
Sign up to save your podcasts
Or


Giải thích ngắn gọn ý nghĩa Kinh Niết Bàn
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana Sutra) là bộ kinh Đại thừa quan trọng, được coi là lời dạy cuối cùng của Phật trước khi nhập Niết Bàn. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thường trú, Niết Bàn không phải là hư vô mà là trạng thái chân thường, lạc, ngã, tịnh. Kinh phá bỏ quan niệm Niết Bàn là diệt tận, dạy về thân kim cang bất hoại của Phật, khuyến khích tu tập để nhận ra Phật tánh và đạt giác ngộ viên mãn, mang lại bình đẳng cho tất cả.
Toàn văn Quyển 10 Kinh Niết Bàn
Dưới đây là toàn bộ nội dung quyển 10 của Kinh Đại Bát Niết Bàn, dựa trên bản dịch tiếng Việt từ Hán văn, được tổng hợp từ các nguồn đáng tin cậy (bản dịch Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến, với cấu trúc phẩm và nội dung chính). Quyển 10 thuộc phần đầu của Phẩm Hạnh Thanh Tịnh (Phẩm Thứ Tám), tập trung vào việc giảng dạy về hạnh thanh tịnh của Bồ Tát, Tứ Vô Lượng Tâm, và Tứ Trí Không Ngăn Ngại. Nội dung được tổ chức có cấu trúc để dễ theo dõi, với bảng cho các phần liệt kê.
Phần 1: Bảy Pháp Lành Của Bồ Tát (Bảy Chi Phần Thanh Tịnh)
Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp: "Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát an trụ nơi kinh Đại Bát Niết Bàn, tu hạnh thanh tịnh, cần phải có bảy pháp lành để thành tựu sự thanh tịnh viên mãn."
Pháp Lành (Chi Phần) và Giải Thích Chi Tiết
1. Biết Pháp: Biết rõ 12 bộ kinh: Tu-đa-la (Kinh), Kỳ-dạ (Kệ), Thọ Ký (Thụ Ký), Phúng Tụng (Trùng Tụng), Tự Thuyết (Bản Thuyết), Nhân Duyên (Nhân Duyên), Thí Dụ (Thí Dụ), Bổn Sự (Bổn Sự), Bổn Sinh (Bổn Sinh), Phương Quảng (Phương Quảng), Hy Hữu (Hy Hữu), Luận Nghị (Luận Nghị). Đây là nền tảng để phân biệt chánh pháp và tà pháp.
2. Biết Nghĩa. Hiểu thấu ý nghĩa của pháp, biết ngôn ngữ của tất cả chúng sanh, thuyết pháp theo căn cơ.
3. Biết Thời: Biết thời gian thích hợp để tu: Độc xứ (riêng một mình), siêng năng tinh tấn, xả (buông bỏ), cúng dường Phật và thầy, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, tuệ.
4. Biết Đủ Biết đủ trong ăn uống, y phục, thuốc thang, đi đứng, ngồi nằm, nói năng, im lặng. Không tham cầu dư thừa.
5. Tự Biết MìnhTự biết căn cơ của mình: Có lòng tin, trì giới, học hỏi, xả bỏ, trí tuệ, biết đến đi, chánh niệm, việc lành, hỏi đáp.
6. Biết ChúngBiết phân biệt các loại chúng: Sát-lị, Bà-la-môn, Cư sĩ, Sa-môn; hành xử thích hợp với từng loại.
7. Biết Phân Biệt Kẻ Trên Người DướiPhân biệt theo lòng tin và việc làm: Vào chùa, lễ Phật, nghe pháp, chú ý, phân tích, thực hành, hồi hướng Đại thừa (thượng phẩm: lợi ích nhiều chúng sanh).
Phật nói: "Này Ca Diếp! Bồ Tát có bảy pháp lành này thì thành tựu hạnh thanh tịnh, được Tứ Vô Lượng Tâm, tăng trưởng sáu Ba-la-mật."
Phần 2: Tứ Vô Lượng Tâm (Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả)
Phật giảng: "Bồ Tát tu Tứ Vô Lượng Tâm để phá trừ tham sân si, thành tựu đại từ bi."
Tâm Vô LượngGiải ThíchTác DụngTừ (Từ Tâm)Không thiên vị yêu ghét, bình đẳng với tất cả chúng sanh. Khó thực hành với kẻ ác như hạt khô khó mọc, chó nhà dễ nuôi, đá khó đục. Bắt đầu từ Sơ Địa, bình đẳng với Thanh Văn (không phải nhất xiển đề).Phá tham dục, tăng sáu Ba-la-mật; thế gian từ trước khi xuất thế từ.Bi (Bi Tâm)Mang lợi ích và vui vẻ đến chúng sanh; bảo vệ cả kẻ hại (như Phật giết Bà-la-môn để cứu pháp). Mức độ bi tùy theo hại: nhỏ, trung, lớn.Tình yêu cực độ như cha mẹ vui khi con an toàn; vị trí "cực ái nhất tử".Hỷ (Hỷ Tâm)Vui mừng khi chúng sanh được lợi ích.Phá bất mãn, tăng hỷ lạc.Xả (Xả Tâm)Không chấp trước, bình đẳng thị hiện, vô ngã tướng.Dẫn đến bình đẳng như hư không; quán không (nội ngoại, hữu vi vô vi).
Phật nói: "Tứ Vô Lượng Tâm có ba duyên: Chúng sanh duyên, pháp duyên, không duyên (Như Lai tánh). Như Lai dùng phương tiện dạy một lý (vô thường là thường) tùy căn cơ."
Phần 3: Tứ Trí Không Ngăn Ngại (Bốn Trí Không Chướng Ngại)
Bồ Tát thành tựu bốn trí không chướng ngại; Thanh Văn và Duyên Giác không có vì căn cơ hạn chế.
Trí Không Ngăn Ngại. Giải Thích. Đối Chiếu Với Thanh Văn/ Duyên Giác. Pháp Không Ngăn Ngại. Biết tên gọi và nghĩa lý (ví dụ: Đất rộng lớn, núi chứa đất, mắt chứa sáng, mây chứa nước, người chứa pháp, mẹ chứa con). Giới hạn ở phần tên/ ý nghĩa; không thuyết pháp đầy đủ. Nghĩa Không Ngăn Ngại: Hiểu và thuyết một nghĩa bằng tất cả lời; ngôn ngữ thế gian và thánh nhân. Không thuyết nghĩa rốt ráo. Lời Lẽ Không Ngăn Ngại. Thuyết lời/ ý nghĩa suốt vô lượng kiếp. Thiếu khả năng thuyết pháp rộng. Vui Thích Thuyết Giảng Không Ngăn Ngại. Vui vẻ thuyết pháp không chướng ngại; dẫn đến bốn không chướng ngại. Không có thuyết pháp hoan hỷ đầy đủ; ràng buộc với diệt độ/ du hành một mình.
Phật nói: "Bồ Tát thành tựu này thì không 'đắc', đã ở trong không chướng ngại (sáng suốt, Đại Niết Bàn, Đại thừa). Ngược lại: phiền não, 25 hữu, 11 kinh, luân hồi, vô thường, vô ngã, bất tịnh, năm kiến, Thanh Văn Bồ Đề."
Phật nói kệ:
Bồ Tát tu thanh tịnh,
Bảy pháp lành viên mãn,
Tứ vô lượng tâm thành,
Trí không ngại tự tại,
Độ chúng sanh vô biên,
Chứng Niết Bàn thường lạc.
Phần 4: Công Đức Trì Kinh Và Độ Chúng
Phật bảo Ca Diếp: "Nếu có chúng sanh trì kinh Đại Bát Niết Bàn, dù chỉ một kệ, công đức vô lượng, diệt tội nặng, sinh cõi lành, đạt Phật quả. Kinh này là bí tàng của chư Phật, là chỗ tu của Bồ Tát, vượt trên các kinh quyền thừa."
Ca Diếp bạch: "Bạch Thế Tôn! Công đức trì kinh lớn như vậy, con xin thọ trì để độ chúng sanh."
Phật khen: "Hay thay! Ông trì kinh này, sẽ thành Phật, độ vô lượng chúng sanh."
(Quyển 10 kết thúc với đại chúng vui mừng, lễ Phật mà lui.)
Lợi lạc của việc nghe và trì niệm kinh:
Việc nghe và trì niệm Kinh Niết Bàn mang lại lợi ích vô lượng: nhận ra Phật tánh, diệt trừ phiền não, tăng trưởng trí huệ, được chư Phật hộ niệm, thoát vòng sinh tử, đạt Niết Bàn chân thật thường trú lạc ngã tịnh, độ thoát chúng sanh, và chứng quả giác ngộ viên mãn, như mặt trăng tròn rọi sáng đêm tối.
By Nguoi Mien TrungGiải thích ngắn gọn ý nghĩa Kinh Niết Bàn
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana Sutra) là bộ kinh Đại thừa quan trọng, được coi là lời dạy cuối cùng của Phật trước khi nhập Niết Bàn. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thường trú, Niết Bàn không phải là hư vô mà là trạng thái chân thường, lạc, ngã, tịnh. Kinh phá bỏ quan niệm Niết Bàn là diệt tận, dạy về thân kim cang bất hoại của Phật, khuyến khích tu tập để nhận ra Phật tánh và đạt giác ngộ viên mãn, mang lại bình đẳng cho tất cả.
Toàn văn Quyển 10 Kinh Niết Bàn
Dưới đây là toàn bộ nội dung quyển 10 của Kinh Đại Bát Niết Bàn, dựa trên bản dịch tiếng Việt từ Hán văn, được tổng hợp từ các nguồn đáng tin cậy (bản dịch Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến, với cấu trúc phẩm và nội dung chính). Quyển 10 thuộc phần đầu của Phẩm Hạnh Thanh Tịnh (Phẩm Thứ Tám), tập trung vào việc giảng dạy về hạnh thanh tịnh của Bồ Tát, Tứ Vô Lượng Tâm, và Tứ Trí Không Ngăn Ngại. Nội dung được tổ chức có cấu trúc để dễ theo dõi, với bảng cho các phần liệt kê.
Phần 1: Bảy Pháp Lành Của Bồ Tát (Bảy Chi Phần Thanh Tịnh)
Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Ca Diếp: "Này thiện nam tử! Đại Bồ Tát an trụ nơi kinh Đại Bát Niết Bàn, tu hạnh thanh tịnh, cần phải có bảy pháp lành để thành tựu sự thanh tịnh viên mãn."
Pháp Lành (Chi Phần) và Giải Thích Chi Tiết
1. Biết Pháp: Biết rõ 12 bộ kinh: Tu-đa-la (Kinh), Kỳ-dạ (Kệ), Thọ Ký (Thụ Ký), Phúng Tụng (Trùng Tụng), Tự Thuyết (Bản Thuyết), Nhân Duyên (Nhân Duyên), Thí Dụ (Thí Dụ), Bổn Sự (Bổn Sự), Bổn Sinh (Bổn Sinh), Phương Quảng (Phương Quảng), Hy Hữu (Hy Hữu), Luận Nghị (Luận Nghị). Đây là nền tảng để phân biệt chánh pháp và tà pháp.
2. Biết Nghĩa. Hiểu thấu ý nghĩa của pháp, biết ngôn ngữ của tất cả chúng sanh, thuyết pháp theo căn cơ.
3. Biết Thời: Biết thời gian thích hợp để tu: Độc xứ (riêng một mình), siêng năng tinh tấn, xả (buông bỏ), cúng dường Phật và thầy, bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, tuệ.
4. Biết Đủ Biết đủ trong ăn uống, y phục, thuốc thang, đi đứng, ngồi nằm, nói năng, im lặng. Không tham cầu dư thừa.
5. Tự Biết MìnhTự biết căn cơ của mình: Có lòng tin, trì giới, học hỏi, xả bỏ, trí tuệ, biết đến đi, chánh niệm, việc lành, hỏi đáp.
6. Biết ChúngBiết phân biệt các loại chúng: Sát-lị, Bà-la-môn, Cư sĩ, Sa-môn; hành xử thích hợp với từng loại.
7. Biết Phân Biệt Kẻ Trên Người DướiPhân biệt theo lòng tin và việc làm: Vào chùa, lễ Phật, nghe pháp, chú ý, phân tích, thực hành, hồi hướng Đại thừa (thượng phẩm: lợi ích nhiều chúng sanh).
Phật nói: "Này Ca Diếp! Bồ Tát có bảy pháp lành này thì thành tựu hạnh thanh tịnh, được Tứ Vô Lượng Tâm, tăng trưởng sáu Ba-la-mật."
Phần 2: Tứ Vô Lượng Tâm (Tâm Từ, Bi, Hỷ, Xả)
Phật giảng: "Bồ Tát tu Tứ Vô Lượng Tâm để phá trừ tham sân si, thành tựu đại từ bi."
Tâm Vô LượngGiải ThíchTác DụngTừ (Từ Tâm)Không thiên vị yêu ghét, bình đẳng với tất cả chúng sanh. Khó thực hành với kẻ ác như hạt khô khó mọc, chó nhà dễ nuôi, đá khó đục. Bắt đầu từ Sơ Địa, bình đẳng với Thanh Văn (không phải nhất xiển đề).Phá tham dục, tăng sáu Ba-la-mật; thế gian từ trước khi xuất thế từ.Bi (Bi Tâm)Mang lợi ích và vui vẻ đến chúng sanh; bảo vệ cả kẻ hại (như Phật giết Bà-la-môn để cứu pháp). Mức độ bi tùy theo hại: nhỏ, trung, lớn.Tình yêu cực độ như cha mẹ vui khi con an toàn; vị trí "cực ái nhất tử".Hỷ (Hỷ Tâm)Vui mừng khi chúng sanh được lợi ích.Phá bất mãn, tăng hỷ lạc.Xả (Xả Tâm)Không chấp trước, bình đẳng thị hiện, vô ngã tướng.Dẫn đến bình đẳng như hư không; quán không (nội ngoại, hữu vi vô vi).
Phật nói: "Tứ Vô Lượng Tâm có ba duyên: Chúng sanh duyên, pháp duyên, không duyên (Như Lai tánh). Như Lai dùng phương tiện dạy một lý (vô thường là thường) tùy căn cơ."
Phần 3: Tứ Trí Không Ngăn Ngại (Bốn Trí Không Chướng Ngại)
Bồ Tát thành tựu bốn trí không chướng ngại; Thanh Văn và Duyên Giác không có vì căn cơ hạn chế.
Trí Không Ngăn Ngại. Giải Thích. Đối Chiếu Với Thanh Văn/ Duyên Giác. Pháp Không Ngăn Ngại. Biết tên gọi và nghĩa lý (ví dụ: Đất rộng lớn, núi chứa đất, mắt chứa sáng, mây chứa nước, người chứa pháp, mẹ chứa con). Giới hạn ở phần tên/ ý nghĩa; không thuyết pháp đầy đủ. Nghĩa Không Ngăn Ngại: Hiểu và thuyết một nghĩa bằng tất cả lời; ngôn ngữ thế gian và thánh nhân. Không thuyết nghĩa rốt ráo. Lời Lẽ Không Ngăn Ngại. Thuyết lời/ ý nghĩa suốt vô lượng kiếp. Thiếu khả năng thuyết pháp rộng. Vui Thích Thuyết Giảng Không Ngăn Ngại. Vui vẻ thuyết pháp không chướng ngại; dẫn đến bốn không chướng ngại. Không có thuyết pháp hoan hỷ đầy đủ; ràng buộc với diệt độ/ du hành một mình.
Phật nói: "Bồ Tát thành tựu này thì không 'đắc', đã ở trong không chướng ngại (sáng suốt, Đại Niết Bàn, Đại thừa). Ngược lại: phiền não, 25 hữu, 11 kinh, luân hồi, vô thường, vô ngã, bất tịnh, năm kiến, Thanh Văn Bồ Đề."
Phật nói kệ:
Bồ Tát tu thanh tịnh,
Bảy pháp lành viên mãn,
Tứ vô lượng tâm thành,
Trí không ngại tự tại,
Độ chúng sanh vô biên,
Chứng Niết Bàn thường lạc.
Phần 4: Công Đức Trì Kinh Và Độ Chúng
Phật bảo Ca Diếp: "Nếu có chúng sanh trì kinh Đại Bát Niết Bàn, dù chỉ một kệ, công đức vô lượng, diệt tội nặng, sinh cõi lành, đạt Phật quả. Kinh này là bí tàng của chư Phật, là chỗ tu của Bồ Tát, vượt trên các kinh quyền thừa."
Ca Diếp bạch: "Bạch Thế Tôn! Công đức trì kinh lớn như vậy, con xin thọ trì để độ chúng sanh."
Phật khen: "Hay thay! Ông trì kinh này, sẽ thành Phật, độ vô lượng chúng sanh."
(Quyển 10 kết thúc với đại chúng vui mừng, lễ Phật mà lui.)
Lợi lạc của việc nghe và trì niệm kinh:
Việc nghe và trì niệm Kinh Niết Bàn mang lại lợi ích vô lượng: nhận ra Phật tánh, diệt trừ phiền não, tăng trưởng trí huệ, được chư Phật hộ niệm, thoát vòng sinh tử, đạt Niết Bàn chân thật thường trú lạc ngã tịnh, độ thoát chúng sanh, và chứng quả giác ngộ viên mãn, như mặt trăng tròn rọi sáng đêm tối.