8 Bộ Kinh Phật Thường Được Đọc Tụng Niệm_Phiên bản 1.1

Kinh Lăng Nghiêm_Quyển 5


Listen Later

Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh) là một bộ kinh Đại thừa quan trọng trong Phật giáo, dạy về chân tâm bản tánh vốn thanh tịnh sáng suốt, cách nhận biết và đoạn trừ vọng tưởng, hàng phục ma chướng, và phương pháp tu tập shamatha, samadhi, dhyana để chứng ngộ đạo Bồ Đề. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do vô minh mà luân hồi, và chỉ rõ con đường trực chỉ chân tâm để giải thoát.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 5

Mở Sáu Nút

A Nan bạch Phật rằng: Bạch Thế Tôn, tuy Như Lai đã dạy về hai nghĩa quyết định. Nay xem trong thế gian những người muốn cởi nút, nếu không biết đầu nút ở đâu, thì con tin chắc là những người ấy không cởi được.

Bạch Thế Tôn, con và hàng Thanh Văn hữu học trong hội chúng này cũng như vậy. Từ vô thủy đến nay, chúng con cùng sanh cùng diệt với các thứ vô minh, tuy được căn lành nghe được Phật pháp như vậy. Tuy được gọi là hàng xuất gia, nhưng như người bị sốt rét cách nhật.

Xin nguyện Đức đại từ thương xót kẻ chìm đắm. Nay ngay nơi thân tâm, xin chỉ cho chúng con thế nào là nút buộc, do đâu mà mở ra. Cũng khiến cho chúng sinh khổ não trong đời vị lai thoát khỏi luân hồi, không rơi vào ba cõi.

Nói lời ấy rồi, A Nan và đại chúng gieo năm vóc sát đất, khóc lóc thành khẩn, ngưỡng trông được nghe lời khai thị vô thượng của Như Lai.

Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn thương xót A Nan và hàng hữu học trong chúng hội, lại cũng vì chúng sinh trong đời vị lai, tạo cái nhân xuất thế để làm đạo nhãn cho đời sau.

Đức Phật dùng tay sáng ngời vàng rực như diêm phù đàn xoa đảnh đầu A Nan. Liền khi ấy, các cõi Phật trong 10 phương thế giới đều rung động. Các Đức Như Lai nhiều như số vi trần trong các cõi nước đều có hào quang báu từ đảnh đầu phóng ra.

Hào quang ấy đồng thời từ các cõi nước kia, đến rừng Kỳ Đà, rót xuống đảnh Đức Như Lai, Tất cả đại chúng ở đây đều được điều chưa từng có.

Bấy giờ A Nan và đại chúng đều nghe các Đức Như Lai trong 10 phương nhiều như vi trần đồng thanh bảo A Nan rằng.

Hay thay, A Nan! Ông muốn biết câu sinh vô minh là đầu mối khiến ông phải luân hồi sinh tử, thì nó chính là sáu căn của ông chứ không phải là cái gì khác.

Ông cũng muốn biết Vô thượng bồ đề khiến ông mau được giải thoát an lạc vắng lặng diệu thường, đó cũng chính là sáu căn của ông, chẳng phải gì khác.

A Nan tuy nghe được pháp âm như vậy, nhưng tâm chưa rõ. Cúi đầu bạch Phật: “Tại sao chính sáu căn khiến cho con phải chịu luân hồi sinh tử, và cũng chính sáu căn khiến cho con được an lạc diệu thường chứ không là cái gì khác?”

Đức Phật bảo A Nan: “Căn và trần đồng một gốc, trói và mở chẳng phải là hai. Bản tánh của thức là hư vọng, như hoa đốm giữa hư không.”

A Nan, nhân nơi trần mà phát ra cái biết (của căn), nhân cái căn mà có tướng (của trần). Tướng (phần sở kiến) và kiến (phần năng kiến) đều không có tự tánh, như bó lau gác vào nhau.

Vậy nay chính ông ngay nơi tri kiến, lập nên tướng tri kiến, đó tức là cội gốc vô minh. Chính nơi tri kiến, không có tướng tri kiến, thì đó là vô lậu chân tịnh niết bàn. Làm sao trong ấy còn có vật gì khác? Bây giờ Đức Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này, nên nói kệ rằng:

Trên phương diện chân tánh, các pháp hữu vi là không.

Vì duyên sanh, nên chúng như huyễn.

Vì các pháp là vô vi, nên chẳng sinh chẳng diệt.

Chúng chẳng có thực, như hoa đốm giữa hư không.

Nói vọng để hiển bày cái chơn.

Vọng chơn đều là vọng.

(Chân lý) Vốn chẳng phải chơn lẫn chẳng phải phi chơn.

Làm sao có năng kiến, sở kiến?

(Thức) ở giữa (căn và trần), không có thật tánh.

Thế nên chúng giống như bó lau gác vào nhau.

Buộc và mở cùng một sở nhân.

Thánh và phàm chẳng phải hai đường.

Ông hãy xem tánh chất giữa các cọng lau giao nhau,

Đó chẳng phải là không và có.

Mê mờ nghĩa ấy, tức vô minh.

Hiểu ra nghĩa đó, tức là giải thoát.

Mở nút phải theo thứ lớp.

Khi sáu nút đã được mở, thì một cũng không còn.

Nơi các căn, hãy chọn tánh viên thông.

Được vào dòng, tức thành chánh giác.

Thức A-đà-na rất vi tế.

Tập khí chảy như dòng nước xiết.

Tự tâm chấp lấy tự tâm.

Vốn không phải huyễn, lại thành pháp huyễn.

Chẳng thủ trước, thì chẳng có gì là phi huyễn.

Phi huyễn còn chẳng sinh,

Pháp huyễn làm sao lập?

Đó gọi là Diệu Liên Hoa

Kim Cang Vương Bảo Giác

Như huyễn tam-ma-đề,

Đạn chỉ siêu vô học.

Pháp A-tỳ-đạt-ma nầy,

Chính là con đường duy nhất dẫn đến niết-bàn,

Mà các Đức Thế Tôn (Bạc-già-phạm) trong mười phương đồng tu tập.

Sáu Nút

A Nan chắp tay đảnh lễ bạch Phật: “Con nay nghe Phật mở lòng vô giá đại bi dạy cho chúng con những lời pháp chân thật, thanh tịnh diệu thường. Nhưng tâm chúng con còn chưa được rõ mở từng nút theo thứ lớp, chưa rõ mở sáu nút thì một cũng không còn. Xin Đức Phật lại mở lòng từ bi, thương xót hội chúng này và những chúng sinh trong đời sau, mà ban bố cho pháp âm, để rửa sạch những cấu nhiễm sâu dày của chúng con.”

Liền khi ấy từ toà sư tử, Như Lai chỉnh y niết-bàn tăng, vén y tăng-già-lê, vịn vào bàn thất bảo, tay cầm lên chiếc khăn hoa kiếp-ba-la do chư thiên dâng cúng.

Đức Phật ở trước đại chúng, (từ chiếc khăn) cột thành một nút, đưa cho A Nan xem và Phật hỏi rằng: “Đây là cái gì?”

A Nan và đại chúng đồng bạch Phật rằng: “Đó gọi là nút thắt.”

Đức Phật cột nút khác và hỏi A Nan, “Đây là cái gì?”

A Nan và đại chúng lại đồng bạch Phật rằng, “Đó gọi là nút thắt.”

Đức Phật tuần tự cột từng nút như vậy trên chiếc khăn hoa, tổng cộng thành sáu nút. Mỗi khi cột xong một nút, đều đưa lên hỏi A Nan rằng Đây là cái gì?”

A Nan và đại chúng cũng tuần tự đồng bạch Phật rằng, “Đó gọi là nút thắt.”

Đức Phật bảo A Nan: “Khi Như Lai mới cột khăn lại thì ông gọi là nút, cái khăn hoa nầy, trước đây chỉ một cái, tại sao lần thứ hai, thứ ba, ông vẫn gọi là nút.”

A Nan bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, chiếc khăn hoa thêu quý báu nầy vốn chỉ một thể, song theo ý con, khi Như Lai cột một lần thì gọi là một nút, nếu cột 100 lần, thì thành 100 nút. Huống chi khăn nầy chỉ có sáu nút, không đến bảy, cũng không dừng ở năm. Sao Như Lai chỉ gọi cái đầu tiên là nút, mà cái thứ hai thứ ba thì không gọi là nút?”

Đức Phật bảo A Nan, “Cái khăn hoa báu nầy, ông biết nó vốn chỉ là một, khi Như Lai thắt sáu lần thì ông gọi là sáu nút. Ông quán sát kỹ, thấy thể của khăn nầy là đồng, do vì các nút mà thành ra khác.”

Ý ông nghĩ sao? Khi mới cột nút lần đầu thì gọi là nút thứ nhất, như thế cho đến nút thứ sáu. Nay Như Lai muốn gọi nút thứ sáu là nút thứ nhất có được không?

A Nan: Bạch Thế Tôn. Không. Nếu còn sáu nút, thì cái gọi là thứ sáu, rốt cuộc chẳng phải là cái thứ nhất. Dù con có biện bạch hết đời, làm sao có thể lộn lạo tên gọi của sáu nút kia được?

Đức Phật dạy: “Đúng vậy, sáu nút không đồng nhau, Xét về căn gốc, vẫn do một cái khăn mà ra. Nhưng làm cho nó đảo lộn thứ tự thì rốt ráo không thể được.”

Sáu căn của ông cũng giống như vậy. Trong thể tánh tuyệt đối giống nhau, lại sinh ra cái tuyệt đối khác nhau.

Đức Phật bảo A Nan: ‘Ông chắc không muốn có sáu nút nầy, mà chỉ muốn thành một thể, việc ấy phải làm sao?’

A Nan thưa rằng: ‘Nếu còn những nút đó, thì thị phi sẽ nổi dậy, trong đó sẽ tự cho rằng nút nầy chẳng phải là nút kia, nút kia chẳng phải là nút nầy. Nhưng nay Như Lai giải trừ tất cả. Các nút đã không sinh ra thì không có bỉ thử. Đã không có một thì sáu làm sao thành? ’

Đức Phật bảo: ‘Nghĩa mở được sáu, một không còn cũng như vậy.’

Do từ vô thuỷ, tâm ông điên loạn. Tri kiến vọng phát mãi mãi không dừng, làm cho tri kiến sinh mệt nhọc. Như khi con mắt mỏi mệt thì thấy như có hoa đốm không có nguyên nhân gì, hỗn loạn khởi lên trong thể tánh sáng suốt rỗng lặng.

Tất cả các tướng trong thế gian, núi sông đất liền, sinh tử niết bàn, đều là tướng hoa đốm điên đảo, do bệnh mê lầm mà phát ra.

A Nan thưa: “Bệnh mê lầm nầy cũng giống như các nút thắt, làm sao để giải trừ?”

Đức Phật dùng tay cầm cái khăn có nút, kéo mối bên trái, hỏi A Nan rằng, “Thế này có cởi được không?”

A Nan đáp: “Bạch Thế Tôn. Không.”

Đức Phật dùng tay kéo riêng mối bên phải, rồi hỏi A Nan rằng, “Thế này có cởi được không?”

A Nan đáp: “Bạch Thế Tôn. Không.”

Đức Phật bảo A Nan: “Nay Như Lai dùng tay kéo mối bên phải rồi bên trái, rốt cuộc vẫn không cởi được. Vậy ông dùng phương tiện nào mà mở ra được?

A Nan bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài phải cởi từ chính giữa, các nút sẽ được mở ra.”

Đức Phật bảo A Nan: “Đúng vậy, đúng vậy. Nếu ông muốn mở nút, ông phải mở từ chính giữa.”

A Nan, Như Lai nói Phật pháp do nhân duyên sinh, chẳng phải là căn cứ vào những tướng hoà hiệp thô trọng của thế gian. Như Lai nhận ra các tướng thế gian và xuất thế gian, biết rõ bản nhân của chúng do nhân duyên gì mà phát sinh ra.

Như thế cho đến một giọt mưa ngoài hằng sa thế giới, (Như Lai) cũng đều biết số mục. Cũng như nay trước mắt ông, các thứ cây tùng thẳng, cây gai cong, chim hộc trắng, chim quạ đen, (Như Lai) đều biết nguyên do.

Vậy nên A Nan, tùy tâm ông lựa chọn trong sáu căn, nếu trừ được nút thắt trong căn ấy rồi, thì trần tướng tự diệt. Các vọng đã tiêu, đó chẳng phải chân thì là gì? A Nan, nay Như Lai hỏi ông: “Cái khăn hoa nầy hiện có sáu nút, nếu đồng thời cởi ra, thì có thể cùng lúc trừ hết được chăng?”

A Nan: “Bạch Thế Tôn. Không. Những nút nầy khi cột lại, vốn có thứ tự. Nay cũng phải theo thứ lớp mà mở. Sáu nút tuy đồng một thể, nhưng cột lại không đồng thời, thì khi mở nút, làm sao cùng một lúc mà mở hết được?”

Đức Phật dạy rằng, “Việc giải trừ các nút nơi sáu căn cũng như vậy. Khi các căn bắt đầu được mở, trước hết sẽ được nhân không. Đến khi tánh không viên mãn sáng suốt, thì thắng nghĩa sinh. Khi thắng nghĩa sinh rồi, thì các căn đều được giải thoát. Các căn đều được giải thoát rồi, thì thắng nghĩa cũng không còn. Thoát khỏi các trần, không còn đối đãi, thì gọi là bồ đề niết bàn.”

A Nan và đại chúng nghe lời Phật dạy, tâm được khai ngộ, đồng tán thán là việc chưa từng có.

Việc nghe và trì niệm Kinh Thủ Lăng Nghiêm mang lại lợi ích vô lượng, như tiêu trừ nghiệp chướng nặng nề từ vô thủy, hàng phục ma chướng ngoại đạo, tăng trưởng trí huệ bồ đề, bảo hộ khỏi tai ương ác đạo, giúp chứng ngộ chân tâm bản tánh, thành tựu quả vị Phật, và mang lại an lạc viên mãn trong hiện tại lẫn vị lai.

...more
View all episodesView all episodes
Download on the App Store

8 Bộ Kinh Phật Thường Được Đọc Tụng Niệm_Phiên bản 1.1By Nguoi Mien Trung