Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh) là một bộ kinh Đại thừa quan trọng trong Phật giáo, dạy về chân tâm bản tánh vốn thanh tịnh sáng suốt, cách nhận biết và đoạn trừ vọng tưởng, hàng phục ma chướng, và phương pháp tu tập shamatha, samadhi, dhyana để chứng ngộ đạo Bồ Đề. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, nhưng do vô minh mà luân hồi, và chỉ rõ con đường trực chỉ chân tâm để giải thoát.
Kinh Thủ Lăng Nghiêm – Quyển 10
Hành Ấm Ma
A-nan, thiện-nam-tử kia, tu pháp Tam-ma-đề, khi Tưởng-ấm đã hết, thì những mộng-tưởng bình-thường của người đó đã tiêu-diệt, khi thức, khi ngủ, luôn luôn một thể, tính giác-minh rỗng-lặng như hư-không trong-sạch, không còn những sự-tướng tiền-trần thô-trọng; xem những núi sông đất-liền thế-gian, như gương soi-sáng, khi đến, không dính vào đâu, khi qua, không có dấu-vết, rỗng-chịu chiếu-ứng, rõ-ràng không còn tập-quán cũ, chỉ một tính tinh-chân.
Căn-nguyên của sinh-diệt từ đó phơi-lộ ra, thấy được 12 loài chúng-sinh thập phương, rõ hết các loài; tuy chưa thông-suốt manh-mối của mỗi chúng-sinh, nhưng đã thấy cơ-sở sinh-diệt chung, giống như bóng dã-mã, lớp-lớp chớp-nhoáng hiện ra, làm cái then-chốt phát-sinh các phù-căn-trần; ấy thì gọi là phạm vi Hành-ấm.
Nếu cái cỗi-gốc của những lăng-xăng chớp-nhoáng u-ẩn đó, vào được tính đứng-lặng bản-lai, những tập-khí sinh-diệt bản-lai dừng-lại như sóng-mòi diệt hết, hóa-thành nước đứng, thì gọi là hết Hành-ấm. Người đó, thì vượt khỏi chúng-sinh-trược; xét lại nguyên-do, cỗi-gốc là u-ẩn vọng-tưởng.
A-nan nên biết, các thiện-nam-tử được sự nhận-biết đúng-đắn trong Xa-ma-tha đó, chính-tâm đứng-lặng sáng-suốt, mười loài Thiên-ma không còn được dịp khuấy-phá. Trong lúc nghiên-cứu tinh-vi cùng-tột cỗi-gốc sinh-loại, khi cỗi-gốc sinh-diệt bản-loại lộ ra, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động lăng-xăng cùng-khắp u-ẩn kia, lại móng tâm so-đo chấp là tính viên-nguyên, thì người đó sa vào hai cái luận vô-nhân:
– Một, là người đó thấy cái gốc không có nhân. Vì cớ sao? Người đó đã được cơ-sở sinh-diệt toàn lộ ra, nương theo tám trăm công-đức của nhãn-căn, thấy trong tám muôn kiếp, tất-cả chúng-sinh đều theo dòng nghiệp-báo mà xoay-vần, chết nơi nầy, sinh nơi kia; chỉ thấy chúng-sinh luân-hồi trong đó, ngoài tám muông kiếp thì mờ-mịt không thấy gì, bèn phát ra sự nhận-định rằng, những loại chúng-sinh thập phương trong thế-gian nầy, trước tám muôn kiếp, không do nhân gì mà tự có. Do sự chấp-trước so-đo như thế, bỏ mất Chính-biến-tri, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề.
– Hai, là người đó thấy cái ngọn không có nhân. Vì cớ sao? Người đó đã thấy cỗi-gốc sinh-diệt, biết người sinh người, rõ chim sinh chim, thấy chim quạ luôn luôn đen, chim hộc luôn luôn trắng, loài người, loài trời thân vẫn đứng thẳng, các loài súc-sinh thân vẫn nằm ngang, sắc trắng không phải do tẩy mà thành, sắc đen không phải do nhuộm tạp ra, suốt tám muôn kiếp không hề dời-đổi, cho đến hết đời nầy cũng như vậy; mà từ xưa đến nay, người đó không thấy gì là Bồ-đề, làm sao lại còn có việc thành đạo Bồ-đề, rồi nhận-định tất-cả các sự vật ngày nay, đều không có nguyên-nhân gì cả.
Do những so-đo, chấp-trước như thế, bỏ mất tính Chính-biến-tri, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ nhất, lập những luận vô-nhân.
A-nan, các thiện-nam-tử đó, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng sáng-suốt, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, lại móng tâm so-đo chấp là tính viên-thường, thì người ấy sa vào bốn cái luận biến-thường:
– Một, là người đó xét-cùng bản-tính của tâm và cảnh, cả hai đều không có nhân; tu-tập biết được trong hai muôn kiếp, thập phương chúng-sinh có những sự sinh-diệt, đều là xoay-vần, không hề tan mất, nên chấp đó là thường.
– Hai, là người đó xét-cùng cỗi-gốc tứ-đại, thấy tứ-đại thường-trụ, tu-tập biết được trong bốn muôn kiếp, thập phương chúng-sinh tuy có sinh-diệt, nhưng đều có bản-thể thường-hằng, không hề tan-mất, nên chấp đó là thường.
– Ba, là người đó xét-cùng nguyên-do bản-lai của sáu căn, của sự chấp-thụ thức Mạt-na và của các tâm, ý, ý-thức, thấy tính vẫn thường-xuyên; tu-tập biết được trong tám muôn kiếp, tất-cả chúng-sinh xoay-vần không mất, bản-lai là thường-trụ; rồi xét-tột tính không mất đó, mà chấp là thường.
– Bốn, là người đó nghĩ rằng đã hết Tưởng-ấm, lẽ ra không còn lưu-chuyển, đứng-lặng xoay-vần; tư-tưởng sinh-diệt đã diệt hết rồi, thì trong lý tự-nhiên thành không-sinh-diệt; người đó, nhân tâm-niệm so-đo như thế, mà chấp là thường.
Do những sự chấp thường ấy, bỏ mất Chính-biến-tri, đọa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề, ấy gọi là ngoại-đạo thứ hai, lập những luận viên-thường.
Lại các thiện-nam-tử đó, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, lại móng tâm so-đo chấp-trước giữa mình và cái khác, thì người đó mắc vào bốn kiến-chấp điên-đảo, là những luận “một phần vô-thường, một phần thường” :
– Một là người đó quán cái tâm diệu-minh lặng vậy cùng khắp thập phương thế-giới, cho là cái thần-ngã rốt-ráo; do đó, chấp có cái ta cùng khắp mười phương đứng-lặng sáng-suốt không lay-động, còn tất-cả chúng-sinh, thì ở trong tâm ta tự sinh, tự chết; vậy tâm-tính của ta, thì gọi là thường, còn những bọn sinh-diệt kia, thì thật là vô-thường.
– Hai, là người đó không xét cái tâm, lại xét khắp hằng-sa quốc-độ trong mười phương, thấy có chỗ bị kiếp-tai phá-hoại, thì cho là có tính rốt-ráo vô-thường, còn những chỗ không bị kiếp-tai phá-hoại, thì gọi là rốt-ráo thường.
– Ba, là người đó quán-sát riêng cái tâm mình là tinh-tế nhỏ-nhiệm giống như vi-trần, lưu-chuyển trong mười phương mà tính không dời-đổi, lại có thể khiến cái thân nầy, sinh rồi lại diệt; rồi chấp cái tính không mất đó, là tính thường của mình, còn tất-cả sự sống chết, từ tính ấy sinh ra, thì gọi là vô-thường.
– Bốn, là người đó biết Tưởng-ấm hết rồi, thấy được dòng Hành-ấm, chấp cái lưu-chuyển thường-xuyên của Hành-ấm là tính thường, còn những Sắc-ấm, Thụ-ấm, Tưởng-ấm hiện đã diệt hết, thì gọi là vô-thường.
Do những chấp-trước so-đo “một phần vô-thường, một phần thường” như thế, mà sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ ba, lập những luận “một phần thường”.
Lại các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; khi xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, lại sinh tâm so-đo chấp-trước về phận-vị, thì người đó sa vào bốn cái luận hữu-biên:
– Một, là người đó so-đo cái cỗi-gốc sinh-diệt lưu-chuyển không ngừng, rồi chấp quá-khứ, vị-lai, là hữu-biên và chấp cái tâm tương-tục, là vô-biên.
– Hai, là người đó xét trong tám muôn kiếp thì thấy chúng-sinh, còn trước tám muôn kiếp thì bặt không nghe-thấy gì, rồi gọi chỗ không nghe-thấy, là vô-biên, còn chỗ có chúng-sinh, là hữu-biên.
– Ba, là người đó chấp rằng mình biết cùng khắp, là được tính vô-biên, còn tất-cả các người kia, hiện ra trong cái biết của mình, mà mình không hề biết họ nhận được tính-biết, thì những người kia không được cái tâm vô-biên và chỉ có tính hữu-biên.
– Bốn, là người dó khi xét-cùng diệt-trừ Hành-ấm, dùng tri-kiến của mình, mà so-đo chấp tất-cả chúng-sinh trong mỗi cái thân, đều là phần nửa sinh, phần nửa diệt và chấp tất-cả sự-vật có ra trong thế-giới, đều một nửa là hữu-biên, một nửa là vô-biên.
Do những so-đo, chấp-trước hữu-biên, vô-biên như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề, ấy gọi là ngoại-đạo thứ tư, lập những luận hữu-biên.
Lại các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh lòng so-đo chấp-trước về tri-kiến, thì người đó mắc vào bốn thứ luận hư-vọng “điên-đảo biến-kế, càn-loạn bất-tử” :
– Một, là người đó quán-sát cỗi-gốc biến-hóa, thấy chỗ dời-đổi, thì gọi là biến, thấy chỗ tương-tục, thì gọi là thường, thấy chỗ thấy được, thì gọi là sinh, chỗ không thấy được, thì gọi là diệt; chỗ các nhân tương-tục, không có đứt-đoạn, thì gọi là thêm; chính trong tương-tục, chỗ rời nhau ở giữa, thì gọi là giảm; chỗ mỗi mỗi cái sinh ra, thì gọi là có, chỗ tương-đối không có, thì gọi là không, dùng lý quán-sát tất-cả và dụng tâm thành những kiến-chấp riêng-biệt; có người đến cầu Pháp hỏi nghĩa, thì đáp rằng “Ta nay cũng sinh, cũng diệt, cũng có, cũng không, cũng thêm, cũng bớt”, trong tất-cả thời đều nói lộn-xộn, khiến cho người nghe không thể hiểu được.
– Hai, là người đó chín-xét cái tâm về chỗ tương-đối là không, nhân cái không mà được chứng; có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là không; ngoài chữ không ra, không nói gì cả.
– Ba, là người đó chín-xét cái tâm về chỗ mỗi mỗi đều có, nhân cái đó mà được chứng; có người đến hỏi, chỉ đáp một chữ, chỉ nói là phải; trừ chữ phải ra, không nói gì cả.
– Bốn, là người đó chấp cả có, cả không; do cái cảnh rời-rạc mà tâm cũng rối-loạn; có người đến hỏi thì đáp rằng: “Cũng có, tức là cũng không, trong cái cũng không, không phải là cũng có”; tất-cả đều càn-loạn, không thể nói hết được.
Do những so-đo, chấp-trước càn-loạn, rỗng-trống như thế, mà sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ năm, lập bốn thứ luận hư-vọng, “điên-đảo biến-kế, càn-loạn bất-tử”.
Lại các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh-tâm so-đo chấp-trước nơi dòng sinh-diệt vô-tận, thì người đó sa vào tám loại luận “hậu-hữu-tướng” :
– Người đó nghĩ rằng, trong thân ta hiện nay, có tính sinh-diệt, thì gọi là tính “hậu-hữu-tướng”; còn tính không sinh-diệt, thì gọi là tính “hậu-vô-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-hữu-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-vô-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-hữu-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-vô-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-hữu-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-vô-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-hữu-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-vô-tướng”.
Do những so-đo, chấp-trước hữu-tướng, vô-tướng như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ sáu, lập tám loại luận “hậu-hữu-tướng”.
Lại các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh lòng so-đo chấp-trước nơi cái diệt, thì người đó sa vào tám loại luận “hậu-vô-tướng” :
– Người đó nghĩ rằng, thân ta hiện nay, sinh rồi lại diệt, thì gọi là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, thì gọi là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
Do những so-đo, chấp-trước hữu-tướng, vô-tướng như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ bảy, lập tám loại luận “hậu-vô-tướng”.
Lại các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh lòng so-đo chấp-trước nơi cái diệt, thì người đó sa vào tám loại luận “hậu-vô-tướng” :
– Người đó nghĩ rằng, thân ta hiện nay, sinh rồi lại diệt, thì gọi là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, thì gọi là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
Do những so-đo, chấp-trước hữu-tướng, vô-tướng như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ bảy, lập tám loại luận “hậu-vô-tướng”.
Lại các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh lòng so-đo chấp-trước nơi cái diệt, thì người đó sa vào tám loại luận “hậu-vô-tướng” :
– Người đó nghĩ rằng, thân ta hiện nay, sinh rồi lại diệt, thì gọi là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, thì gọi là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
– Người đó nghĩ rằng, tính sinh-diệt của chúng-sinh, là tính “hậu-vô-tướng”; còn tính không sinh-diệt, là tính “hậu-hữu-tướng”.
Do những so-đo, chấp-trước hữu-tướng, vô-tướng như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ bảy, lập tám loại luận “hậu-vô-tướng”.
Thức Ấm Ma
A-nan, khi Hành-ấm hết rồi, thì cái then-chốt của các sự nhiễu-động đều xóa sạch, và cái bổ-đặc-già-la đã chấm dứt.
Bầu trời niết-bàn sáng-suốt, bỗng-nhiên hiện ra trước, giống như nhìn ra xa về phương Đông, thấy rõ các nước xa xôi. Cái tinh-minh độc-diệu của tâm-tính, bỗng-nhiên hiện ra, chỉ thấy tính sinh-diệt của sáu căn, tính thanh-tịnh bản-nhiên, thì thuần là một thể sáng-suốt, cùng khắp mười phương, không còn các thứ trần-lao, uế-tạp.
Trong cái tinh-minh đó, thấy được nguyên-do thọ-mạng của 12 loại chúng-sinh trong mười phương, mà không chỉ được manh-mối, chỉ nhận được tính đồng nhất của mười phương chúng-sinh, gọi là tính sống; ấy gọi là phạm vi Thức-ấm.
Nếu tiêu-dung sáu căn, thì thấy-nghe dung-thông, không còn các thứ đối-đãi, thì mười phương hư-không, và cái tâm sáng-suốt, đồng một tinh-minh, thì đó là chấm dứt Thức-ấm; người đó vượt khỏi mệnh-trược; xét lại nguyên-do, thì cỗi-gốc là điên-đảo, huyễn-hóa, rỗng-không vọng-tưởng.
A-nan, các thiện-nam-tử đó, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh lòng so-đo chấp-trước nơi cái diệt, thì người đó sa vào bảy loại luận đoạn-diệt:
– Một, là người đó nghĩ rằng, thân ta là cái thân hữu-vô; do bốn đại giả-hợp mà thành; cái thân nầy khi diệt hết, thì còn cái gì nữa; người đó chấp sau khi chết, là đoạn-diệt.
– Hai, là người đó nghĩ rằng, thân ta là cái thân hữu-vô; do bốn đại giả-hợp mà thành; cái thân nầy khi diệt hết, thì còn cái gì nữa; người đó chấp sau khi chết, là đoạn-diệt.
– Ba, là người đó nghĩ rằng, thân ta là cái thân hữu-vô; do bốn đại giả-hợp mà thành; cái thân nầy khi diệt hết, thì còn cái gì nữa; người đó chấp sau khi chết, là đoạn-diệt.
– Bốn, là người đó nghĩ rằng, thân ta là cái thân hữu-vô; do bốn đại giả-hợp mà thành; cái thân nầy khi diệt hết, thì còn cái gì nữa; người đó chấp sau khi chết, là đoạn-diệt.
– Năm, là người đó nghĩ rằng, thân ta là cái thân hữu-vô; do bốn đại giả-hợp mà thành; cái thân nầy khi diệt hết, thì còn cái gì nữa; người đó chấp sau khi chết, là đoạn-diệt.
– Sáu, là người đó nghĩ rằng, thân ta là cái thân hữu-vô; do bốn đại giả-hợp mà thành; cái thân nầy khi diệt hết, thì còn cái gì nữa; người đó chấp sau khi chết, là đoạn-diệt.
– Bảy, là người đó nghĩ rằng, thân ta là cái thân hữu-vô; do bốn đại giả-hợp mà thành; cái thân nầy khi diệt hết, thì còn cái gì nữa; người đó chấp sau khi chết, là đoạn-diệt.
Do những so-đo, chấp-trước đoạn-diệt như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ tám, lập năm loại luận đoạn-diệt.
Lại các Thiện-nam-tử, trong Tam-ma-đề, chính-tâm đứng-lặng vững-chắc, Thiên-ma không còn dịp khuấy-phá; trong lúc xét-cùng cỗi-gốc sinh-loại, xét cái cỗi-gốc thường chuyển-động u-ẩn kia, sinh lòng so-đo chấp-trước nơi cái diệt, thì người đó sa vào năm loại luận niết-bàn:
– Một, là người đó nghĩ rằng, tâm ta hiện nay, còn có chỗ ham-dục, do đó, mà còn lưu-chuyển; nay ta nếu đoạn hết dục-ái, thì tức là niết-bàn.
– Hai, là người đó nghĩ rằng, tâm ta hiện nay, còn có chỗ ham-dục, do đó, mà còn lưu-chuyển; nay ta nếu đoạn hết dục-ái, thì tức là niết-bàn.
– Ba, là người đó nghĩ rằng, tâm ta hiện nay, còn có chỗ ham-dục, do đó, mà còn lưu-chuyển; nay ta nếu đoạn hết dục-ái, thì tức là niết-bàn.
– Bốn, là người đó nghĩ rằng, tâm ta hiện nay, còn có chỗ ham-dục, do đó, mà còn lưu-chuyển; nay ta nếu đoạn hết dục-ái, thì tức là niết-bàn.
– Năm, là người đó nghĩ rằng, tâm ta hiện nay, còn có chỗ ham-dục, do đó, mà còn lưu-chuyển; nay ta nếu đoạn hết dục-ái, thì tức là niết-bàn.
Do những so-đo, chấp-trước niết-bàn như thế, sa-lạc vào ngoại-đạo, lầm-mất tính Bồ-đề; ấy gọi là ngoại-đạo thứ chín, lập năm loại luận niết-bàn.
Kết Luận Về Ngũ Ấm Ma
A-nan, tất cả những ma-sự như thế, đều do người tu hành, trong khi dụng-công, tâm không chánh-kiến, nên sinh ra; hoặc do âm-dương, hoặc do kiếp-số, hoặc do oan-gia, hoặc do nhân-duyên, mà sinh ra; đều là những vọng-tưởng hư-vọng, do mê-lý, mê-sự, mà sinh ra; nếu người tu hành, tâm chánh-kiến, thì không bị các ma-sự ấy; nếu bị, thì phải biết mà hàng-phục, thì tự-nhiên không bị hại.
A-nan, ông nên biết, người tu hành, trong mạt-pháp, phải biết những ma-sự nầy, để tự-bảo-vệ, và bảo-vệ chúng-sinh, để được chánh-giác.
Việc nghe và trì niệm Kinh Địa Tạng mang lại lợi ích vô lượng, như tiêu trừ nghiệp chướng nặng nề, tăng trưởng phước lành, bảo hộ người sống khỏi tai ương, cứu độ vong linh khỏi ác đạo, giúp chúng sinh hướng tới giác ngộ và thành Phật, đồng thời mang lại sự an lạc trong hiện tại và vị lai.