Tản văn của nhà báo Ngô Bá Lục
Giọng đọc: Nhà báo Công Hân
Hôm qua mùng Một đấu tháng âm lịch,
đi Phủ Tây Hồ cầu an. Thắp hương xong có lộc mang về nhà. Sáng nay trước khi đi
làm, tranh thủ mang phẩm oản đặt lên bàn thờ. Thắp nén hương thành tâm kính
Mùi hương thoảng vương khắp phòng,
thật đặc biệt. Mùi hương của kỷ niệm, của thời thời ấu thơ, của những ngày gian
nan vất vả. Mùa hương như những mạch ngầm nuôi dưỡng tâm hồn mình suốt thời thơ
Hồi xưa, quê mình nghèo lắm. Xác xơ.
Mùa đông thì lạnh buốt, tiêu điều. Tụi trẻ con đi chăn trâu đứa nào cũng mang
theo một cái bếp lò làm bằng ống bơ sữa bò. Cho quả phi lao khô vào đó và nhóm
lên, khói cay mắt, mặt mũi đứa nào cũng tèm lem nhọ than.
Quê mình ngày xưa có truyền thống làm
hương để bán dịp Tết nguyên đán. Bởi vì, chỉ có làm hương thì mới có tiền sắm
Tết. Hầu như nhà nào cũng thế. Vậy là hàng năm cứ vào dịp tháng 10 âm lịch trở
đi, cả làng nhộn nhịp làm hương, đi đến đâu cũng thấy mùi hương bay ngào ngạt.
Làm hương đen thật vất vả. Công đoạn
đầu tiên là vót tăm hương. Khâu này người ta làm túc tắc suốt năm. Tăm hương
được sử dụng từ những cây tre đã ngâm xuống bùn ao từ một đến hai năm. Chẻ tre
thành từng thanh nhỏ và phơi khô, sau đó vót thành tăm hương. Thường có 3 loại:
Hương sào, hương nhỡ và hương nhít. Hương sào thường dài khoảng 1,2 mét. Loại
này thường thắp trong 3 ngày Tết, cứ buổi sáng thắp hương thì đến nửa đêm, hoặc
sáng hôm sau mới phải thay nén mới. Hương nhỡ dài khoảng 80 cm dành cho những
gia đình có mái nhà thấp mà không dùng được hương sào. Hương nhít là loại hương
nhỏ và ngắn như hương thẻ mà mọi người vẫn đang dùng đi chùa, đền hiện tại.
Nhưng hương quê mình màu đen.
Công đoạn tiếp theo là thực hiện chế
biến nguyên vật liệu, gồm than hoa, nhựa thông. Than hoa cho vào giã nhỏ thành
bột. Ngày xưa chưa có máy xay, toàn giã
bằng cối giã gạo, bụi mù mịt. Cứ nhà nào giã than thì cả nhà ấy đen xì, từ sân,
bếp, bờ tường và thậm chí cả cây cối xung quanh nhà. Xong là mất nguyên ngày cọ
rửa. Sau khi đã có bột than thì cho nhựa thông vào nồi nấu lên thành nước. Lấy rơm
cuộn lại hình elip để làm bộ lọc, cho than bột vào chậu, đổ nước nhựa thông qua
bó rơm, chảy xuống chậu rồi nguấy lên, nhào thành hợp chất sền sệt, khi nào đặc
mà bốc lên để nặn được thì đổ vào cối…giã tiếp. Nhà nào giã càng kỹ, nến càng
nhuyễn, hương cháy càm đượm, do vậy giã bao giờ nhuyễn thì bỏ ra ngoài, vặt
thành từng cục nhỏ như nắm tay, nặn tròn trịa rồi đem…phơi khô.
là “se hương”. Cả nhà quây quần quanh cái nồi, những bàn se hương thường rộng
30 cm và dài hơn 1 mét. Những cục nến phơi khô được cho vào nồi hấp lên cho
mềm, rồi véo từng cục nhỏ, để lên bàn, se se cho dài ra, sau đó quấn vào tăm
hương, tiếp tục se cho quyện vào tăm, rồi bỏ ra cái sàng cho nó khô. Xong xuôi
thì bó lại từng chục (hương sào), từng thăm (hương nhít).
đó khi thắp rất thơm, mùi của nó thật đặc biệt và rất khó tả. Vì là mùi hương
nhựa trám tự nhiên, không dùng bất cứ hương vị nhân tạo nào, nên mùi hương thật
từ những tháng ngày gian khổ ấy, lớn lên bằng mùi hương quen thuộc, bằng tiếng
vót tăm hương của bố sột soạt trong những đêm đông lạnh buốt, bằng tiếng rao
bán hương của mẹ vọng cả xóm chiều, bằng tiếng giã than, tiếng tăm hương đập
thắp 3 nén nhang, bỗng thấy quê hương ùa về, đặc quánh.