Giải thích ngắn gọn ý nghĩa Kinh Niết Bàn
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana Sutra) là bộ kinh Đại thừa quan trọng, được coi là lời dạy cuối cùng của Phật trước khi nhập Niết Bàn. Kinh nhấn mạnh rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh thường trú, Niết Bàn không phải là hư vô mà là trạng thái chân thường, lạc, ngã, tịnh. Kinh phá bỏ quan niệm Niết Bàn là diệt tận, dạy về thân kim cang bất hoại của Phật, khuyến khích tu tập để nhận ra Phật tánh và đạt giác ngộ viên mãn, mang lại bình đẳng cho tất cả.
Toàn văn Quyển 1 Kinh Niết Bàn
Tổng Quan Về Kinh Đại Bát Niết-Bàn (Tập I, Quyển 1-6)
Kinh Đại Bát Niết-Bàn là bộ kinh đồ sộ trong kho tàng kinh điển Phật giáo Đại thừa, do ngài Đàm-vô-sấm (Dam-bao-seng) từ miền Trung Ấn Độ mang đến Trung Hoa khoảng thế kỷ 5, khởi công dịch sang chữ Hán. Trong Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, kinh này xếp vào Tập 12, kinh số 374 (40 quyển) và kinh số 377 (2 quyển hậu phần). Bản dịch tiếng Việt do Nguyễn Minh Tiến thực hiện, chú giải bởi Nguyễn Minh Hiển (Hiệu Đính Hán Văn), tái bản năm 2015 với chỉnh sửa và bổ sung bởi Nhà Xuất Bản Tôn Giáo. Bản dịch hoàn chỉnh xuất bản lần đầu năm 2009, nhận phản hồi tích cực từ Phật tử trong và ngoài nước (hơn 300 bộ gửi sang Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Australia; hàng trăm bộ thỉnh về chùa lớn; thư tay, email, điện thoại bày tỏ vui mừng). Năm 2013, AVG sản xuất phim phóng sự “Người Dịch Kinh Phật” phát sóng ngày 23/2/2013 và lặp lại nhiều lần; tháng 9/2013, Vietnam Records Book Center công bố bản dịch xác lập kỷ lục quốc gia; các website Phật giáo toàn cầu phổ biến rộng rãi. Từ phản hồi, nhóm dịch nghiên cứu sâu hơn ý nghĩa kinh văn để hoàn thiện bản dịch, nhằm giúp học tu đúng hướng, lưu giữ chuẩn xác bản Hán văn (đối chiếu khi nghi ngờ), và xây dựng phiên bản điện tử miễn phí tại http://rongmotamhon.net. Mục đích cuối cùng: giúp sự học hỏi và tu tập theo lời Phật dạy đúng hướng, vì kinh điển là ức cứ quan trọng nhất cho con đường tu của mỗi người. Lần tái bản này phân chia phẩm theo cấu trúc Hán văn Đại Chánh Tạng, nhấn mạnh Như Lai nhập Niết-bàn, thân kim cang, tánh Phật, và phẩm chất giải thoát chân thật (vô đẳng lữ, vô ưu sầu, vô trần cấu, v.v., như liệt kê chi tiết dưới đây).
Lời Nói Đầu Và Bối Cảnh Lịch Sử
Lịch sử dịch kinh: Đàm-vô-sấm dịch từ thế kỷ 5, bản Hán văn chuẩn trong Đại Chánh Tạng. Bản Việt dịch góp phần nhỏ giúp tiếp nhận dễ dàng hơn, khảo định Hán văn để lưu truyền chuẩn xác, giúp đối chiếu và cao minh chỉ lỗi.
Hoàn thiện bản dịch: Soát lại, chỉnh sửa kỹ lưỡng từng phần để rõ ràng, trong sáng, chuyển tải ý nghĩa thâm sâu. Tái bản bổ sung cấu trúc phẩm theo Hán văn, xây dựng phiên bản điện tử miễn phí.
Phản hồi và tác động: Đón nhận nồng nhiệt từ 2009; phim AVG 2013; kỷ lục quốc gia 2013; phổ biến toàn cầu. Nhóm dịch tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng mong đợi Phật tử.
Tóm Tắt Nội Dung Quyển 1 (Phẩm Thọ Mạng, Tánh Như Lai, Kim Cang Thân, v.v.)
Quyển 1 mô tả Đức Phật sắp nhập Niết-bàn tại Câu-thi-na (quê tộc Lực-sĩ), bên sông A-lỵ-la-bạt-đề, rừng Sa-la Song thọ, ngày rằm tháng hai. Phật phát thần lực tạo âm thanh lớn vang tam thiên đại thiên thế giới, thông báo nhập Niết-bàn, khuyên hỏi pháp lần cuối. Phóng hào quang ngũ sắc từ lông mày, chiếu sáng tam thiên thế giới, tiêu phiền não tội lỗi cho lục đạo chúng sinh. Chúng sinh đau buồn, khóc lóc, an ủi nhau đến lễ Phật hỏi pháp.
Các chúng tụ họp:
Tỳ-kheo: Ma-ha Ca-chiên-diên, Bạc-câu-la, Ưu-ba-nan-đà, tám trăm vạn A-la-hán run rẩy, khóc than, súc miệng, rửa tay, rửa, lễ Phật, đi quanh trăm ngàn vòng, chắp tay, lui bên.
Tỳ-kheo-ni: Câu-đà-la, Thiện Hiền, Ưu-ba-nan-đà, Hải Ý, sáu mươi ức Đại A-la-hán, cùng Bồ-tát Hải Đức, Vô Tận Ý lễ Phật, đi quanh, chắp tay, lui bên.
Ưu-bà-tắc: Oai Đức Vô Cấu Xưng Vương, Thiện Đức; Ưu-bà-di: Thọ Đức, Đức Man, Tỳ-xá-khư; dân tộc Ly-xa tại Tỳ-da-ly chuẩn bị cúng dường gỗ thơm, hương hoa, xe báu, thức ăn nước tám công đức, trải cát vàng, rửa vải ca-lăng-già, hy-bà-la, lụa nhiều màu, tòa sư tử bảy báu, treo phướn lọng cờ, phát nguyện bố thí, lễ Phật, đi quanh, khóc cầu nhận cúng cuối, Phật không nhận, buồn não, lui bên.
Thần tiên, thiên nữ, long vương, quỷ thần, voi sư tử chúa, chim cánh vàng, càn-thát-bà, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, à-tu-la, đà-na-bà, la-sát, thần cây, trì-chú, quỷ dưới đất, thiên tử, thần gió mây, voi sư tử chim trâu bò, thần biển sông, tiên nhân Nhẫn Nhục, ong chúa Diệu Âm, núi Tu-di và núi khác trang nghiêm rừng suối hoa thơm, thần tiên chú thuật, dâng hoa quả sữa hương, lễ vật, đi quanh chắp tay cầu nhận cúng, Phật không nhận, buồn não, lui bên.
Bốn Thiên Vương, Đế-thích, ba mươi ba Thiên, lục thiên, Đại Phạm Thiên, Hữu đỉnh thiên, Tỳ-ma-chất-đa A-tu-la vương, Ma vương Ba-tuần quyến thuộc chuẩn bị cúng hoa mạn-đà-la, ca-chỉ-lâu-già, mạn-thù-sa, tán-đa-ni-ca, ái-lạc, phổ-hiền, thời, hương-thành, hoan-hỷ, phát-dục, hương-túy, phổ-hương, kim-diệp, long, ba-lỵ-chất-đa, câu-tỳ-đà-la, hy thức ăn thượng diệu, kỹ nhạc, phan cái tràng cờ lọng che tam thiên thế giới, lễ Phật đi quanh vô số vòng cầu nhận cúng, Phật không nhận, buồn não, lui bên.
Phản ứng đại chúng: Buồn than “Khổ thay! Thế gian trống rỗng! Như Lai nhập Niết-bàn!” Đất chấn sáu cách, hào quang từ miệng Phật nhập lại, chúng sinh kinh hãi, lông dựng, cổ họng khô, thân quang mất, oai đức diệt.
Văn-thù-sư-lợi an ủi: Chỉ Phật Hư Không Đẳng phương đông, cõi Ý Lạc Mỹ Âm, Bồ-tát Vô Biên Thân và vô lượng Bồ-tát cúng dường, khiến hào quang chúng sinh không hiện. Đại chúng thấy Phật Hư Không Đẳng như trong gương, nhờ thần lực Phật thấy chín phương vô lượng chư Phật.
Mô tả cõi Phật Hư Không Đẳng: Bồ-tát Vô Biên Thân mỗi毛孔生大莲花, mỗi hoa chứa bảy vạn tám ngàn thành ấp trang nghiêm bảy báu, cây đa-la bảy lớp, nhân dân phồn thịnh, lầu canh vàng, hào sâu bảy báu, cây quý, gió thổi âm thanh vi diệu, nước lưu ly, thuyền bảy bảo, ao tắm, hoa ưu-bát-la câu-vật-đầu ba-đầu-ma phân-đà-lỵ, hy vườn lâm suối năm dòng, cung điện bốn bảo vàng bạc lưu ly pha lê kim sa, tháp vàng như vườn Hoan Hỷ Đao-lợi. Mỗi thành tám vạn bốn ngàn vương, mỗi vương vô lượng phu nhân thể nữ vui vẻ, nghe âm thanh thượng diệu khoái lạc, nghe Đại thừa thanh tịnh, không聞余名, trên tòa sư tử bốn chân hám lưu ly, y nhu nhuận phủ tòa, y vi diệu quá tam giới, vương坐 dạy Đại thừa, chúng sinh书持读诵修行, lưu布 Đại thừa kinh điển.
Bồ-tát Vô Biên Thân an trụ chúng sinh: Lệnh舍世乐,皆言苦哉 thế gian空虚 Như Lai不久入 Niết-bàn. Bồ-tát与 vô lượng Bồ-tát châu táp,示现神通力,持 vô lượng cúng dường,香美饮食,聞食香气烦恼垢灭, nhờ thần lực见 biến hóa,身大 vô biên lượng đồng hư không,唯佛能见其量边际. Bồ-tát dâng cúng dường倍胜前, lễ Phật,合掌恭敬, cầu Phật哀愍受食, tam thỉnh不 nhận,退住一面. 南西北方诸佛世界亦有 vô lượng vô biên身 Bồ-tát,持供养倍胜前,至 Phật所却住一面皆如是.
Sa-la song thọ kiết tường phúc địa: 纵广二十二由旬, đại chúng充滿无空缺. 四方 vô biên thân Bồ-tát坐处或如锥头针锋微尘,十方如微尘等诸佛世界诸大 Bồ-tát悉来集会,及 Diêm-phù-đề tất cả đại chúng亦悉来集,唯 trừ Ma-ha Ca-diếp A-nan nhị chúng, A-xà-thế vương quyến thuộc,毒蛇视能杀人蝣蜋蝮蝎及 sixteen kind row evil業者 tất cả come tập, đà-na-bà thần a-tu-la等悉捨恶念皆生慈心,如父如母如姊如妹,three thousand great thousand world sinh vật慈心相向亦复如是, trừ one阐提.
Tam thiên đại thiên thế giới: 地柔软,無丘墟土沙砾石荆棘毒草,衆寶莊嚴犹如西方無量壽佛極樂世界. Đại chúng悉 see ten phương như vi trần等諸佛世界,như於明鏡自觀己身,see chư Phật đất亦复如是.
Như Lai diện môn xuất ngũ sắc quang minh: 曜覆諸大会,令彼身光悉不復現,所應作已還從口入. Thời chư thiên nhân及 chư hội衆阿修羅等see Phật quang minh還從口入,皆大恐怖身毛為豎,復作是言,như lai quang minh出已還入,non vô nhân duyên必於 ten phương所作已辦,將是最後涅槃之相.何其苦哉.如何世尊.Once捨離 four無量心,not受人天所奉供養,thánh huệ日明 từ nay永滅,無上法船於斯沈沒,呜呼痛哉,thế gian đại khổ. 舉身椎胸悲號啼哭,支節顫抖不能自持,身諸毛孔流血灑地.
Phẩm Thọ Mạng (Đệ Nhất Chi Nhất)
Ưu-bà-tắc Thuần-đà: Tại Câu-thi-na, dẫn 15 người đồng loại, xả thân oai nghi, quỳ sát đất, chắp tay khóc lệ, lễ Phật túc, cầu Thế Tôn và tỳ-kheo tăng thọ tối hậu cúng dường để độ vô lượng chúng sinh. Từ nay vô chủ thân, bần cùng cơ khổ, cầu Như Lai thực tương lai, thọ cúng đoạn bần cùng khổ não. Ví dụ như sát-lợi tỳ-xá thủ-đà dịch lực nông tác đắc hảo điều ngưu lương điền trừ sa lậu ác thảo châu ngộ, hy Như Lai cam lộ pháp vũ. hy bốn tính bần tức thân bần vô thượng pháp tài bảo, nguyện thọ như La-hầu-la.
Phật đáp: Thiện tai! Thọ cúng trừ đoạn bần cùng. Vô thượng pháp vũ vũ thân điền linh pháp nha. Thí quả báo vô sai: thọ đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề; thọ nhập Niết-bàn. Thọ tối hậu cúng linh cụ túc đàn ba-la-mật.
Thuần-đà bạch: Nhị thí quả báo bất nhiên. Tiên thọ phiền não vị tận, vị thành tựu chủng trí, linh chúng sinh cụ túc đàn ba-la-mật. Hậu thọ phiền não tận, thành tựu chủng trí, linh chúng sinh phổ cụ túc. Tiên thọ trực thị chúng sinh, tạp thực thân phiền não hậu biên vô thường thân; hậu thọ vô phiền não kim cang pháp thân thường biên thân. Tiên thọ vị cụ túc Bát-nhã ba-la-mật, đắc nhục nhãn vị Phật huệ nhãn; hậu thọ cụ túc Phật huệ nhãn. Tiên thọ thực hám đắc mạng sắc lực an vô ngại biện; hậu thọ bất thực vô ngũ sự quả.
**
(Kinh văn bị cắt ở đây trong kết quả trích xuất; Quyển 1 tiếp tục với các phẩm như Phẩm Trường Thọ, Phẩm Ai Thán, Phẩm Kim Cang Thân, v.v. Để có toàn bộ, có thể tham khảo bản đầy đủ từ nguồn PDF. Phần này là trích xuất chính từ Quyển 1, dựa trên bản dịch Đoàn Trung Còn - Nguyễn Minh Tiến.)
Lợi lạc của việc nghe và trì niệm kinh
Việc nghe và trì niệm Kinh Niết Bàn mang lại lợi ích vô lượng: nhận ra Phật tánh, diệt trừ phiền não, tăng trưởng trí huệ, được chư Phật hộ niệm, thoát vòng sinh tử, đạt Niết Bàn chân thật thường trú lạc ngã tịnh, độ thoát chúng sanh, và chứng quả giác ngộ viên mãn, như mặt trăng tròn rọi sáng đêm tối.