
Sign up to save your podcasts
Or
Tiền tệ chính là một phạm trù lịch sử, sản phẩm tự phát của một nền kinh tế sản phẩm, hàng hóa bởi sự phát triển của các hình thái giá trị. Tiền tệ cũng đồng thời là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong quá trình sản xuất hàng hóa.
Quá trình ra đời và phát triển của tiền tệ luôn được gắn liền với sự ra đời và phát triển của hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hóa.
Tiền là bất kỳ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán nhằm đổi lấy sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ hoặc dùng để hoàn trả các khoản vay nợ.
Định nghĩa trên chỉ đưa ra một số tiêu chí nhằm nhận biết một vật có phải tiền tệ hay không. Nhưng nó vẫn chưa thể giải thích tại sao vật này có thể được chọn làm tiền tệ. Để tìm ra câu trả lời thỏa đáng thì cần đi sâu tìm hiểu bản chất của tiền.
Xem xét về bản chất, tiền là sản phẩm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ và cũng là phương tiền giúp quá trình trao đổi được diễn ra dễ dàng thuận tiện hơn.
Bản chất này được thể hiện rõ nét qua hai thuộc tính dưới đây của nó.
Giá trị của tiền tệ là khả năng thỏa mãn nhu cầu trao đổi sản phẩm, hàng hóa của xã hội, nhu cầu sử dụng tiền tệ làm vật trung gian trong quá trình trao đổi. Như vậy, khi phát sinh nhu cầu trao đổi người ta chỉ cần nắm giữ tiền tệ.
Giá trị sử dụng của tiền tệ được quy định bởi xã hội: cho đến khi xã hội vẫn còn thừa nhận việc nó vẫn đang làm tốt vai trò vật trung gian trong quá trình trao đổi thì khi đó giá trị sử dụng của nó với vai trò là tiền tệ vẫn sẽ tồn tại.
Đây cũng là lời giải thích chi tiết cho sự xuất hiện và biến mất của tất cả những dạng tiền tệ trong lịch sử.
Giá trị sử dụng của tiền tệ được thể hiện qua định nghĩa “sức mua tiền tệ” là khả năng trao đổi được số lượng nhiều hay ít hàng hóa khác trong quá trình trao đổi sản phẩm. Khái niệm sức mua tiền tệ sẽ không được nhìn nhận dưới góc độ của sức mua đối với từng hàng hóa cụ thể mà xét trên phương diện tổng thể sản phẩm, hàng hóa trên thị trường.
Chức năng đầu tiên của tiền tệ chính là thước đo giá trị, chức năng này chính là khi tiền tệ thực hiện đo lường và thể hiện giá trị của các loại hàng hóa.
Chúng ta có thể dễ dàng thực hiện việc đo lường giá trị của hàng hóa, dịch vụ thông qua tiền giống như cách đo lường khối lượng bằng kg hay đo đạc chiều dài bằng mét. Để thấy được chức năng quan trọng này, chúng ta nên nhìn vào nền kinh tế đổi chác khác mà tiền tệ không thực hiện chức năng đo lường giá trị.
Trong trường hợp nền kinh tế chỉ tồn tại 3 mặt hàng, chẳng hạn như gạo, muối, vải thì chỉ có ba giá để thực hiện trao đổi giữa hàng hóa này với hàng hóa khác. Chính là giá của một mét vải được trao đổi bằng bao nhiêu kg gạo, giá của một mét vải được trao đổi bằng bao nhiêu kg muối và giá của một kg gạo được trao đổi bằng bao nhiêu kg muối.
Công thức cho chúng ta biết số giá ta cần khi có N mặt hàng :
N(N -1)/N
Tiền tệ chính là một phạm trù lịch sử, sản phẩm tự phát của một nền kinh tế sản phẩm, hàng hóa bởi sự phát triển của các hình thái giá trị. Tiền tệ cũng đồng thời là sản phẩm của sự phát triển mâu thuẫn giữa lao động và phân công lao động xã hội trong quá trình sản xuất hàng hóa.
Quá trình ra đời và phát triển của tiền tệ luôn được gắn liền với sự ra đời và phát triển của hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hóa.
Tiền là bất kỳ cái gì được chấp nhận chung trong việc thanh toán nhằm đổi lấy sản phẩm, hàng hóa hay dịch vụ hoặc dùng để hoàn trả các khoản vay nợ.
Định nghĩa trên chỉ đưa ra một số tiêu chí nhằm nhận biết một vật có phải tiền tệ hay không. Nhưng nó vẫn chưa thể giải thích tại sao vật này có thể được chọn làm tiền tệ. Để tìm ra câu trả lời thỏa đáng thì cần đi sâu tìm hiểu bản chất của tiền.
Xem xét về bản chất, tiền là sản phẩm trung gian trong quá trình trao đổi hàng hóa, dịch vụ và cũng là phương tiền giúp quá trình trao đổi được diễn ra dễ dàng thuận tiện hơn.
Bản chất này được thể hiện rõ nét qua hai thuộc tính dưới đây của nó.
Giá trị của tiền tệ là khả năng thỏa mãn nhu cầu trao đổi sản phẩm, hàng hóa của xã hội, nhu cầu sử dụng tiền tệ làm vật trung gian trong quá trình trao đổi. Như vậy, khi phát sinh nhu cầu trao đổi người ta chỉ cần nắm giữ tiền tệ.
Giá trị sử dụng của tiền tệ được quy định bởi xã hội: cho đến khi xã hội vẫn còn thừa nhận việc nó vẫn đang làm tốt vai trò vật trung gian trong quá trình trao đổi thì khi đó giá trị sử dụng của nó với vai trò là tiền tệ vẫn sẽ tồn tại.
Đây cũng là lời giải thích chi tiết cho sự xuất hiện và biến mất của tất cả những dạng tiền tệ trong lịch sử.
Giá trị sử dụng của tiền tệ được thể hiện qua định nghĩa “sức mua tiền tệ” là khả năng trao đổi được số lượng nhiều hay ít hàng hóa khác trong quá trình trao đổi sản phẩm. Khái niệm sức mua tiền tệ sẽ không được nhìn nhận dưới góc độ của sức mua đối với từng hàng hóa cụ thể mà xét trên phương diện tổng thể sản phẩm, hàng hóa trên thị trường.
Chức năng đầu tiên của tiền tệ chính là thước đo giá trị, chức năng này chính là khi tiền tệ thực hiện đo lường và thể hiện giá trị của các loại hàng hóa.
Chúng ta có thể dễ dàng thực hiện việc đo lường giá trị của hàng hóa, dịch vụ thông qua tiền giống như cách đo lường khối lượng bằng kg hay đo đạc chiều dài bằng mét. Để thấy được chức năng quan trọng này, chúng ta nên nhìn vào nền kinh tế đổi chác khác mà tiền tệ không thực hiện chức năng đo lường giá trị.
Trong trường hợp nền kinh tế chỉ tồn tại 3 mặt hàng, chẳng hạn như gạo, muối, vải thì chỉ có ba giá để thực hiện trao đổi giữa hàng hóa này với hàng hóa khác. Chính là giá của một mét vải được trao đổi bằng bao nhiêu kg gạo, giá của một mét vải được trao đổi bằng bao nhiêu kg muối và giá của một kg gạo được trao đổi bằng bao nhiêu kg muối.
Công thức cho chúng ta biết số giá ta cần khi có N mặt hàng :
N(N -1)/N
23 Listeners