1: Cùng là việc giao hòa giữa người nam và người nữ, nhưng vì sao vợ chồng thì không phải “dâm”, còn các trường hợp khác đều bị gọi là “dâm”?
Ý nghĩa đằng sau một từ ngữ đơn giản, hóa ra lại là bài học chuẩn xác dẫu trải qua bao thời đại, bao cuộc “cách mạng” giải phóng bản năng của con người. Ngày nay, khi những câu chuyện phòng the vốn chỉ nên giữ kín giữa hai người đang tràn ngập trên mạng xã hội, khi tính dục bị phóng đại và xổ lồng như con thú đói khát xâm chiếm tất cả các thể loại nghệ thuật và giải trí, khi tội ác liên quan đến tình dục bùng nổ và đe dọa sự an toàn của cả những đứa trẻ non nớt… thì nội hàm sâu sắc của một chữ – vốn là bảo bối mà người xưa lưu lại – lại cần phải được khai quật và truyền rộng hơn.
“Dâm” (淫) trong chữ Nho xưa bao gồm ba chấm Thủy và chữ “Dâm” (㸒). Trong đó chữ “Dâm” (㸒) có nghĩa cổ là tục tĩu, tham lam. Ba chấm Thủy thể hiện sự tràn đầy, dư thừa, nên chữ “Dâm” (淫) còn để nói về những gì thái quá, dư thừa không cần thiết.
Về việc quan hệ giữa người nam và người nữ, nếu không phải là để duy trì nòi giống như thiên chức của những người đã thành vợ chồng, thì mọi quan hệ ngoài luồng liên quan đến tính dục đều bị gọi là “dâm”. Đó là một việc làm tham lam hay chính là sự mất kiểm soát của dục vọng, là hoạt động thừa thãi không cần thiết, bởi nó vượt ra khỏi ý nghĩa của hoạt động tự nhiên giúp duy trì nòi giống. Khi đã vượt quá mức cho phép và trở nên bừa bãi phóng túng thì sẽ dẫn đến tà. Nên từ “Dâm” còn có một nghĩa khác là tà, là không chính.
Người nam và người nữ làm cái việc tưởng là để thỏa mãn nhu cầu sinh lý mà ngoài vòng cưới gả thì là dâm, là việc làm sai trái với đạo của Đất Trời.
Quan hệ với vợ tương lai nhưng chưa cưới hỏi, tình một đêm, thủ dâm hay ngay cả việc có trao có đổi như mua dâm, trai gái cứ giao tiếp vô lễ, nằm ngoài việc chỉ nên có giữa vợ với chồng… thì đều...
2: Con người ta sống ở thế gian, sống thọ chết yểu, giàu nghèo sang hèn tuy nói là số mệnh an bài, nhưng những hành vi việc làm trong kiếp sống này cũng là vô cùng quan trọng.
Hành thiện đắc phúc báo, hành ác nhận tai ương, thuận theo thiện ác trong tâm có thể cải biến bất cứ lúc nào. Thiên địa thần minh đều quan sát trông thấy hết sức rõ ràng, không chút sai chạy. Con người ta nếu như có thể một lòng hướng thiện, tích nhiều phúc đức, thì cũng có thể gặp dữ hóa lành. Còn như phóng túng bản thân, tùy ý làm xằng làm bậy, gieo xuống hạt giống tội lỗi, mệnh tuy có phúc nhưng cuối cùng cũng gặp phải tai ương. Đây là phép tắc nhân quả, và cũng là lẽ của tự nhiên.
Hai anh em sinh đôi cùng chung số mệnh nhưng kết cục lại khác nhau
Thời nhà Tống, vùng Nam Xương, Giang Tây có hai anh em sinh đôi tên là Cao Hiếu Tiêu và Cao Hiếu Tích, phong thái cử chỉ và tài trí thông minh đều giống hệt như một. Năm 16 tuổi, họ cùng thi đỗ tú tài. Về sau, lại kết hôn cùng trong một năm. Sau khi kết hôn, cha mẹ vì để con dâu có thể dễ dàng nhận ra chồng mình, bèn yêu cầu hai anh em họ mỗi người mang quần áo, giày dép khác nhau để cho dễ phân biệt.
Một ngày kia, hai anh em họ gặp được một vị đạo sĩ tên Trần Hy Di, vị đạo sĩ sau khi xem tướng của hai anh em họ xong, liền nói: “Hai anh em cậu mi thanh mục tú, sống mũi cao thẳng, trên miệng có nốt ruồi màu đỏ, tai trắng mà đường nét lại đỏ tươi, thần khí sáng sủa, đều là người có tên trong bảng vàng. Huống hồ hai cậu bây giờ mắt hiện kim quang, ắt đều cùng đỗ đầu khoa!”.
Đến kỳ thi mùa thu, hai anh em cùng đến kinh thành, ở nhờ nhà người thân. Hàng xóm bên cạnh là một quả phụ trẻ trung xinh đẹp. Cao Hiếu Tiêu một lòng học hành, không chút động tâm. Còn Cao Hiếu Tích không cầm nổi lòng mình, lại dùng lời lẽ tán tỉnh, tư thông với người thiếu phụ đó. Về sau, bị người ta phát giác, báo lại với người nhà quả phụ. Vị quả phụ đó sợ tội quá, đã gieo mình xuống sông tự vẫn...