân biệt thì không cảnh sở duyên; nguyên nhân cái cảnh sở duyên là do phân biệt, nên trả về cho phân biệt là đúng.
Hư không trả về cho rỗng trống. Vì sao? Vì không rỗng trống thì không hư không; nguyên nhân cái hư không là do rỗng trống, nên trả về cho rỗng trống là đúng.
Mù mịt trả về cho bụi dấy. Vì sao? Vì không bụi dấy thì không mù mịt; nguyên nhân cái mù mịt là do bụi dấy, nên trả về cho bụi dấy là đúng.
Trong lặng trả về cho mưa tạnh trời quang. Vì sao? Vì không mưa tạnh thì không trong lặng; nguyên nhân cái trong lặng là do mưa tạnh, nên trả về cho mưa tạnh là đúng.
A Nan, các tướng như thế đều có chỗ trả về. Nay ông lại xem, cái thấy các tướng ấy là cái gì? Nó trả về cho ai?
A Nan, nếu trả về cho sáng thì khi tối đến sao không thấy tối? Nếu thấy tối thì không phải là cái thấy trả về cho sáng.
Nếu trả về cho tối thì khi sáng đến sao không thấy sáng? Nếu thấy sáng thì không phải là cái thấy trả về cho tối.
Nếu trả về cho thông suốt thì khi ngăn bít sao không thấy ngăn bít? Nếu thấy ngăn bít thì không phải là cái thấy trả về cho thông suốt.
Nếu trả về cho ngăn bít thì khi thông suốt sao không thấy thông suốt? Nếu thấy thông suốt thì không phải là cái thấy trả về cho ngăn bít.
Nếu trả về cho cảnh sở duyên thì khi rỗng trống sao không thấy rỗng trống? Nếu thấy rỗng trống thì không phải là cái thấy trả về cho cảnh sở duyên.
Nếu trả về cho rỗng trống thì khi cảnh sở duyên sao không thấy cảnh sở duyên? Nếu thấy cảnh sở duyên thì không phải là cái thấy trả về cho rỗng trống.
Nếu trả về cho mù mịt thì khi trong lặng sao không thấy trong lặng? Nếu thấy trong lặng thì không phải là cái thấy trả về cho mù mịt.
Nếu trả về cho trong lặng thì khi mù mịt sao không thấy mù mịt? Nếu thấy mù mịt thì không phải là cái thấy trả về cho trong lặng.
A Nan, cái thấy ấy vốn không có chỗ trả về. Nó không phải là cái thấy của ông, cũng không phải là cái thấy của tôi. Nó là chân tánh thấy, không sinh không diệt, không đến không đi, không phải sáng không phải tối, không phải thông suốt không phải ngăn bít, không phải cảnh sở duyên không phải rỗng trống, không phải mù mịt không phải trong lặng.
Nó là diệu minh chân tánh, vốn sẵn có, không thể trả về đâu cả.
Việc nghe và trì niệm Kinh Thủ Lăng Nghiêm mang lại lợi ích vô lượng, như tiêu trừ nghiệp chướng nặng nề từ vô thủy, hàng phục ma chướng ngoại đạo, tăng trưởng trí huệ bồ đề, bảo hộ khỏi tai ương ác đạo, giúp chứng ngộ chân tâm bản tánh, thành tựu quả vị Phật, và mang lại an lạc viên mãn trong hiện tại lẫn vị lai.
By Nguoi Mien TrungKinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh) là một bộ kinh Đại thừa quan trọng trong Phật giáo, dạy về chân tâm bản tánh vốn thanh tịnh sáng suốt, cách nhận biết và đoạn trừ vọng tưởng, hàng phục ma chướng, và phương pháp tu tập shamatha, samadhi, dhyana để chứng ngộ đạo Bồ Đề. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do vô minh mà luân hồi, và chỉ rõ con đường trực chỉ chân tâm để giải thoát.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 2
Tánh Thấy Không Sinh Diệt
Khi ấy ông A Nan cùng cả đại chúng nghe lời Phật dạy, thân tâm thư thái, nghĩ mình từ vô thủy đến nay, bỏ mất bản tâm, lầm nhận sự phân biệt bóng dáng tiền trần làm tâm, ngày nay được khai ngộ như em bé mất sữa, bỗng gặp mẹ hiền, chắp tay lễ Phật, xin Đức Như Lai, ở nơi thân tâm, chỉ ra chỗ chân chỗ vọng, chỗ hư chỗ thật, ở nơi hiện tiền phát minh ra hai tánh sinh diệt, và không sinh diệt.
Khi ấy vua Ba Tư Nặc đứng dậy bạch Phật:
Trước tôi chưa được vâng nghe lời Phật dạy bảo, tôi thấy bọn Ca Chiên Diên, Tỳ La Chi Tử đều nói thân này chết rồi là mất hẳn và gọi đó là Niết bàn; nay tuy được gặp Phật nhưng tôi vẫn còn hồ nghi, xin Phật chỉ rõ thế nào chứng biết tánh không sinh diệt nơi tâm này. Hiện nay các hàng hữu lậu trong đại chúng cũng đều trông mong được nghe điều ấy.
Phật bảo:
Đại vương, thân ông hiện đó, nay tôi hỏi ông: Cái nhục thân đó của ông có như kim cang thường còn, không hư hỏng hay lại cũng biến đổi và tan rã?
Bạch Thế Tôn, thân tôi hiện nay rốt cuộc về sau cũng thay đổi và tiêu diệt.
Phật bảo:
Đại vương, ông chưa hề bị diệt, làm sao lại biết được là phải diệt?
Bạch Thế Tôn, cái thân vô thường thay đổi của tôi đây, tuy chưa hề bị diệt; song tôi xét nó hiện nay niệm niệm dời đổi, mãi mãi không thôi như lửa thành tro, lần lần tiêu mất; vì tiêu mất, mãi mãi không dừng nên tôi biết chắc thân này rồi phải diệt mất.
Phật dạy:
Đúng thế, đại vương, tuổi tác của ông nay đã già yếu, vậy mặt mày của ông so với lúc còn bé thì như thế nào?
Bạch Thế Tôn, lúc tôi bé nhỏ, da thịt mướt mị, đến khi trưởng thành, huyết khí sung túc; nay thì tuổi già, ngày thêm suy yếu, hình sắc khô gầy, tinh thần lẫn lộn, tóc bạc mặt nhăn, chừng sống không được bao lâu nữa, so sánh sao được với lúc đương còn trẻ mạnh!
Phật bảo:
Đại vương, hình dung của ông, nào phải đương trẻ mà già liền đâu?
Vua bạch:
Thưa Thế Tôn, sự biến hóa thầm thầm dời đổi, tôi thật không hay; nắng mưa thấm thoát, lần đến thế nầy. Vì sao? Khi 20 tuổi, tuy gọi là trẻ, nhưng mặt mày của tôi đã già hơn khi 10 tuổi; khi 30 tuổi lại sút hơn lúc 20 tuổi và đến nay đã 60 lại thêm hai tuổi, trông lại lúc 50 tuổi, còn khỏe mạnh hơn nhiều.
Bạch Thế Tôn, tôi thấy thầm thầm dời đổi như thế; thân nầy đến nay tuy đã suy yếu, nhưng trong sự thay đổi, còn chia từng 10 năm. Nếu tôi suy xét chín chắn hơn nữa thì cái biến đổi ấy đâu phải từng một kỷ, thật là mỗi năm mỗi thay đổi; lại đâu mỗi năm mỗi thay đổi mà cũng là mỗi tháng mỗi biến hóa; lại không những mỗi tháng mỗi biến hóa mà còn mỗi ngày mỗi đổi thay; xét cho cùng, nghĩ cho kỹ, trong mỗi sát na, trong mỗi niệm, nó không thể đứng yên, vậy nên tôi biết thân tôi rốt cuộc phải biến đổi và tiêu diệt.
Phật bảo:
Đại vương, ông thấy biến hóa dồi đổi không ngừng, ngộ biết là phải diệt; vậy trong lúc diệt đó, ông có biết trong thân có cái gì không diệt chăng?
Vua Ba Tư Nặc chắp tay bạch Phật:
Thật tôi không biết.
Phật bảo:
Nay tôi chỉ cho ông cái tánh không sinh diệt, đại vương, khi ông mấy tuổi, mới thấy nước sông Hằng.
Vua bạch:
Khi tôi ba tuổi, mẹ tôi dắt đi yết lễ thần Kỳ Bà Thiên thì đã đi qua sông ấy; lúc đó tôi liền biết là nước sông Hằng.
Phật bảo:
Đại vương, như lời ông nói: Lúc 20 tuổi thì sút hơn lúc lên 10, cho đến nay đã 60 tuổi, từng năm, từng tháng, từng ngày, từng giờ, dồi đổi mãi mãi; vậy khi ông 3 tuổi thấy nước sông ấy, rồi đến khi 13 tuổi thì nước ấy thế nào?
Vua bạch:
Tôi thấy nước ấy cũng giống khi 3 tuổi, như nhau không khác và đến nay tuổi đã 62, cũng vẫn không khác.
Phật bảo:
Nay ông xét mình đầu bạc mặt nhăn, mặt ông chắc là nhăn hơn lúc trẻ; vậy cái thấy hiện nay của ông thấy sông Hằng so với cái thấy lúc nhỏ thấy sông Hằng, có già trẻ gì không?
Vua bạch:
Thưa Thế Tôn, không.
Phật bảo:
Đại vương, mặt ông tuy nhăn, nhưng cái thấy đó chưa hề bị nhăn; cái bị nhăn thì thay đổi, còn cái không bị nhăn thì không có thay đổi. Cái thay đổi thì phải diệt, còn cái không thay đổi kia, vốn không sinh diệt, làm sao trong ấy, lại nhận sống cái chết của ông, mà ông còn dẫn những thuyết của bọn Mạt Già Lê kia bảo rằng thân này chết rồi diệt hẳn.
Vua nghe lời Phật dạy như vậy, tin biết về sau bỏ thân nầy qua thân khác, cùng với đại chúng nhảy nhót vui mừng, được cái chưa từng có.
Tánh Thấy Không Bị Mất
Ông A Nan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, lễ Phật chấp tay, quỳ dài bạch Phật:
Thưa Thế Tôn, nếu cái thấy nghe đó thật không sinh diệt thì làm sao Đức Thế Tôn lại gọi bọn chúng tôi bỏ mất chân tánh, làm việc trái ngược? Xin Phật mở lòng từ bi, rửa sạch trần cấu cho chúng tôi.
Khi ấy Đức Như Lai rũ cánh tay kim sắc, ngón tay chỉ xuống, bảo ông A Nan rằng:
Ông nay thấy tay Mẫu đà la tôi là chính hay là ngược?
Ông A Nan bạch:
Chúng sinh thế gian cho đó là ngược, còn tôi thì không biết thế nào là chính, thế nào là ngược.
Phật bảo ông A Nan:
Nếu người thế gian cho đó là ngược, thì người thế gian gọi thế nào là chính?
Ông A Nan bạch Phật:
Đức Như Lai đưa cánh tay lên, tay Đâu la miên chỉ lên trên không thì gọi là chính.
Phật liền giơ cánh tay lên và bảo ông A Nan rằng:
Cái trái ngược như thế, chỉ là đầu đuôi thay đổi lẫn nhau; các người thế gian lắp đi lắp lại mà xem thấy. Nay lấy cái thân ông và Pháp thân thanh tịnh của chư Như Lai, so theo đó mà phát minh, thì thân của Như Lai gọi là chánh biến tri, thân của các ông gọi là tánh trái ngược; tùy ông xét kỹ nơi thân ông và thân Phật, cái gọi là trái ngược đó, do ở chỗ nào mà gọi là trái ngược?
Khi ấy ông A Nan cùng cả đại chúng chăm chăm ngó Phật, tròng con mắt không lay động, chẳng biết thân tâm chỗ nào trái ngược. Phật phát lòng từ bi, thương xót ông A Nan và đại chúng, phát tiếng hải triều, khắp bảo trong hội:
Các Thiện nam tử, tôi thường nói rằng: Sắc, tâm, các duyên và các tâm sở, các pháp sở duyên, đều duy tâm tánh biến hiện. Thân ông, tâm ông đều là những vật hiện ra trong tâm tánh. Làm sao các ông lại bỏ mất tâm tánh quý báu ấy, nhận cái mê trong ngộ. Mê muội thành có hư không, trong hư không mê muội ấy, kết cái mê muội thành ra có sắc; sắc xen với vọng tưởng; tưởng tướng làm thân, nhóm các duyên lay động bên trong, giong ruổi theo cảnh vật bên ngoài; rồi lấy cái tướng mờ mịt lăng xăng đó làm tâm tánh.
Một phen lầm cái tướng ấy làm tâm thì quyết định lầm cho rằng tâm ở trong sắc thân, mà không biết sắc thân, cho đến núi sông, hư không, đất liền bên ngoài đều là những vật hiện trong tâm tánh; ví như bỏ cả trăm nghìn biển lớn trong lặng, chỉ nhận một cái bọt nước; rồi cho nó là toàn hết cả nước, cùng tột các biển lớn.
Bọn ông tức là những người mê lầm nhiều lớp, như cánh tay tôi rũ xuống, không có sai khác. Như Lai gọi là đáng thương xót đó.
Ông A Nan vâng nghe lời Phật từ bi cứu độ dạy bảo, khóc lóc tréo tay mà bạch Phật rằng:
Tuy tôi vâng nghe diệu âm của Phật như vậy, ngộ được chỗ thường trụ viên mãn sẵn có của tâm tánh, nhưng tôi ngộ được pháp âm của Phật vừa dạy là tôi hiện lấy tâm phan duyên mà thỏa mãn chỗ ước mong.
Tôi luống được tâm ấy, chưa dár nhận là tâm tánh bản lai; mong Phật thương xót, tuyên lời viên âm, nhổ gốc nghi ngờ của tôi, đem về đạo vô thượng.
Phật bảo ông A Nan:
Bọn ông còn lấy tâm phan duyên mà nghe pháp thì cái pháp nhận được đó cũng chỉ là sở duyên, chứ không phải nhận được pháp tánh. Ví như có người lấy ngón tay chỉ mặt trăng cho người khác thì người kia lẽ ra phải nhân ngón tay mà thấy mặt trăng.
Nếu như người kia xem ngón tay và cho đó là mặt trăng thì người ấy chẳng những bỏ mất mặt trăng mà cũng bỏ mất cả ngón tay chỉ nữa.
Vì sao? Vì nhận ngón tay chỉ làm mặt trăng vậy. Đâu những bỏ mất ngón tay lại cũng không phân biệt được sáng và tối.
Vì sao? Vì lấy ngón tay tối làm mặt trăng sáng thì không rõ biết được hai tánh sáng tối. Ông cũng như vậy. Nếu lấy cái phân biệt pháp âm tôi làm tâm của ông thì cái tâm ấy phải rời cái phân biệt tiếng nói, có tánh phân biệt.
Ví như người khách ngủ trọ quán trạm, ở tạm rồi đi, rốt cuộc ở mãi không được, còn người giữ trạm thì không đi đâu, gọi là chủ trạm. Tâm cũng như vậy, nếu thật tâm ông thì không đi đâu, làm sao rời cái tiếng, lại không có tánh phân biệt?
Nói như thế chẳng những đối với tâm phân biệt các tiếng; cái phân biệt hình dung của tôi, rời các sắc tướng, cũng không có tánh phân biệt; như vậy cho đến cái phân biệt đều không, không phải sắc, không phải không, mà bọn Câu Xá Ly lầm là minh đế, thì rời các Pháp trần, cũng không tánh phân biệt.
Như vậy tâm tánh của ông đều có chỗ trả về, lấy gì mà làm chủ?
Cái Không Thể Trả Về
Ông A Nan bạch:
Như tâm tánh của tôi đều có chỗ trả về, thì tâm tánh diệu minh bất diệt của Như Lai làm sao lại không có chỗ trả về?
Xin Phật thương xót chỉ bảo cho tôi điều ấy.
Phật bảo ông A Nan:
Hãy lấy cái tánh thấy của ông thấy tôi đây. Tánh thấy ấy tuy không phải là tâm tánh diệu minh, nhưng nó như mặt trăng thứ hai, chứ không phải bóng của mặt trăng.
Ông hãy nghe cho chín, nay tôi chỉ cho ông cái nghĩa không thể trả về.
A Nan, đại giảng đường nầy mở rộng phương Đông, khi mặt trời lên thì sáng, nửa đêm vắng trăng, mây mù mờ mịt thì lại tối tăm; chỗ có các cửa thì thấy thông suốt; chỗ có tường nhà thì thấy ngăn bít; chỗ phân biệt được, thấy cảnh sở duyên; trong chỗ rỗng trống, toàn là hư không; cảnh tượng mù mịt khi bụi dấy lên; mưa tạnh trời quang thì lại thấy trong lặng.
A Nan, ông hãy xem các tướng biến hóa nầy, nay tôi đều trả về nơi xuất phát của nó.
Thế nào là nơi xuất phát? A Nan, các tướng biến hóa nầy, sáng trả về cho mặt trời. Vì sao? Vì nếu không có mặt trời thì không có sáng. Nguyên nhân cái sáng là do mặt trời, nên trả về cho mặt trời là đúng.
Tối trả về cho mây mù. Vì sao? Vì không mây mù thì không tối; nguyên nhân cái tối là do mây mù, nên trả về cho mây mù là đúng.
Thông suốt trả về cho cửa sổ. Vì sao? Vì không cửa thì không thông suốt; nguyên nhân cái thông suốt là do cửa, nên trả về cho cửa là đúng.
Ngăn bít trả về cho tường nhà. Vì sao? Vì không tường nhà thì không ngăn bít; nguyên nhân cái ngăn bít là do tường nhà, nên trả về cho tường nhà là đúng.
Cảnh sở duyên trả về cho phân biệt. Vì sao? Vì không phân biệt thì không cảnh sở duyên; nguyên nhân cái cảnh sở duyên là do phân biệt, nên trả về cho phân biệt là đúng.
Hư không trả về cho rỗng trống. Vì sao? Vì không rỗng trống thì không hư không; nguyên nhân cái hư không là do rỗng trống, nên trả về cho rỗng trống là đúng.
Mù mịt trả về cho bụi dấy. Vì sao? Vì không bụi dấy thì không mù mịt; nguyên nhân cái mù mịt là do bụi dấy, nên trả về cho bụi dấy là đúng.
Trong lặng trả về cho mưa tạnh trời quang. Vì sao? Vì không mưa tạnh thì không trong lặng; nguyên nhân cái trong lặng là do mưa tạnh, nên trả về cho mưa tạnh là đúng.
A Nan, các tướng như thế đều có chỗ trả về. Nay ông lại xem, cái thấy các tướng ấy là cái gì? Nó trả về cho ai?
A Nan, nếu trả về cho sáng thì khi tối đến sao không thấy tối? Nếu thấy tối thì không phải là cái thấy trả về cho sáng.
Nếu trả về cho tối thì khi sáng đến sao không thấy sáng? Nếu thấy sáng thì không phải là cái thấy trả về cho tối.
Nếu trả về cho thông suốt thì khi ngăn bít sao không thấy ngăn bít? Nếu thấy ngăn bít thì không phải là cái thấy trả về cho thông suốt.
Nếu trả về cho ngăn bít thì khi thông suốt sao không thấy thông suốt? Nếu thấy thông suốt thì không phải là cái thấy trả về cho ngăn bít.
Nếu trả về cho cảnh sở duyên thì khi rỗng trống sao không thấy rỗng trống? Nếu thấy rỗng trống thì không phải là cái thấy trả về cho cảnh sở duyên.
Nếu trả về cho rỗng trống thì khi cảnh sở duyên sao không thấy cảnh sở duyên? Nếu thấy cảnh sở duyên thì không phải là cái thấy trả về cho rỗng trống.
Nếu trả về cho mù mịt thì khi trong lặng sao không thấy trong lặng? Nếu thấy trong lặng thì không phải là cái thấy trả về cho mù mịt.
Nếu trả về cho trong lặng thì khi mù mịt sao không thấy mù mịt? Nếu thấy mù mịt thì không phải là cái thấy trả về cho trong lặng.
A Nan, cái thấy ấy vốn không có chỗ trả về. Nó không phải là cái thấy của ông, cũng không phải là cái thấy của tôi. Nó là chân tánh thấy, không sinh không diệt, không đến không đi, không phải sáng không phải tối, không phải thông suốt không phải ngăn bít, không phải cảnh sở duyên không phải rỗng trống, không phải mù mịt không phải trong lặng.
Nó là diệu minh chân tánh, vốn sẵn có, không thể trả về đâu cả.
Việc nghe và trì niệm Kinh Thủ Lăng Nghiêm mang lại lợi ích vô lượng, như tiêu trừ nghiệp chướng nặng nề từ vô thủy, hàng phục ma chướng ngoại đạo, tăng trưởng trí huệ bồ đề, bảo hộ khỏi tai ương ác đạo, giúp chứng ngộ chân tâm bản tánh, thành tựu quả vị Phật, và mang lại an lạc viên mãn trong hiện tại lẫn vị lai.