
Sign up to save your podcasts
Or


Giải thích ngắn gọn ý nghĩa Kinh Niết Bàn
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana Sutra) là bộ kinh Đại thừa quan trọng, được coi là lời dạy cuối cùng của Phật trước khi nhập Niết Bàn. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thường trú, Niết Bàn không phải là hư vô mà là trạng thái chân thường, lạc, ngã, tịnh. Kinh phá bỏ quan niệm Niết Bàn là diệt tận, dạy về thân kim cang bất hoại của Phật, khuyến khích tu tập để nhận ra Phật tánh và đạt giác ngộ viên mãn, mang lại bình đẳng cho tất cả.
Toàn văn Quyển 4 Kinh Niết Bàn
Phẩm Tánh Như Lai Thứ Tư
Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Tánh Như Lai có phải là tánh hữu không? Nếu là tánh hữu thì sao lại nói là không? Nếu là tánh vô thì sao lại nói là có? Nếu vừa hữu vừa vô thì sao lại nói là trung đạo? Nếu không hữu không vô thì sao lại nói là tánh?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Tánh Như Lai không phải hữu, không phải vô, không phải hữu vô, không phải phi hữu phi vô. Tánh Như Lai là bất khả tư nghì, chỉ có Phật mới biết. Vì sao? Vì tánh Như Lai là thường trụ bất biến, là chân thật, là chân ngã, chân tịnh, chân lạc.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Sao gọi là tánh Như Lai?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Tánh Như Lai chính là Phật tánh. Phật tánh là gì? Phật tánh là cái có ở tất cả chúng sanh, nhưng bị phiền não che lấp nên không thấy. Khi phiền não diệt thì Phật tánh hiện, như sữa có bơ, nhưng phải khuấy mới được bơ.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, thì sao có nhất xiển đề không có Phật tánh?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Nhất xiển đề cũng có Phật tánh, nhưng vì phỉ báng Chánh pháp nên tạm thời không thấy. Khi hồi tâm thì thấy được. Như kim cang bị bùn che, nhưng kim cang vẫn ở đó.”
Phật lại nói: “Phật tánh là thường, lạc, ngã, tịnh. Thường là bất biến, lạc là không khổ, ngã là tự tại, tịnh là không ô nhiễm. Niết Bàn là Phật tánh, là chỗ về của tất cả chúng sanh.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Sao Niết Bàn là thường mà Phật nhập Niết Bàn?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Phật không nhập Niết Bàn, chỉ thị hiện nhập để độ chúng sanh. Phật thân là kim cang bất hoại, thường trụ bất diệt. Thị hiện sinh tử để dạy chúng sanh vô thường.”
Phật nói kệ:
Tánh Phật thường trụ lạc
Ngã tịnh bất tư nghì
Chúng sanh bị phiền che
Tu hành thì thấy được
Như sữa có bơ sẵn
Khuấy thì bơ hiện ra
Phật tánh ở chúng sanh
Diệt phiền thì Phật thành.
Phẩm Kim Cang Thân Thứ Năm
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Thân Phật là kim cang bất hoại, sao lại thị hiện bệnh, già, chết?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Thân Phật là kim cang, bất sinh bất diệt, bất lão bất bệnh. Thị hiện sinh tử để độ chúng sanh. Như kim cang không bị lửa đốt, nước ngâm, gió thổi, đất chôn, thân Phật cũng vậy, không bị bốn đại làm hại.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Sao gọi là kim cang thân?”
Phật đáp: “Kim cang thân là thân thường trụ, bất hoại, do tu hành giới định tuệ mà thành. Giới là nền tảng, định là tường vách, tuệ là mái che. Thân này không bị phiền não phá hoại, như kim cang không bị vật khác phá.”
Phật lại nói: “Thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, do công đức tu hành mà có. Chúng sanh thấy thân Phật, sinh lòng tin, tu hành đạt Phật quả.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Chúng sanh có thân kim cang không?”
Phật đáp: “Chúng sanh có Phật tánh, nên có tiềm năng thành kim cang thân. Tu hành diệt phiền não thì thành.”
Phật nói kệ:
Kim cang thân bất hoại
Thường trụ không sinh diệt
Tu giới định tuệ thành
Độ chúng sanh khổ não.
Phẩm Danh Tự Công Đức Thứ Sáu
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Công đức danh tự Như Lai là gì?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Như Lai có mười danh tự: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Mỗi danh tự có công đức vô lượng.”
Như Lai: Đến như thật, nói pháp như thật.
Ứng Cúng: Xứng đáng nhận cúng dường.
Chánh Biến Tri: Biết đúng khắp hết thảy pháp.
Minh Hạnh Túc: Hiểu rõ hành nghiệp chúng sanh.
Thiện Thệ: Khéo vượt qua sinh tử.
Thế Gian Giải: Hiểu rõ thế gian.
Vô Thượng Sĩ: Không ai hơn.
Điều Ngự Trượng Phu: Điều phục chúng sanh.
Thiên Nhân Sư: Thầy trời người.
Phật Thế Tôn: Giác ngộ, tôn quý thế gian.
Phật nói: “Niệm danh tự Như Lai, được công đức lớn, diệt tội nặng, sinh cõi lành, đạt Phật quả.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Công đức niệm danh tự lớn như vậy, huống chi tu hành theo lời dạy.”
Phật đáp: “Đúng vậy. Niệm danh tự là phương tiện, tu hành là thực chất.”
Phật nói kệ:
Danh tự Như Lai mười
Công đức vô biên lượng
Niệm thì diệt tội nặng
Tu thì thành Phật quả.
Lợi lạc của việc nghe và trì niệm kinh
Việc nghe và trì niệm Kinh Niết Bàn mang lại lợi ích vô lượng: nhận ra Phật tánh, diệt trừ phiền não, tăng trưởng trí huệ, được chư Phật hộ niệm, thoát vòng sinh tử, đạt Niết Bàn chân thật thường trú lạc ngã tịnh, độ thoát chúng sanh, và chứng quả giác ngộ viên mãn, như mặt trăng tròn rọi sáng đêm tối.
By Nguoi Mien TrungGiải thích ngắn gọn ý nghĩa Kinh Niết Bàn
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana Sutra) là bộ kinh Đại thừa quan trọng, được coi là lời dạy cuối cùng của Phật trước khi nhập Niết Bàn. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thường trú, Niết Bàn không phải là hư vô mà là trạng thái chân thường, lạc, ngã, tịnh. Kinh phá bỏ quan niệm Niết Bàn là diệt tận, dạy về thân kim cang bất hoại của Phật, khuyến khích tu tập để nhận ra Phật tánh và đạt giác ngộ viên mãn, mang lại bình đẳng cho tất cả.
Toàn văn Quyển 4 Kinh Niết Bàn
Phẩm Tánh Như Lai Thứ Tư
Bấy giờ, Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Tánh Như Lai có phải là tánh hữu không? Nếu là tánh hữu thì sao lại nói là không? Nếu là tánh vô thì sao lại nói là có? Nếu vừa hữu vừa vô thì sao lại nói là trung đạo? Nếu không hữu không vô thì sao lại nói là tánh?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Tánh Như Lai không phải hữu, không phải vô, không phải hữu vô, không phải phi hữu phi vô. Tánh Như Lai là bất khả tư nghì, chỉ có Phật mới biết. Vì sao? Vì tánh Như Lai là thường trụ bất biến, là chân thật, là chân ngã, chân tịnh, chân lạc.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Sao gọi là tánh Như Lai?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Tánh Như Lai chính là Phật tánh. Phật tánh là gì? Phật tánh là cái có ở tất cả chúng sanh, nhưng bị phiền não che lấp nên không thấy. Khi phiền não diệt thì Phật tánh hiện, như sữa có bơ, nhưng phải khuấy mới được bơ.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, thì sao có nhất xiển đề không có Phật tánh?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Nhất xiển đề cũng có Phật tánh, nhưng vì phỉ báng Chánh pháp nên tạm thời không thấy. Khi hồi tâm thì thấy được. Như kim cang bị bùn che, nhưng kim cang vẫn ở đó.”
Phật lại nói: “Phật tánh là thường, lạc, ngã, tịnh. Thường là bất biến, lạc là không khổ, ngã là tự tại, tịnh là không ô nhiễm. Niết Bàn là Phật tánh, là chỗ về của tất cả chúng sanh.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Sao Niết Bàn là thường mà Phật nhập Niết Bàn?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Phật không nhập Niết Bàn, chỉ thị hiện nhập để độ chúng sanh. Phật thân là kim cang bất hoại, thường trụ bất diệt. Thị hiện sinh tử để dạy chúng sanh vô thường.”
Phật nói kệ:
Tánh Phật thường trụ lạc
Ngã tịnh bất tư nghì
Chúng sanh bị phiền che
Tu hành thì thấy được
Như sữa có bơ sẵn
Khuấy thì bơ hiện ra
Phật tánh ở chúng sanh
Diệt phiền thì Phật thành.
Phẩm Kim Cang Thân Thứ Năm
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Thân Phật là kim cang bất hoại, sao lại thị hiện bệnh, già, chết?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Thân Phật là kim cang, bất sinh bất diệt, bất lão bất bệnh. Thị hiện sinh tử để độ chúng sanh. Như kim cang không bị lửa đốt, nước ngâm, gió thổi, đất chôn, thân Phật cũng vậy, không bị bốn đại làm hại.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Sao gọi là kim cang thân?”
Phật đáp: “Kim cang thân là thân thường trụ, bất hoại, do tu hành giới định tuệ mà thành. Giới là nền tảng, định là tường vách, tuệ là mái che. Thân này không bị phiền não phá hoại, như kim cang không bị vật khác phá.”
Phật lại nói: “Thân Phật có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, do công đức tu hành mà có. Chúng sanh thấy thân Phật, sinh lòng tin, tu hành đạt Phật quả.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Chúng sanh có thân kim cang không?”
Phật đáp: “Chúng sanh có Phật tánh, nên có tiềm năng thành kim cang thân. Tu hành diệt phiền não thì thành.”
Phật nói kệ:
Kim cang thân bất hoại
Thường trụ không sinh diệt
Tu giới định tuệ thành
Độ chúng sanh khổ não.
Phẩm Danh Tự Công Đức Thứ Sáu
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Công đức danh tự Như Lai là gì?”
Phật đáp: “Thiện nam tử! Như Lai có mười danh tự: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn. Mỗi danh tự có công đức vô lượng.”
Như Lai: Đến như thật, nói pháp như thật.
Ứng Cúng: Xứng đáng nhận cúng dường.
Chánh Biến Tri: Biết đúng khắp hết thảy pháp.
Minh Hạnh Túc: Hiểu rõ hành nghiệp chúng sanh.
Thiện Thệ: Khéo vượt qua sinh tử.
Thế Gian Giải: Hiểu rõ thế gian.
Vô Thượng Sĩ: Không ai hơn.
Điều Ngự Trượng Phu: Điều phục chúng sanh.
Thiên Nhân Sư: Thầy trời người.
Phật Thế Tôn: Giác ngộ, tôn quý thế gian.
Phật nói: “Niệm danh tự Như Lai, được công đức lớn, diệt tội nặng, sinh cõi lành, đạt Phật quả.”
Ca-diếp bạch: “Bạch Thế Tôn! Công đức niệm danh tự lớn như vậy, huống chi tu hành theo lời dạy.”
Phật đáp: “Đúng vậy. Niệm danh tự là phương tiện, tu hành là thực chất.”
Phật nói kệ:
Danh tự Như Lai mười
Công đức vô biên lượng
Niệm thì diệt tội nặng
Tu thì thành Phật quả.
Lợi lạc của việc nghe và trì niệm kinh
Việc nghe và trì niệm Kinh Niết Bàn mang lại lợi ích vô lượng: nhận ra Phật tánh, diệt trừ phiền não, tăng trưởng trí huệ, được chư Phật hộ niệm, thoát vòng sinh tử, đạt Niết Bàn chân thật thường trú lạc ngã tịnh, độ thoát chúng sanh, và chứng quả giác ngộ viên mãn, như mặt trăng tròn rọi sáng đêm tối.