8 Bộ Kinh Phật Thường Được Đọc Tụng Niệm_Phiên bản 1.1

Kinh Lăng Nghiêm_Quyển 9


Listen Later

Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh) là một bộ kinh Đại thừa quan trọng trong Phật giáo, dạy về chân tâm bản tánh vốn thanh tịnh sáng suốt, cách nhận biết và đoạn trừ vọng tưởng, hàng phục ma chướng, và phương pháp tu tập shamatha, samadhi, dhyana để chứng ngộ đạo Bồ Đề. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do vô minh mà luân hồi, và chỉ rõ con đường trực chỉ chân tâm để giải thoát.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 9

A Nan, tất cả những người tu tâm trong thế gian, không nhờ Thiền na, thì không có trí huệ.

Người nào giữ được cái thân không làm việc dâm dục, trong lúc đi, lúc ngồi, đều không nghĩ nhớ, lòng ái nhiễm không sanh, không còn ở trong Dục Giới, thì bản thân liền được làm Phạm lữ; một loài như thế, gọi là Phạm Chúng thiên.

Tập quán ngũ dục đã trừ rồi, tâm ly dục hiện ra, vui vẻ thuận theo các luật nghi, thì người đó liền có thể thực hành những Phạm đức; một loài như thế, gọi là Phạm Phụ thiên.

Thân tâm hoàn toàn thanh tịnh, uy nghi không thiếu, cấm giới trong sạch, lại có thêm trí sáng, thì người đó liền được thống lĩnh Phạm chúng, làm Đại Phạm vương; một loài như thế, gọi là Đại Phạm thiên.

A Nan, ba loài tốt đó, tất cả khổ não không bức bách được; tuy không phải chân chính tu phép Tam ma địa của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc của Dục Giới không lay động được, nên gọi là Sơ Thiền.

A Nan, thứ nữa, các hàng Phạm Thiên khi thống lĩnh phạm chúng, lại tu tập Phạm hạnh được viên mãn, làm cho tâm đứng lặng không lay động, và do sự đứng lặng ấy, sanh ra sáng suốt; một loài như thế, gọi là Thiểu Quang thiên.

Hào quang sáng suốt thêm nhiều, chói sáng không cùng, ánh vào thập phương thế giới đều thành trong sáng như ngọc lưu ly; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Quang thiên.

Nắm giữ hào quang viên mãn, tạo thành giáo thể, phát ra sự giáo hóa thanh tịnh, ứng dụng không cùng; một loài như thế, gọi là Quang Âm thiên.

A Nan, ba loài tốt ấy, tất cả lo buồn không bức bách được; tuy không phải chân chính tu hành phép Tam ma địa của đạo Phật, nhưng trong tâm thanh tịnh, những lầm lạc thô động đã dẹp xuống, nên gọi là Nhị Thiền.

A Nan, những loài trời như thế, khi dùng hào quang viên mãn làm việc giáo hóa, do sự giáo hóa càng rõ lẽ nhiệm mầu, phát ra hạnh tinh tấn, thông với cái vui yên lặng; một loài như thế, gọi là Thiểu Tịnh thiên.

Cảnh thanh tịnh hiện tiền, dẫn phát không có bờ bến, thân tâm được khinh an, thành cái vui yên lặng; một loài như thế, gọi là Vô Lượng Tịnh thiên.

Thế giới và thân tâm, tất cả hoàn toàn thanh tịnh, đức thanh tịnh được thành tựu, cảnh giới thù thắng hiện tiền, dồn về vui yên lặng; một loài như thế, gọi là Biến Tịnh thiên.

A Nan, ba loài tốt đó, đầy đủ công hạnh đại tùy thuận, thân tâm yên lặng, được cái vui vô lượng; tuy không phải chân chính được phép Tam ma địa của đạo Phật, nhưng trong tâm yên ẩn, hoan hỷ được đầy đủ, nên gọi là Tam Thiền.

A Nan, lại nữa, những loài trời đó, thân tâm không bị bức bách, nguyên nhân của khổ đã hết, lại xét cái vui không phải thường trụ, lâu rồi cũng phải tiêu tan, nên cả hai tâm khổ và vui, đồng thời đều phóng xả; những tướng thô nặng đã diệt, thì phúc thanh tịnh sanh ra; một loài như thế, gọi là Phúc Sanh thiên.

Tâm phóng xả được viên mãn, sự nhận hiểu cao xa càng thanh tịnh; trong cái phúc không gì trở ngại đó, được sự tùy thuận nhiệm mầu cùng tột vị lai; một loài như vậy, gọi là Phúc Ái thiên.

A Nan, từ cõi trời đó, có hai đường rẽ:

Nếu dùng cái tâm sáng suốt thanh tịnh vô lượng trước kia, mà tu chứng an trụ nơi phúc đức viên mãn sáng suốt, thì thân mệnh cùng tột, thân tâm đều diệt hết, ý nghĩ bặt mất, trải qua năm trăm kiếp; song, người ấy đã lấy cái sanh diệt làm nhân, thì không thể phát minh tánh không sanh diệt, nên nửa kiếp đầu thì diệt, nửa kiếp sau lại sanh; một loài như thế, gọi là Vô Tưởng thiên.

A Nan, bốn loài tốt ấy, tất cả những cảnh khổ vui trong thế gian không lay động được; tuy không phải là chỗ bất động chân thật của đạo vô vi; song, nơi cái tâm hữu sở đắc, công dụng đã thuần thục, nên gọi là Tứ Thiền.

A Nan, trong đó, lại có năm bậc Bất Hoàn thiên, các vị này đã diệt hết tập khí chín phẩm tư hoặc trong cõi dưới rồi, khổ vui không còn, bên dưới không có chỗ ở, nên an lập chỗ ở nơi chúng đồng phận của tâm phóng xả.

A Nan, khổ vui cả hai đều diệt, không còn tâm niệm ưa ghét; một loài như thế, gọi là Vô Phiền thiên.

Tự tại phóng xả, không còn năng xả, sở xả; một loài như thế, gọi là Vô Nhiệt thiên.

Khéo thấy thế giới mười phương thảy đều đứng lặng, không còn tất cả những cấu nhiễm trầm trọng của trần cảnh; một loài như thế, gọi là Thiện Kiến thiên.

Tri kiến thanh tịnh hiện tiền, sử dụng được không ngăn ngại; một loài như thế, gọi là Thiện Hiện thiên.

Quán sát rốt ráo các cực vi, cùng tột tánh của sắc pháp, vào tánh không bờ bến; một loài như thế, gọi là Sắc Cứu Kính thiên.

A Nan, những bậc Bất Hoàn thiên đó, chỉ riêng bốn vị Thiên vương Tứ Thiền được có kính nghe, nhưng không thể thấy biết; cũng như hiện nay, có các thánh đạo trường nơi rừng sâu đồng rộng thế gian, đều là những nơi trụ trì của các vị A la hán, nhưng những người thô thiển thế gian không thể thấy được.

A Nan, mười tám loài trời đó, tâm thường ở trong định, không dính dáng với trần cảnh, song chưa hết cái lụy của hình hài; từ đó trở về, gọi là Sắc Giới.

Lại nữa, A Nan, từ chỗ cao nhất của Sắc Giới, lại có hai đường rẽ:

Nếu nơi tâm phóng xả, phát minh được trí huệ, trí huệ sáng suốt viên thông, thì ra khỏi cõi trần, thành vị A la hán, vào Bồ tát thừa; một loài như thế, gọi là Hồi tâm Đại A la hán.

Nếu nơi tâm phóng xả, khi thành tựu được sự phóng xả rồi, lại cảm thấy cái thân làm ngăn ngại và tiêu cái ngăn ngại ấy vào hư không, thì một loài như thế, gọi là Không xứ.

Các chất ngại đã tiêu trừ rồi, nhưng không diệt được cái vô ngại, trong đó chỉ còn thức A lại gia và còn nguyên vẹn phần nửa vi tế của thức Mạt na; một loài như thế, gọi là Thức xứ.

Sắc và không đã hết, cái tâm biết là hết ấy cũng diệt trừ, mười phương vẳng lặng, không còn gì nữa; một loài như thế, gọi là Vô Sở Hữu xứ.

Thức tánh vốn không lay động, lại dùng cái diệt mà diệt đến cùng; trong chỗ không thể hết, phát minh nhận cho là hết, nên hình như còn, mà không phải còn, hình như hết, mà không phải hết; một loài như thế, gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng xứ.

Bọn nầy xét cùng cái không, nhưng không tột lý không; nếu từ thánh đạo cõi trời Bất Hoàn mà xét cùng, thì một loài như thế, gọi là Bất hồi tâm độn A la hán. Nếu từ cõi trời vô tưởng và ngoại đạo mà xét cùng cái không, không biết trở về, mê lầm không nghe Chánh pháp, thì sẽ vào trong luân hồi.

A Nan, trên các cõi trời đó, mỗi mỗi đều là những phàm phu hưởng sự báo đáp của nghiệp quả và khi sự báo đáp ấy hết rồi, thì trở vào trong luân hồi. Thiên vương các cõi kia, thường là Bồ tát, dùng Tam ma địa mà lần lượt tiến lên, hồi hướng về đường tu hành đạo Phật.

A Nan, những cõi trời tứ không đó, thân tâm diệt hết, định tánh hiện tiền, không có sắc pháp của nghiệp quả; từ đó đến cuối cùng, gọi là Vô Sắc Giới.

Bọn đó, đều do không rõ Diệu giác minh tâm, chứa nhóm cái vọng, mà giả dối phát sanh ra ba cõi, giả dối theo bảy loài trong đó, mà chìm đắm và cá thể thụ sanh cũng theo từng loài.

Lại nữa, A Nan, trong ba cõi ấy, còn có bốn giống A tu la.

Nếu từ loài quỷ, do sức bảo hộ Chánh pháp, được thần thông vào hư không, thì giống A tu la này, từ trứng sanh ra, thuộc về loài quỷ.

Nếu từ cõi trời, đức kém phải sa đọa, chỗ ở gần với mặt trời, mặt trăng, thì giống A tu la đó, từ thai sanh ra, thuộc về loài người.

Có chúa A tu la, nắm giữ thế giới, sức mạnh đến chỗ không phải sợ ai, có thể tranh quyền với Phạm vương, Đế Thích và Tứ Thiên vương; giống A tu la này, nhân biến hóa mà có, thuộc về loài trời.

A Nan, riêng có một số A tu la thấp kém, sanh trong lòng biển lớn, lặn trong thủy huyệt, ban ngày đi chơi trên hư không, tối về ngủ dưới nước; giống A tu la này, nhân thấp khí sanh ra, thuộc về loài súc sanh.

A Nan, xét rõ bảy loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, người và thần tiên, trời và A tu la như thế, đều là những tướng hữu vi tối tăm, giả dối tưởng tượng thụ sanh, giả dối tưởng tượng theo nghiệp; đối với tâm tánh Diệu viên minh, bản lai không năng tác, sở tác, thì đều như hoa đốm giữa hư không, vốn không dính dáng; chỉ một cái hư vọng, chứ không có cỗi gối manh mối gì.

A Nan, những chúng sanh đó, không nhận được tâm tánh bản lai, chịu cái luân hồi như thế trong vô lượng kiếp, mà không chứng được chân tánh thanh tịnh, đó đều do chúng thuận theo những sát, đạo, dâm, hoặc ngược lại ba cái đó, thì lại sanh ra không sát, không đạo, không dâm; có, thì gọi là loài quỷ, không, thì gọi là loài trời; có và không thay nhau, phát khởi ra tánh luân hồi.

Nếu khéo tu tập phát huy phép Tam ma địa, thì trong bản tánh thường diệu, thường tịch, cả hai cái có, cái không đều không và cái không có, không không cũng diệt, còn không có gì là bất sát, bất đạo, bất dâm, làm sao lại còn thuận theo được những việc sát, đạo, dâm.

A Nan, không đoạn được ba nghiệp, thì mỗi mỗi chúng sanh đều có phần riêng, nhân những cái riêng ấy, mà quả báo đồng phận chung của các cái riêng, không phải là không chỗ nhất định; đó là do vọng kiến của tự mình phát sanh ra; hư vọng phát sanh vốn không có nhân, không thể tìm xét nguồn gốc được.

Ông khuyên người tu hành, muốn được đạo Bồ đề, cốt yếu phải trừ tam hoặc; tam hoặc không hết, thì dầu được thần thông, cũng đều là những công dụng hữu vi của thế gian; tập tập mê lầm đã không diệt, thì lạc vào đường ma; tập khí mê lầm không diệt, thì lạc vào đường ma; tập tập mê lầm không diệt, thì lạc vào đường ma; tập khí mê lầm không diệt, thì lạc vào đường ma; tập tập mê lầm không diệt, thì lạc vào đường ma.

Nói như thế ấy, tức là lời nói chân chính; nếu nói khác thế, tức là lời nói của Ma vương.

Khi bấy giờ, đức Như Lai gần chấm dứt thời thuyết pháp, ở nơi sư tử tọa, vin ghế thất bảo, xoay về Tử Kim sơn, trở lại dựa nơi ghế, bảo khắp đại chúng và ông A Nan rằng:

Bọn ông là hàng Duyên giác, Thanh văn Hữu học, ngày nay, đã hồi tâm hướng về vô thượng diệu giác đạo Đại Bồ đề, và tôi cũng đã chỉ dạy phép tu chân chính; nhưng các ông còn chưa biết những ma sự nhỏ nhiệm trong lúc tu chỉ, tu quán.

Nếu cảnh ma hiện ra, ông không biết được, thì sẽ tu tâm không đúng và mắc vào tà kiến; hoặc bị ma Ngũ ấm của ông, hoặc bị Thiên ma, hoặc mắc quỷ thần, hoặc gặp lỵ mỵ, mà trong tâm không rõ, nhận giặc làm con.

Lại nữa, có khi được một ít đã cho là đủ, như Vô Văn Tỳ kheo được Tứ Thiền, nói ma là chứng bậc thánh; đến khi quả báo chư thiên hết rồi, suy tướng hiện ra, thì phỉ báng quả A la hán còn phải thụ sanh, nên đọa vào ngục A Tỳ.

Các ông hãy nghe kĩ, nay tôi sẽ nói rõ cho các ông.

Việc nghe và trì niệm Kinh Thủ Lăng Nghiêm mang lại lợi ích vô lượng, như tiêu trừ nghiệp chướng nặng nề từ vô thủy, hàng phục ma chướng ngoại đạo, tăng trưởng trí huệ bồ đề, bảo hộ khỏi tai ương ác đạo, giúp chứng ngộ chân tâm bản tánh, thành tựu quả vị Phật, và mang lại an lạc viên mãn trong hiện tại lẫn vị lai.

...more
View all episodesView all episodes
Download on the App Store

8 Bộ Kinh Phật Thường Được Đọc Tụng Niệm_Phiên bản 1.1By Nguoi Mien Trung