Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI
... moreShare Tạp chí tiêu điểm
Share to email
Share to Facebook
Share to X
Cựu tổng thống Mỹ, ứng viên đảng Cộng Hòa Donald Trump đã giành chiến thắng áp đảo trong cuộc bỏ phiếu ngày 05/11/2024, trở thành tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ. Trở lại Nhà Trắng, Donald Trump sẽ xử lý thế nào các cuộc khủng hoảng địa chính trị hiện nay, từ Ukraina, Cận Đông cho đến Đài Loan ? Donald Trump có thể sẽ bỏ rơi một số đồng minh, hay buộc họ phải « trả phí » để có sự hậu thuẫn từ Mỹ ?
Nguyên nhân thất bại của Kamala HarrisTheo kết quả kiểm phiếu được AP cập nhật đến sáng 07/11/2024, lúc 11 giờ, giờ Paris, cựu tổng thống Mỹ Donald Trump đã có được sự ủng hộ của 295 đại cử tri, bỏ xa đối thủ đảng Dân Chủ, phó tổng thống sắp mãn nhiệm Kamala Harris, chỉ được 226 phiếu.
Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà báo Phạm Trần từ Washington trước hết nhận định về kết quả cuộc bỏ phiếu :
Nhà báo Phạm Trần : « Kết quả không có gì ngạc nhiên. Thứ nhất, khi tranh cử, Kamala Harris đã được nhiều nữ cử tri hưởng ứng và hứa bỏ phiếu cho bà. Thứ hai là những người di dân, thiểu số. Bởi vì bà Harris là người gốc di dân, thiểu số, rồi lại là người da mầu. Đây là những yếu tố có thể hội đủ số phiếu cử tri.
Nhưng ngược lại, bà Harris không có được lá phiếu ủng hộ của giới trẻ và đàn ông của nước Mỹ. Những người này đã dồn phiếu cho ông Trump. Trong khi đó giới nữ da trắng, một phần ủng hộ bà Harris nhưng phần lớn vẫn nghiêng về phía đảng Cộng Hòa. Do vậy ông Trump đã có nhiều lợi điểm thắng thế trong cuộc bỏ phiếu vừa qua. »
Theo hãng tin Reuters, bất chấp những hứa hẹn bảo vệ việc làm cho giới công nhân công đoàn, bà Kamala Harris đã không nhận được sự ủng hộ của Hiệp hội Nghiệp đoàn IBT (International Brotherhood of Teamsters), vốn ủng hộ nhiệt tình đảng Dân Chủ từ năm 1996. Giới lãnh đạo nghiệp đoàn nêu rõ một trong những thất bại của chiến dịch vận động tranh cử của Kamala Harris : Bà không có khả năng thuyết phục tầng lớp cử tri công nhân, vốn dĩ lo lắng về tình trạng lạm phát và tình hình kinh tế.
Nhưng không chỉ có thế. Theo quan sát nhà báo Phạm Trần, những người bỏ phiếu cho Donald Trump còn ủng hộ ý kiến « Make America Great Again » mà nhà tỷ phú Mỹ không ngừng hô hào từ suốt 8 năm qua.
Nhà báo Phạm Trần : « Trong chương trình tranh cử, Kamala Harris tuyên bố, thứ nhất, sẽ có các biện pháp hạ giá tất cả các loại nhu yếu phẩm. Thứ hai là giảm thuế. Điểm thứ ba là sẽ nghiên cứu một chính sách di dân. Cuộc bầu cử vừa qua đúng là có những vấn đề về kinh tế, có vấn đề di dân, nhưng thêm vào đó, các cuộc trưng cầu dân ý cho thấy là người dân Mỹ cũng quan tâm đến vấn đề dân chủ, vấn đề sức mạnh của đất nước, và do vậy, những thành phần cử tri đó đã nghiêng về phía ông Trump.
Kinh nghiệm từ cuộc bầu cử năm 2016, năm ông Trump đắc cử lần đầu, cho thấy ông ấy có chính sách quốc phòng mạnh, có chính sách kinh tế mạnh và muốn bảo vệ quyền lợi của người dân Mỹ, thay vì phân phối tài nguyên của nước Mỹ để cho các nước khác có thể nhờ vào đó làm giàu, ví dụ như Trung Quốc, đối với ông Trump, quốc gia có cùng chung đường lối về vấn đề kinh tế hay phát triển, hay mậu dịch. Do vậy, người dân Mỹ ủng hộ chính sách này. Nếu nói là bảo thủ thì hơi quá đáng, nhưng thực sự người dân Mỹ ủng hộ ý kiến phải làm cho nước Mỹ cường thịnh trước đã, rồi mới lo đến các nước khác. »
Ukraina : Viễn cảnh bị bỏ rơi hay bị ép nhượng thổVề đối ngoại, trong quá trình vận động tranh cử, Donald Trump từng tuyên bố, « sẽ chấm dứt tất cả các cuộc khủng hoảng quốc tế mà chính quyền hiện tại đã tạo ra, kể cả cuộc chiến tranh khủng khiếp giữa Nga và Ukraina, có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra nếu tôi là tổng thống ». Nhà tỷ phú Mỹ khẳng định rằng ông có khả năng chấm dứt các xung đột trên thế giới chỉ bằng « một cú điện thoại ».
Trong suốt thời gian vận động tranh cử, Donald Trump không ngừng đả kích sự hậu thuẫn quân sự và tài chính mạnh mẽ mà chính quyền Biden dành cho Ukraina, tính đến hôm nay đã lên đến 85 tỷ euro, theo thống kê từ Viện Kiel của Đức.
Kiev toát mồ hôi hột khi người đứng liên danh với Donald Trump, J.D. Vance, hồi tháng Chín năm nay, trong một podcast đăng trên Youtube có tựa đề « Shawn Ryan Show » mô tả việc hình thành một vùng « phi quân sự hóa » trên lãnh thổ Ukraina dọc theo đường chiến tuyến, « sẽ được củng cố mạnh mẽ để Nga không thể xâm chiếm Ukraina ». Theo Franceinfo, điều này cũng có thể được hiểu là « hãy để cho Nga kiểm soát các vùng lãnh thổ mà họ đã chiếm được, vào thời điểm đề xuất đàm phán ».
Ngoài ra, đoạn video của ông Vance khẳng định kế hoạch « hòa bình » của ông Trump còn bao gồm cả việc cấm Ukraina gia nhập NATO hoặc các « thể chế đồng minh khác », theo như yêu cầu từ Vladimir Putin. Và đi xa hơn nữa là Mỹ sẽ đình chỉ hoặc ngừng hoàn toàn viện trợ quân sự. Về hồ sơ này, nhà báo Phạm Trần giải thích thêm :
Nhà báo Phạm Trần : « Đây là điều đáng quan tâm. Khi tranh cử, Donald Trump đã nói rõ là nếu đắc cử, ông sẽ không tiếp tục viện trợ vũ khí, đạn dược cho Ukraina nữa. Ông nói rằng nước Mỹ không có quyền lợi gì ở Ukraina. Đây là điểm khiến nhiều thành phần ở nước Mỹ, đặc biệt là các nghị sĩ, dân biểu Quốc Hội, nhất là bên phía đảng Dân Chủ, không hài lòng. Bởi vì, dù sao đi nữa, Hoa Kỳ cũng đứng đầu thế giới tự do, đi đầu về bảo vệ nhân quyền và sức mạnh của châu Âu.
Nếu Donald Trump bỏ rơi Ukraina, thì châu Âu rất lo ngại, bởi vì bên cạnh Ukraina là Ba Lan và nhiều nước khác nữa có nguy cơ bị tổng thống Nga Vladimir Putin tiếp tục xua quân chiếm đóng. Và nếu Mỹ không can thiệp, Mỹ không muốn bảo vệ, thì tình hình thế giới sẽ biến loạn và có nhiều nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh khác ở châu Âu nói riêng và toàn thế giới nói chung.
Điều đáng quan tâm là liệu ông Trump có thi hành những cam kết trong cuộc vận động tranh cử hay không ? Hay là ông ấy sẽ phải nhượng bộ ? Tôi tin rằng trong trường hợp của Ukraina và về tình hình an ninh của châu Âu cũng như là an ninh ở Trung Đông, các nước châu Phi, thì ông Trump không có khả năng để vượt qua quyền hạn của Quốc Hội, vượt qua ý muốn của người dân, để mà bỏ rơi Ukraina, bởi vì an ninh của châu Âu cũng là an ninh của nước Mỹ. »
Đài Loan phải trả phí bảo vệ cho Mỹ ?Tại châu Á, các nước đồng minh cũng phập phồng lo âu. Mọi cặp mắt đổ dồn vào Đài Loan. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, Donald Trump đã làm cho mối quan hệ giữa Washington và Đài Bắc thêm gần gũi, trước sự thất vọng của Bắc Kinh, vốn dĩ xem Đài Loan là một phần lãnh thổ. Franceinfo nhắc lại, vào năm 2017, ngay khi vừa nhậm chức, Donald Trump đã có cuộc nói chuyện với tổng thống Đài Loan lúc bấy giờ là Thái Anh Văn. Cử chỉ chưa từng có này đã gây ra sự cố ngoại giao với Trung Quốc.
Kể từ đó, Hoa Kỳ là « đồng minh hùng mạnh nhất và là bên cung cấp vũ khí chính » cho hòn đảo. Washington tuyên bố chính sách « mơ hồ chiến lược » : Không công nhận Đài Loan, cũng không ủng hộ ý tưởng độc lập chính thức và phản đối bất kỳ hình thức thống nhất nào bằng vũ lực. Trong năm 2024, Hoa Kỳ còn thông qua gói hỗ trợ quân sự trực tiếp cho Đài Loan.
Nhưng các phát biểu của Donald Trump khi tranh cử khiến giới quan sát dự đoán có sự thay đổi về quan điểm, vì ông cho rằng « Đài Loan nên trả tiền để Mỹ bảo vệ họ ». Quan hệ Mỹ - Trung dưới nhiệm kỳ hai của Donald Trump sẽ ra sao ? Tình hình eo biển Đài Loan sẽ diễn tiến như thế nào ? Nhà báo Phạm Trần đưa ra một số nhận định :
Nhà báo Phạm Trần : « Theo kinh nghiệm nhiệm kỳ đầu tiên, Donald Trump rất cứng rắn với các mặt hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, ví dụ như hàng giả hay như việc Trung Quốc trợ giá để đánh bại hàng hóa của Mỹ. Nhưng về mặt chính trị, Donald Trump vẫn giữ các mối liên lạc chặt chẽ với chủ tịch Tập Cận Bình nói riêng và các lãnh đạo khác của Trung Quốc nói chung.
Về vấn đề an ninh châu Á – Thái Bình Dương, lập trường của ông Trump tuy cứng rắn, nhưng ông có những mối quan hệ khá đặc biệt với Bắc Triều Tiên và với Nga. Điều đáng quan tâm ở đây là vai trò của Mỹ trong khu vực : Liệu nước Mỹ của Donald Trump có bảo vệ Đài Loan khi Trung Quốc tấn công hòn đảo này? Đây là điều chưa ai có thể biết được.
Tuy nhiên, kinh nghiệm lịch sử các đời tổng thống Mỹ cho thấy eo biển Đài Loan vẫn do Hoa Kỳ tuần dương hàng ngày và có hạm đội số 7 tại vùng châu Á – Thái Bình Dương luôn giám sát, bảo vệ đảo Đài Loan. Tất cả tầu bè đi lại hay các hạm đội Trung Quốc đi qua eo biển để xuống vùng Biển Đông đều được lực lượng hải quân Hoa Kỳ theo dõi.
Quả thật, chuyện tương lai không ai biết được sẽ diễn ra như thế nào, và có thể gây nguy hiểm cho tình hình an ninh châu Á – Thái Bình Dương hay không ? Nhưng ông Donald Trump hay bất cứ một vị tổng thống nào cũng phải đặt quyền lợi của nước Mỹ, quyền lợi các đồng minh của Mỹ, đặc biệt là với Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines, lên hàng đầu.
Thế nên, nỗi lo ông Trump bắt tay với Trung Quốc để cho nước này tự do hoành hành, tự do chiếm các biển đảo của các nước ở vùng Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam với vùng Biển Đông, tôi không tin là sẽ xảy ra ! »
Báo Pháp Le Figaro ngày 06/11/2024, cho biết trong đêm ngày bỏ phiếu 05/11, lực lượng Không gian Mỹ đã cho bắn thử một tên lửa đạn đạo liên lục địa « Minuteman III », có thể mang đầu đạn hạt nhân từ căn cứ Vendenberg ở bờ Tây Thái Bình Dương nước Mỹ. Vì sao Hoa Kỳ lại chọn đúng ngày bầu cử để thử nghiệm vũ khí là điều khiến giới quan sát thắc mắc.
Tờ báo Pháp thiên hữu này nhắc lại cuộc thử nghiệm này diễn ra trong bối cảnh Nga vừa xem xét lại học thuyết hạt nhân (26/09/2024), Bắc Triều Tiên cách nay vài ngày bắn thử tên lửa đạn đạo liên lục địa ICBM, cũng như căng thẳng gia tăng nghiêm trọng giữa hai cường quốc hạt nhân tại Trung Đông là Israel và Iran. Một lời cảnh cáo ngầm cho các đối thủ lớn của Mỹ và đồng minh của Mỹ chăng ?
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà báo Phạm Trần từ Washington.
Ngày 05/11/2024, cử tri Mỹ phải phân định ai sẽ là tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ : Ứng viên đảng Dân chủ Kamala Harris hay Donald Trump, ứng viên đảng Cộng Hòa, hiện đang bám gót trong các cuộc thăm dò. Tuy nhiên, bất kể ai là người chiến thắng, Bắc Kinh vẫn sẽ là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Washington. Và trong cuộc đọ sức « dài hơi » này, Đông Nam Á sẽ giữ một vai trò quan trọng.
Nếu như thế giới, đặc biệt là châu Âu, NATO và Ukraina hồi hộp trông đợi kết quả bầu cử, và nhiều nước hy vọng tránh được sự trở lại với sự « xáo động » và tính chất bất định, đánh dấu nhiệm kỳ Donald Trump, thì tại Trung Quốc, giới lãnh đạo dường như đang chuẩn bị tiếp tục đương đầu các tranh chấp thương mại với Hoa Kỳ, bất kể ai là người thắng cử.
Tính liên tục của chính sách đối ngoại MỹBởi vì, tại Washington, có một sự đồng thuận lưỡng đảng, xem Trung Quốc là mối đe dọa cho thế thống trị của Hoa Kỳ và do vậy, cả hai ứng viên, Kamala Harris hay Donald Trump, đều hòa theo xu hướng chống Trung Quốc trong chính giới Mỹ, đã hứa hẹn cứng rắn hơn với Trung Quốc, nền kinh tế thứ hai trên thế giới và là đối tác thương mại quan trọng của Mỹ.
Mục tiêu đặt ra cho cả hai ứng viên, là Hoa Kỳ phải « giành chiến thắng » trong điều mà họ xem như là một cuộc cạnh tranh giữa hai đại cường. Theo nhiều nhà quan sát, tương lai thế giới trong nhiều thập niên sắp tới sẽ do quan hệ Mỹ - Trung, mối quan hệ quốc tế quan trọng nhất, định đoạt.
Nicole Gnesotto, phó chủ tịch Viện Jacques Delors, tại hội thảo mang chủ đề « Hoa Kỳ : Lại bị chao đảo ? », trong khuôn khổ Ngày hội Địa Chính Trị Nantes 2024 (27-28/09/2024) do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược IRIS tổ chức, nhận định, tính chất liên tục trong cuộc đối đầu Mỹ - Trung, là một trong nét đặc trưng của nền ngoại giao Mỹ trong những thập niên gần đây.
« Năm 2011, Barack Obama là người đầu tiên nói đến xoay trục sang châu Á, người đầu tiên mang đến một ý nghĩa chiến lược cho mối bận tâm hàng đầu về Trung Quốc của Mỹ. Rồi Donald Trump đã mang đến một sắc thái thương mại cho mối ưu tiên hàng đầu này, điểm khởi đầu cho chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch chống nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc. Tiếp đến, Joe Biden đã biến mối đe dọa này theo chiều hướng công nghệ, với các sắc lệnh được đưa ra năm 2023, cấm các nhà công nghiệp Mỹ chuyển giao hay hợp tác với ngành công nghiệp Trung Quốc trên nhiều hồ sơ nhậy cảm.
Nhưng tất cả những đời tổng thống này, bất kể là Obama, Trump hay Biden, còn có thêm chút sắc thái ý thức hệ, nghĩa là, một cuộc đấu tranh lớn giữa một bên là các nền dân chủ và bên kia là các chế độ chuyên chế độc tài. Do vậy, dù là Trump hay Harris có thắng cử đi chăng nữa, nỗi ám ảnh mối đe dọa Trung Quốc vẫn sẽ là một trong các điểm quan trọng, thậm chí là những rường cột cho chính sách đối ngoại của Mỹ. Đây sẽ là một vấn đề cho châu Âu. »
Châu Á – Ưu tiên số một, châu Âu – vùng ngoại viKể từ giờ, Trung Quốc được chính giới Mỹ nhất trí phải đối xử như như là địch thủ, đối thủ cạnh tranh chính của Mỹ. Những biện pháp chính quyền Trump đưa ra để chống Trung Quốc đã được người kế nhiệm Biden duy trì, từ việc áp thuế nhập khẩu, kiểm soát chuyển giao công nghệ cao, cho đến các biện pháp trừng phạt vi phạm nhân quyền nhắm vào Bắc Kinh.
Theo nhiều chuyên gia được AFP trích dẫn, Bắc Kinh không trông đợi một sự đảo hướng nào từ phía Donald Trump lẫn Kamala Harris. Kinh tế gia Adam Slater tại Oxford Economics, trong một ghi chú, cảnh báo rằng, « việc tăng cường chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch sau cuộc bầu cử Mỹ có nguy cơ dẫn đến việc tái cơ cấu lớn nền thương mại toàn cầu. Chính sách thuế quan của Donald Trump có khả năng làm suy giảm trao đổi thương mại Trung – Mỹ đến 70% và có thể gây ra sự biến mất hoặc tái định hướng hàng trăm tỷ đô la trao đổi thương mại. »
Nhìn chung châu Á vẫn sẽ là ưu tiên hàng đầu cả trên bình diện thương mại lẫn về mặt chiến lược trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong buổi hội thảo ở Nantes, cựu đại sứ Pháp ở Washington và Tel Aviv, ông Gerard Araud, lưu ý rằng, Hoa Kỳ đang « rón rén » rời khỏi châu Âu và Ukraina là một rào cản, làm Mỹ bị phân tán khỏi điều cốt lõi.
« Đối với Hoa Kỳ, điều cốt lõi được tóm gọn trong ba từ : Trung Quốc, Trung Quốc và Trung Quốc. Người Mỹ cho rằng châu Á mới là nơi mang đến tăng trưởng. Khi châu Âu có mức tăng trưởng 2% họ đã hô hào phấn khởi, nhưng khi Trung Quốc đạt 5% thì họ nói rằng Trung Quốc gặp khủng hoảng.
Tuy nhiên, đối với nhiều người Mỹ, có một thực tế hiển nhiên là tương lai thế giới sẽ được định đoạt trong quãng không gian nằm giữa New Delhi và Los Angeles. Đối với họ, châu Âu đang dần trở thành một vùng ngoại vi của thế giới. Hoa Kỳ rất thực dụng, cuộc chiến xâm lược Ukraina tuy khiến họ phải bận tâm, nhưng như đã nói, Mỹ không ủng hộ và không sẵn sàng tham chiến tại Ukraina ».
Vây hãm và Đối thoạiTrong bối cảnh có sự dịch chuyển kinh tế và địa chính trị sang châu Á, Hoa Kỳ dưới thời Biden đã thiết lập nhiều mối quan hệ đồng minh và đối tác chiến lược. Cuộc đối đầu trực diện hiện nay giữa Mỹ và Trung Quốc gợi nhắc lại thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, đọ sức giữa Hoa Kỳ và Liên Xô trong những năm 1980, 1990. Hai siêu cường tương lai của thế giới có sẽ xác định một mô hình sống chung ? Hay hai đại cường sẽ lao vào một cuộc chiến đầy rủi ro ?
Cựu đại sứ Pháp ở Mỹ Gerard Araud lưu ý rằng trong lĩnh vực địa chính trị, khi phải đối diện với kiểu đối đầu như hiện nay, người ta luôn nói đến hai vế : Ngăn chặn và Đối thoại. Chính quyền Biden cho đến lúc này đã phần nào thành công trong việc kềm hãm khi thiết lập nhiều mối quan hệ đồng minh với nhiều nước trong khu vực như Bộ Tứ - QUAD quy tụ bốn nước Úc, Mỹ, Nhật Bản và Ấn Độ, hay liên minh quân sự AUKUS Anh, Úc, Mỹ,…
« Rồi còn có thỏa thuận đối tác chiến lược giữa Mỹ và Philippines, giữa Mỹ và Việt Nam. Khi tổng thống Mỹ mời đồng nhiệm Hàn Quốc và thủ tướng Nhật Bản đến Camp David, trong nhãn quan Trung Quốc, cử chỉ này có một ý nghĩa to lớn. Nếu nhìn từ Bắc Kinh, quý vị sẽ thấy rõ ở phía đối diện hình thành một chuỗi quan hệ đồng minh và liên minh chống Trung Quốc một cách rõ ràng và rất mạnh mẽ.
Trong vụ rắc rối tầu ngầm Úc, với Pháp chỉ là viên đạn lạc, là nạn nhân liên đới. Đối với Mỹ, đây là cách thức để cung cấp cho Úc các phương tiện để có thể tiếp cận bờ biển Trung Quốc bằng tầu ngầm hạt nhân trong khi những loại tầu ngầm cổ điển không thể có được tầm với đó. Rõ ràng là Mỹ đang tìm cách ngăn chặn Trung Quốc. Cho nên thật dễ hiểu vì sao Trung Quốc phải tăng ngân sách quốc phòng ».
Cũng theo ông Gerard Araud, vế thứ hai – cuộc « Đối thoại chính trị » chỉ mới bắt đầu. Nền ngoại giao Mỹ vốn dĩ kín tiếng, nhưng các cuộc tiếp xúc bí mật đã được tiến hành giữa Jack Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia Mỹ và người đồng cấp Trung Quốc. Mục tiêu là để hai nước xác định các lằn ranh đỏ nhằm tránh những tính toán sai lầm:
« Lằn ranh đỏ lớn, tính toán sai lầm lớn có thể xảy ra là Đài Loan. Đối với Trung Quốc, Đài Loan là lằn ranh đỏ tuyệt đối. Trung Quốc biết rõ là chiến tranh sẽ là một thảm họa, nhưng họ cũng sẽ không để Đài Loan giành độc lập bằng bất cứ giá nào. Nhưng đồng thời họ không nên đánh giá sai lầm quyết tâm của Mỹ. Nhưng tôi có lẽ sẽ kết luận bằng câu trả lời rằng nếu Trump được hỏi "ông nghĩ gì về Đài Loan ?" Câu trả lời duy nhất của ông ấy là "Đài Loan là đối thủ cạnh tranh với ngành công nghiệp Mỹ". Nếu tôi là Bắc Kinh, tôi sẽ nghĩ đèn đỏ đã trở thành đèn mầu cam ! »
Đông Nam Á, Biển Đông – Sự đồng thuận của lưỡng đảngĐây cũng chính là điều khiến nhiều lãnh đạo châu Á lo lắng. Với chủ trương « Nước Mỹ trên hết », « Donald Trump nếu tái đắc cử sẽ có một cách tiếp cận địa chính trị thế giới hoàn toàn không nhất quán giữa các khu vực, tùy thuộc vào những lợi ích do chính ông xác định và thường bị nhầm lẫn với lợi ích của các công ty của Trump », theo như nhận định của Marie - Cecile Naves, chuyên gia về Mỹ, giám đốc nghiên cứu tại IRIS.
Bầu cử Mỹ diễn ra vào thời điểm căng thẳng giữa Trung Quốc và Philippines gia tăng mạnh mẽ do những tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông. Tầm nhìn về quan hệ quốc tế mang tính « giao dịch » của Donald Trump cũng như sự kín kẽ của bà Kamala Harris về chính sách đối ngoại làm dấy lên nhiều nghi vấn về những cam kết của Mỹ đối với các đồng minh và đối tác trong vùng Đông Nam Á, khu vực mà Mỹ cũng rất muốn tranh thủ trong cuộc cạnh tranh gay gắt với Trung Quốc, theo nhận định từ nhiều nhà quan sát.
Tuy nhiên, theo Andrew Scobell, chuyên gia về Trung Quốc, Viện Hòa Bình Mỹ,được South China Morning Post trích dẫn, « quan điểm đồng thuận lưỡng đảng ở Washington là Trung Quốc đã trở nên hung hăng hơn nhiều ở Biển Đông và Hoa Kỳ phải chống lại các hành động khiêu khích của Trung Quốc, ủng hộ các đồng minh và đối tác ở vùng biển Đông Nam Á ».
Đối với Andreyka Natalegawa, cộng tác viên cho Chương trình Đông Nam Á, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS tại Washington, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng sâu sắc giữa Mỹ và Trung Quốc, Đông Nam Á sẽ đóng một vai trò quan trọng. Do vậy, « bất kể ai thắng cử tháng 11 này, chính quyền tiếp theo phải đối mặt với một số ưu tiên rõ ràng trong năm tới: củng cố mối quan hệ với các đồng minh và đối tác quan trọng, quản lý căng thẳng ở Biển Đông và đưa ra kế hoạch kinh tế tích cực cho khu vực. »
Nhìn chung, giới quan sát hầu hết có chung một nhận định, sẽ chẳng có nhiều khác biệt trong chính sách đối ngoại giữa Kamala Harris và Donald Trump. Có khác chăng là phương thức thực hiện, giữa « một chính quyền Harris sử dụng con dao mổ » và « một chính quyền Donald Trump dùng búa tạ », như hình ảnh ví von của nhà nghiên cứu Thibault Denamiel, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế CSIS, Washington với hãng tin Pháp AFP.
Ngày 23/10/2024, lần đầu tiên, Hoa Kỳ và NATO đưa ra các bằng chứng khẳng định sự hiện diện của « nhiều ngàn » binh sĩ Bắc Triều Tiên tại Nga, có thể đóng một vai trò trong cuộc chiến tại Ukraina. Quyết định của Bình Nhưỡng gởi quân đến mặt trận Ukraina đã củng cố hơn nữa liên minh quân sự với Matxcơva. Điều này có nguy cơ làm thay đổi cán cân an ninh trên bán đảo Triều Tiên.
Theo Washington, Bình Nhưỡng đã cho di chuyển « ít nhất 3.000 quân đến phía đông nước Nga trong khoảng thời gian đầu tháng 10 đến trung tuần tháng 10/2024 ». Tuyên bố này của Mỹ và NATO xác nhận các cáo buộc của Ukraina và Hàn Quốc vài ngày trước đó, cho rằng Bắc Triều Tiên đã gởi hơn 10 ngàn binh sĩ, trong đó có khoảng 1.500 thành viên lực lượng đặc nhiệm đang được huấn luyện ở miền đông nước Nga để chiến đấu tại Ukraina.
Nga – Triều: Mối thâm giao lịch sửTheo nhận định của nhà sử học Pierre Rigoulot, chuyên gia về Bắc Triều Tiên và các chế độ Cộng sản, với kênh truyền hình Pháp LCI (22/10/2024), quyết định gởi hơn một chục ngàn quân đến Nga là điều khả dĩ, hoàn toàn nằm trong lô-gic và khả năng của Bình Nhưỡng: « Quân đội Bắc Triều Tiên có quân số đông thứ tư trên thế giới, sau Trung Quốc, Ấn Độ và Hoa Kỳ. Và do vậy, Bắc Triều Tiên có thể cung cấp 12 ngàn quân đến chiến đấu bên cạnh quân đội Nga mà không gặp rắc rối gì. »
Nhà sử học người Pháp này còn lưu ý thêm tuy Bắc Triều Tiên vẫn có đến 40% dân số trong tình trạng đói kém, theo số liệu của Tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc FAO, nhưng về mặt chất lượng, các binh sĩ Bắc Triều Tiên được đào tạo rất bài bản. « Bắc Triều Tiên có một hệ thống đào tạo, phục vụ quân đội là 8 năm đối với phụ nữ và 10 năm đối với nam giới. Do vậy, họ không những có quân số đông, mà còn có cả những quân nhân được đào tạo một cách cuồng nhiệt »
Đây không phải là lần đầu tiên Bình Nhưỡng gởi quân ra nước ngoài. Trong quá khứ, Bắc Triều Tiên từng gởi các « cố vấn » quân sự đến nhiều nước châu Phi để huấn luyện binh sĩ chiến đấu. Nhìn chung đó chỉ là các chuyên viên đào tạo, hiếm khi tham gia chiến đấu. Riêng một ngoại lệ là Bắc Triều Tiên đã gởi phi công đến hỗ trợ không quân Bắc Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam.
Theo nhiều nhà quan sát, quyết định lần này gởi hơn một chục ngàn quân đến hỗ trợ cuộc chiến xâm lược Ukraina của Nga là một điều chưa từng có. Dù vậy, nhà địa lý học Valérie Gelézeau, Ecole des Hautes Etudes en Sciences Sociales, tại Paris, trên đài truyền hình Thụy Sĩ RTS trước hết nhắc lại Nga và Bắc Triều Tiên đã có mối thâm giao lịch sử :
« Đầu tiên, nếu chúng ta xem xét sự việc trong trung và dài hạn, mối quan hệ này là lâu đời, một phần truyền thống của Bắc Triều Tiên. Liên Xô từng là một nước anh em, góp phần vào việc xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa Bắc Triều Tiên thông qua việc hỗ trợ quân sự và chuyên viên. Liên Xô cũng từng là một nền tảng cho mô hình nhà nước Bắc Triều Tiên.
Hơn nữa, Liên Xô là quốc gia anh em trao đổi cho mối quan hệ kinh tế trong một thời gian dài cho đến tận những năm đầu thập niên 1990. Điều thứ hai là việc nối lại quan hệ với Nga còn là một phần trong chiến lược rất đặc trưng của Bắc Triều Tiên, trong mối bang giao với hai nước láng giềng bạn bè khổng lồ. Bình Nhưỡng thực hiện chiến lược này rất tốt bằng cách xích lại gần với Matxcơva khi mối quan hệ với Bắc Kinh hơi bị lạnh nhạt hay ngược lại. »
Đổi nhân lực lấy kỹ nghệ vũ khíSau gần 32 tháng giao tranh khốc liệt và chưa cho thấy một triển vọng hòa bình, nguy cơ leo thang xung đột giữa Nga và Ukraina gia tăng thêm một nấc vào lúc Nghị Viện Nga ngày 24/10/2024 đã nhất trí phê chuẩn « Hiệp ước Đối tác Chiến lược Toàn diện » đã được ký kết với Bắc Triều Tiên vào ngày 19/06/2024, thúc đẩy thắt chặt liên minh quân sự giữa hai nước.
Điều khoản 4 của hiệp ước này dự trù một sự « hỗ trợ quân sự ngay lập tức ». Theo nhà nghiên cứu Hong Min, Viện Thống nhất Quốc gia Hàn Quốc, được AFP trích dẫn, « thỏa thuận thiết lập một cơ cấu trong đó, sự can thiệp hoặc hỗ trợ quân sự từ Nga sẽ tự động được thực hiện nếu Bắc Triều Tiên bị tấn công hoặc nếu nước này gặp khủng hoảng ».
Giới chức Hàn Quốc lo rằng, đổi lấy sự hậu thuẫn về nhân lực, Nga có thể sẽ cung cấp cho Bắc Triều Tiên các công nghệ vũ khí tinh vi giúp phát triển các chương trình hạt nhân và tên lửa đạn đạo. Trên kênh truyền hình LCI, nhà sử học Pierre Rigoulot nhận định đây là những lý do gây lo lắng, « bởi vì chính phủ Bắc Triều Tiên rõ ràng có được một lợi thế về mặt công nghệ. Gần đây, Nga đã cung cấp một số dữ liệu công nghệ trong lĩnh vực hạt nhân liên quan đến kỹ thuật thu nhỏ đầu đạn, rồi trong lĩnh vực tên lửa, cũng như một cách cơ bản trong lĩnh vực lương thực ».
AFP ngày 19/10/2024 nhắc lại, về mặt kỹ thuật, hai miền Nam, Bắc Triều Tiên vẫn còn trong tình trạng chiến tranh. Cuộc chiến Triều Tiên (1950-1953) chỉ dẫn đến một hiệp định đình chiến mà chưa có Hiệp ước Hòa bình. Trong khi lãnh đạo Bắc Triều Tiên tăng tốc xây dựng kho vũ khí hạt nhân, Seoul lại không có vũ khí nguyên tử, và Hàn Quốc vẫn được đặt dưới « ô hạt nhân » của Mỹ.
Việc Washington và Seoul thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận chung quy mô lớn đã khiến Bình Nhưỡng có những phản ứng mạnh mẽ. Bằng cách gởi quân đến Nga, lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un hy vọng tăng cường hơn nữa năng lực răn đe quân sự và củng cố liên minh với Nga, tạo một thế đối trọng với thỏa thuận quốc phòng giữa Mỹ và Hàn Quốc. Theo ông Hong Min, điều này có nguy cơ dẫn đến một « sự thay đổi đáng kể » cho an ninh bán đảo Triều Tiên.
Liên minh Nga – Trung – TriềuTheo trang South China Morning Post (22/10/2024), điều khiến chính quyền Hàn Quốc thực sự quan tâm, đó là liên minh an ninh ngày càng chặt chẽ giữa Nga, Trung Quốc và Bắc Triều Tiên, bên cạnh mối quan hệ đối tác « vô bờ bến » giữa Bắc Kinh và Matxcơva. Ông Jaewoo Choo, giáo sư ngành Trung Quốc học, trường đại học Kyung Hee, cho biết, « cùng với việc tái lập mối quan hệ đồng minh truyền thống trong năm nay giữa Bắc Triều Tiên và Nga, các mối liên kết đồng minh giữa ba nước này đã gián tiếp được kết nối ».
Cũng theo giáo sư Choo, sẽ là « bất cẩn » khi cho rằng quan hệ Trung – Triều đang lạnh giá. Trên thực tế, Bắc Kinh do phải tập trung bình ổn quan hệ với Washington vào lúc tăng trưởng kinh tế bị suy yếu, « âm thầm hài lòng về việc Nga, bằng cách vi phạm các lệnh trừng phạt của Liên Hiệp Quốc chống Bắc Triều Tiên, đã thay thế Trung Quốc hỗ trợ kinh tế cho nước này, bởi một lẽ đơn giản là Bắc Kinh đang bị Washington giám sát chặt chẽ. » Ông Choo cho rằng, quan hệ Trung – Triều rồi sẽ lại được thắt chặt, một khi bầu cử Mỹ kết thúc.
Nhưng giới quan sát cũng đánh giá rằng Bắc Kinh – nguồn hậu thuẫn ngoại giao chính và là chiếc phao kinh tế cho Bình Nhưỡng – rất có thể cũng sẽ không hưởng được lợi gì nhiều trong trường hợp xảy ra xung đột giữa Bắc Triều Tiên và Hoa Kỳ. Tại Trung Quốc, một số nhà quan sát lo ngại bán đảo Triều Tiên có nguy cơ trở thành một « ngòi nổ nguy hiểm nhất » cho quan hệ Mỹ - Trung.
Với kho vũ khí hạt nhân ngày càng lớn của Bình Nhưỡng, nhiều đồn thổi về tình trạng sức khỏe suy yếu của Kim Jong Un và bí ẩn xung quanh tiến trình kế thừa quyền lực, cùng với những thất vọng trong việc không có được sự nới lỏng các biện pháp trừng phạt, ông Thì Ân Hoằng (Shi Yinhong), giáo sư ngành Quan hệ Quốc tế trường đại học Nhân dân ở Bắc Kinh e ngại rằng lãnh đạo họ Kim có thể có những quyết định liều lĩnh.
Đông Á, mặt trận ủy nhiệm thứ ba sắp tới ?Trước những phát biểu và hành động ngày càng hung hăng, ngạo mạn của Bắc Triều Tiên, hợp tác quân sự Nga – Triều được thắt chặt làm dấy lên nỗi lo, « Đông Á có nguy cơ trở thành chiến trường kế tiếp trong năm sắp tới, sau các cuộc chiến tranh ở Ukraina và Trung Đông. Tôi thật sự lo lắng rằng thế giới bên ngoài không hoàn toàn hiểu được tính chất phức tạp của tình hình, đang trên đà biến thành cuộc đối đầu quan trọng nhất và nguy hiểm nhất từ sau Đệ Nhị Thế Chiến ». Cũng theo ông Thì Ân Hoằng, « cùng với việc tiếp tục cuộc chiến tại Ukraina, Nga rất có thể sẽ giữ một vai trò quan trọng trong việc mở một mặt trận thứ ba tại Đông Á, trong mục tiêu phân tán Mỹ và các đồng minh. »
Vị chuyên gia Trung Quốc này tự hỏi « liệu Bắc Triều Tiên có hiểu rằng họ đang là phương sách cuối cùng cho ông Putin? », trước khi đưa ra kết luận « có nhiều rủi ro là vào lúc tình hình ở Trung Đông trở nên không trụ được nữa, ông Putin vào một thời điểm nào đó, có thể quyết định mở một mặt trận mới ở Đông Á bằng cách khuyến khích Kim Jong Un gieo rắc hỗn loạn. Những căng thẳng trên bán đảo Triều Tiên hiện nay có nguy cơ chuyển thành một cuộc xung đột vũ trang, với việc các đại cường cố gắng lợi dụng căng thẳng liên Triều để tiến hành một cuộc chiến tranh ủy nhiệm » !
Đây có lẽ là kịch bản mà Hàn Quốc muốn tránh khi liên tục gióng chuông báo động về sự hiện diện quân sự của Bắc Triều Tiên tại Nga, cho dù đại sứ Nga tại Seoul khẳng định « hợp tác quân sự Nga – Triều không đe dọa an ninh Hàn Quốc » !
Từ ngày 22-24/10/2024, tổng thống Nga Vladimir Putin đón nguyên thủ và lãnh đạo chính phủ hơn 30 nước đến dự thượng đỉnh nhóm BRICS diễn ra tại Kazan, Nga. Thuyết phục các nước xây dựng một hệ thống thanh toán quốc tế mới nhằm chấm dứt sự thống trị của đồng đô la là một trong những chủ đề trọng tâm của Matxcơva. Nhưng việc mở rộng số thành viên của nhóm có nguy cơ cản trở tham vọng này của Nga vì những lợi ích riêng của từng nước.
Ra đời năm 2009 với năm nước thành viên ban đầu là Brazil, Nga (Russia), Ấn Độ (India), Trung Quốc (China) và Nam Phi (South Africa), BRICS đã được mở rộng thành BRICS+ khi tiếp nhận thêm năm thành viên mới là Ai Cập, Ethiopia, Iran, Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất và Ả Rập Xê Út, sau kỳ thượng đỉnh lần thứ 15 diễn ra tại Johannesburg, Nam Phi. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là cho đến hiện tại Ả Rập Xê Út vẫn chưa xác nhận có đến dự hội nghị BRICS hay không.
Ba đòi hỏi của BRICSPhát biểu trước giới báo chí hôm thứ Năm 10/10/2024, cố vấn ngoại giao của điện Kremlin Iouri Ouchakov cho biết 32 trong số 38 nước được mời sẽ đến dự thượng đỉnh BRICS, trong số này có sự hiện diện của tổng thư ký Liên Hiệp Quốc Antonio Guterres và 24 nguyên thủ quốc gia như chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, tổng thống Iran Massoud Pezeshkian, hay như tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdogan, gần đây chính thức đề nghị xin gia nhập nhóm.
Cũng theo ông Ouchakov, « tên BRICS giống với từ "brick" trong tiếng Anh. Và nhóm BRICS đang xây từng viên gạch, một cây cầu hướng đến một trật tự thế giới công bằng hơn », khi nhấn mạnh đến tính chất « đa phương » của nhóm, tập hợp các nước « phương Nam và phương Đông », để làm đối trọng chống thế bá quyền của phương Tây, nhất là Mỹ.
Tại hội thảo « BRICS+ : Những nước mới trỗi dậy tấn công thế giới ? » do đài phát thanh Quốc tế Pháp RFI chủ trì, trong khuôn khổ Ngày hội Địa Chính Trị*, diễn ra ngày 28/09/2024, tại Nantes (phía tây nước Pháp), chuyên gia Christophe Ventura, giám đốc nghiên cứu Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược (IRIS), chuyên trách về chương trình Châu Mỹ Latinh, trước hết nhắc lại, chống thế thống trị của phương Tây là một trong số nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự hình thành của nhóm BRICS.
« Ban đầu, yêu cầu của họ là đòi cải tổ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), sao cho các định chế tài chính quốc tế phản ảnh tốt hơn hoặc có tính đến vai trò tiềm tàng của những nước này trong nền kinh tế thế giới. Một đòi hỏi chưa bao giờ hoặc rất ít được IMF quan tâm đến. Đó là động cơ thứ nhất.
Điểm thứ hai có liên quan đến Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Đây là một cuộc tranh luận lớn. Một số nước mới trỗi dậy yêu cầu có một vị trí để Hội Đồng này không chỉ đơn giản phản ảnh thế cân bằng được duy trì sau hội nghị Yalta, khi chấm dứt Đệ Nhị Thế Chiến và Chiến tranh Lạnh, mà còn cả thế giới của thế kỷ XXI (…)
Điều thứ ba, tuy không hẳn là một yêu sách, nhưng cũng nên đề cập đến, đó là việc nhiều nước trong nhóm này như Trung Quốc, Nga, Iran có chung một điểm là đang phải chịu lệnh trừng phạt bằng cách này hay cách khác từ Mỹ. »
BRICS+ và những nỗi lo của phương TâyHội nghị cấp cao BRICS lần thứ 16 tại thành phố ở Kazan diễn ra trong bối cảnh cuộc chiến xâm lược Ukraina do Nga tiến hành kéo dài hơn hai năm rưỡi qua và Nga đang hứng chịu các lệnh trừng phạt từ phương Tây. Theo Reuters, sự kiện được Matxcơva thể hiện như là một bằng chứng cho thấy nỗ lực của phương Tây nhằm cô lập Nga đã thất bại, đồng thời kêu gọi sự hợp tác giữa các nước nhằm cải tổ hệ thống tài chính toàn cầu, chấm dứt thế thống trị của đồng đô la Mỹ.
Một tài liệu do bộ Tài Chính và Ngân hàng Trung ương Nga soạn thảo, phân phát cho các nhà báo trước hội nghị, đề xuất một hệ thống thanh toán mới dựa trên mạng lưới các ngân hàng thương mại được liên kết với nhau thông qua các ngân hàng trung ương của nhóm BRICS. Hệ thống này sẽ sử dụng công nghệ blockchain để lưu trữ và chuyển tiền quy ước kỹ thuật số (digital tokens) được hỗ trợ bởi đồng tiền quốc gia. Ngược lại, điều này sẽ cho phép đồng nội tệ các quốc gia đó được trao đổi dễ dàng và an toàn hơn, bỏ qua nhu cầu giao dịch bằng đô la.
Theo chuyên gia về châu Mỹ Latinh, Christophe Ventura tại hội thảo của RFI, đây chính là điều khiến phe phương Tây – mà ông gọi là Cộng đồng lợi ích chiến lược – lấy làm quan ngại.
« Rõ ràng phương Tây lo lắng là BRICS – hiện chỉ là một câu lạc bộ không chính thức, một kiểu khuôn khổ ngoại giao – trở thành hạt nhân của một liên minh các nước ương ngạnh, chống lại các lợi ích thực sự của cộng đồng lợi ích chiến lược, bất kể đó là những hồ sơ địa chính trị như cuộc chiến của Israel ở dải Gaza và giờ là tại Liban, hay như vấn đề tiền tệ.
Điều mà phương Tây lo ngại với BRICS, là việc đòi xem xét lại nguyên tắc về thế bá quyền của đồng đô la trong hệ thống tài chính – kinh tế quốc tế. Bởi vì, đây chính là điều mà BRICS đang thực hiện, đang chuẩn bị, không hẳn là một đồng tiền chung mà là các hệ thống thanh toán cho phép các nước thành viên có thể tránh sử dụng các giao dịch bằng đô la.
Bởi vì có nhiều nước trong nhóm bị tác động bởi các lệnh trừng phạt của Mỹ, sử dụng đồng đô la để trừng phạt họ. Do vậy, họ đang thiết lập các hệ thống thanh toán nằm ngoài hệ thống do Mỹ thống trị và thiết lập một rổ tiền tệ để trao đổi bằng đồng nội tệ và hiện nay là bằng vàng thay cho đô la.
Đối với Washington, đây thực sự là một mối đe dọa, không hẳn mang tính sinh tồn, nhưng là một hiểm họa chính trị đe dọa một trong hai trụ cột chính cho thế bá quyền của Mỹ trên thế giới : Đó là đế chế tài chính và quân sự ».
Nỗ lực của Nga : Thay thế IMFTài liệu của Nga cáo buộc các định chế tài chính quốc tế hiện nay như IMF chẳng hạn phục vụ các lợi ích của các nước phương Tây, và cho rằng những tổ chức này « phải được cải tổ để phục vụ tốt hơn nền kinh tế toàn cầu đang phát triển ».
Bộ trưởng Tài Chính Nga Anton Siluanov, hồi tuần trước, kêu gọi các nước thành viên BRICS hình thành một giải pháp thay thế cho IMF. Trong số các sáng kiến nhằm tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư, Nga còn đề xuất tạo nền tảng « BRICS Clear » để giải quyết các giao dịch chứng khoán, hay như một phương pháp xếp hạng chung nhưng không đề xuất thành lập cơ quan xếp hạng chung BRICS.
Với những sáng kiến này, liệu rằng các nước phương Nam có thể bỏ qua IMF hay không ? Christophe Ventura khẳng định là « Không », do việc nhiều nước trên thế giới vẫn còn nhiều khoản nợ quan trọng với định chế. Theo ông, những gì các nước thành viên nhóm BRICS cũng như là những nước muốn tham gia BRICS, phần lớn là các nước phương Nam, đòi hỏi trước tiên là vấn đề hạn ngạch trong IMF và muốn có một quyền biểu quyết phản ảnh rõ tầm mức kinh tế của đất nước hiện nay, cho phép những nước này có một sự linh hoạt trong các hoạt động vay và trả nợ trên các thị trường tài chính thế giới.
Matxcơva xem việc hình thành một cơ chế thanh toán quốc tế mới được cho là cách tốt nhất để giải quyết những khó khăn ngày càng lớn trong các hoạt động thanh toán thương mại, ngay cả với các quốc gia thân thiện như Trung Quốc. Nhiều ngân hàng địa phương của Bắc Kinh lo ngại có thể bị ảnh hưởng bởi các lệnh trừng phạt thứ cấp của Hoa Kỳ. Nhưng Nga cũng nhìn nhận rằng việc tạo ra một hệ thống như vậy tuy khả thi nhưng đòi hỏi nhiều thời gian. Việc mở rộng đáng kể số lượng thành viên BRICS hồi cuối năm 2023 sẽ khiến khả năng đạt đồng thuận trong nhóm thêm phần khó khăn.
Theo Reuters, dấu hiệu cho thấy Matxcơva sẽ phải nỗ lực nhiều hơn để thúc đẩy thông qua các đề xuất của mình, là hầu hết các thành viên nhóm BRICS chỉ cử các quan chức cấp thấp hơn, chứ không phải là các bộ trưởng tài chính hay thống đốc ngân hàng trung ương đến dự cuộc họp trù bị hồi tuần trước. Đối với nhiều nhà quan sát, điều này còn cho thấy có những hạn chế cố hữu trong lòng nhóm BRICS.
BRICS+ : Diễn đàn để đối thoại với phương Tây ?Nhà nghiên cứu Burak Elmalı, Trung tâm Nghiên cứu Thế giới TRT, trụ sở tại Istanbul, trên trang Responsible Statecraft của Mỹ cho rằng, sự phát triển của nhóm dường như đã « chạm ngưỡng ». Càng mở rộng liên minh « các giải pháp thay thế », càng phơi bày những lợi ích khác biệt của các thành viên. Nga và Trung Quốc phản đối mạnh mẽ trật tự thế giới do Hoa Kỳ lãnh đạo, nhưng thiếu một loạt các giá trị gắn kết đằng sau lập trường này.
Về điểm này, bà Sylvie Bermann, cựu đại sứ Pháp tại Trung Quốc, Anh Quốc và Nga, trong cuộc hội thảo về BRICS của RFI tại Nantes, có lưu ý rằng, « các nước phương Nam tuy phản đối thế thống trị của Mỹ, nhưng điều đó cũng không có nghĩa là họ sẽ thực sự đấu tranh chống Mỹ », do lập trường đa liên kết của nhiều nước thành viên khác trong nhóm, đi đầu là Ấn Độ, vốn dĩ duy trì một đường lối đối ngoại kết hợp giữa sự linh hoạt ngoại giao và chủ nghĩa cơ hội, theo như nhận định của cựu nhà báo RFI, Olivier Da Lage, hiện cộng tác với Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược, cơ quan tổ chức ngày hội Địa Chính Trị Nantes 2024.
Do vậy, theo đánh giá từ chuyên gia về châu Mỹ Latinh, Christophe Ventura, BRICS có nhiều khả năng là một công cụ để các nước phương Nam, các nước mới trỗi dậy đàm phán với các nước phương Tây, để chia sẻ và đa dạng hóa quyền lực trong hệ thống do chính phương Tây lập ra khi có tính đến những lợi ích của những nước này.
Cũng theo ông Ventura, tuy Trung Quốc và Nga ngày càng thắt chặt hợp tác trong nhiều lĩnh vực, kể cả quốc phòng để đối phó Mỹ, nhưng Trung Quốc cũng sẽ chẳng được lợi gì khi Hoa Kỳ nhanh chóng bị sụp đổ do cả hai nước phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau trong nhiều vấn đề.
« Mục tiêu của Trung Quốc là xây dựng trong dài hạn khả năng vượt qua Mỹ một cách không thể tránh khỏi và do vậy, BRICS có thể được sử dụng cho mục đích này. Nhưng chúng ta cũng thấy là Ấn Độ có chính sách đa liên kết ; Brazil thì muốn nói chuyện với tất cả mọi người – theo như cách nói của tổng thống Lula, nghĩa là họ thảo luận họ giao dịch, họ có quan điểm chính trị, địa chính trị trên thực tế phù hợp với việc khẳng định các lợi ích quốc gia của mình.
Thế nên, tôi nghĩ là đến thời điểm hiện tại, BRICS minh họa cho một thực tế là tất cả các quốc gia thành viên đều ở trong hình thức gọi là "tư duy giao dịch".
Nhưng điều đang xảy ra là tất cả các định dạng công cụ BRICS này trên thực tế đều là những công cụ cho phép mỗi quốc gia, theo logic đa dạng hóa các liên minh của mình, khẳng định hoặc tái khẳng định lợi ích quốc gia của mình để lợi ích quốc gia sau này có trọng lượng hơn theo một cách nào đó trong trật tự quốc tế đang gặp khủng hoảng.
BRICS, theo quan điểm này, hoặc là một công cụ đàm phán, hoặc nếu sự cân bằng quyền lực bị suy giảm trong một thế giới ngày càng xung đột và hiếu chiến, trong trường hợp này, BRICS có thể trở thành một khối tập trung hơn để chống lại quyền bá chủ một cách hiệu quả. Theo ý tôi, điều đó hiện chưa được xác định rõ ràng ».
Israel dường như ngày càng ít tham vấn Mỹ khi ra các quyết định ở Cận Đông. Dù vậy, tổng thống Joe Biden vẫn tiếp tục hậu thuẫn chính phủ thủ tướng Benjamin Netanyahu. Liệu những cuộc chiến mà Israel đang tiến hành sau ngày 07/10 có làm thay đổi vĩnh viễn những cam kết mà Washington đã có với Nhà nước Do Thái từ gần 80 năm qua hay không ?
Trang Responsible Statecraft của Mỹ, trước hết nhắc lại, mối quan hệ Hoa Kỳ - Israel, phần lớn được đánh dấu bằng cam kết nhất quán của Washington đối với an ninh của Israel, bắt đầu từ việc tổng thống Harry S. Truman chính thức công nhận Nhà nước Do Thái năm 1948.
Nhưng phải đợi đến sau cuộc chiến Sáu ngày vào tháng Sáu năm 1967, đối đầu giữa Israel với quân đội các nước Ả Rập, Hoa Kỳ dưới thời tổng thống Lyndon Johnson mới chính thức trở thành nhà cung cấp vũ khí chính cho Israel.
Ưu thế Chất lượng Quân sựKể từ đó, Washington đã đứng về phía Tel Aviv, bất chấp sự phản đối mạnh mẽ của nhiều nước Ả Rập trong vùng, các cuộc chiến của Israel chống các nước láng giềng, cuộc chiến triền miên và thường thì tàn khốc của Israel nhằm phủ nhận nguyện vọng quốc gia của người dân Palestine, khi lấy danh nghĩa bảo đảm an ninh cho chính mình.
Geoffrey Aronson,Viện Trung Đông, trả lời trang Responsible Statecraft, nhấn mạnh : « Mối quan hệ giữa Mỹ và Israel vẫn dựa trên những thỏa thuận được đúc kết sau cuộc chiến tháng 6/1967, theo đó, Hoa Kỳ cam kết duy trì ưu thế quân sự quy ước cho Israel nhằm đối phó với bất kỳ sự phối hợp nào của các kẻ thù trong khu vực. Đổi lại, Israel cam kết duy trì sự mơ hồ về kho vũ khí hạt nhân của mình – không được công bố và không được triển khai ».
Bất kể hoàn cảnh nào, từ chương trình vũ khí hạt nhân bí mật của Israel trong những năm 1960 cho đến việc xây dựng các khu định cư bất hợp pháp trên cao nguyên Golan, ở Cisjordanie (Bờ Tây) và Đông Jerusalem, Mỹ đều đáp ứng bằng cách cung cấp vũ khí và tài chính nhiều hơn cho Israel – hơn 300 tỷ đô la là khoản viện trợ lớn nhất mà Washington cấp cho một nước ngoại quốc duy nhất cho đến nay.
Theo một báo cáo của trường đại học Brown, công bố hôm thứ Hai, 07/10/2024, được trang Responsible Statecraft trích dẫn, viện trợ của Mỹ dành cho Israel kể từ sau loạt tấn công khủng bố của phe Hamas, là gần 18 tỷ đô la, mức cao nhất trong một năm.
Điều này nhằm bảo đảm cho Israel có một Ưu thế Chất lượng Quân sự (Qualitative Military Edge – QME), đòi hỏi Washington phải duy trì cho Tel Aviv khả năng « đánh bại bất kỳ mối đe dọa quân sự quy ước từ bất kỳ quốc gia riêng lẻ nào, hoặc khả năng một liên minh các quốc gia hoặc từ các tác nhân phi nhà nước ».
Và chính quyền Biden vẫn trung thành với cam kết này nhằm duy trì QME cho Israel – vốn dĩ đã được ghi nhận trong luật pháp Hoa Kỳ - bất chấp những lo ngại chưa từng có về việc Israel có thể « sử dụng sai » vũ khí do Hoa Kỳ cung cấp. Tổng thống Mỹ đã khẳng định rằng sự ủng hộ của Mỹ dành cho Israel vẫn « vững như bàn thạch ». Ông nhấn mạnh, « đừng hiểu nhầm. Hoa Kỳ toàn tâm, toàn ý ủng hộ Israel ».
Geoffroy Aronson lưu ý thêm rằng, « việc Hoa Kỳ triển khai lực lượng – điều chưa từng có – để phòng thủ trước các cuộc tấn công bằng tên lửa của Iran nhằm vào Israel đã làm suy yếu lập trường lâu nay về cốt lõi hợp tác chiến lược Mỹ – Israel. Theo đó, kho vũ khí quy ước do Washington cung cấp cho Tel Aviv, tức QME, cho phép Nhà nước Do Thái "tự phòng vệ". Những hệ quả từ sự phụ thuộc quan trọng này của Israel vào sự can dự quân sự trực tiếp của Washington còn phải chờ xem ».
Israel hay Mỹ – Ai là siêu cường ?Bất chấp sự hào phóng này, các nhà lãnh đạo Israel thường xuyên thách thức các tổng thống và chính sách của Mỹ. Điều này đặt nghi vấn về sự cân bằng trong quan hệ. Tổng thống Bill Clinton từng nói một cách khiếm nhã sau cuộc gặp với thủ tướng đương nhiệm và tại vị lâu nhất của Israel, Benjamin Netanyahu rằng, « Ai là siêu cường ở đây ? » ( Nguyên văn : Who’s the f…. superpower here ?).
Trong một năm qua, chính phủ thủ tướng Netanyahu nhiều lần bác bỏ lời kêu gọi của tổng thống Biden về việc tìm kiếm một thỏa thuận ngừng bắn ở dải Gaza. Các chiến dịch quân sự của Israel đã làm thiệt mạng hơn 41 ngàn người, phần lớn là phụ nữ và trẻ em, và làm hơn 2,2 triệu người dân (chiếm khoảng hơn 90% dân số) buộc phải di tản do các cuộc oanh kích của Israel chống Hamas.
Đến mức, nhật báo Pháp Le Monde, trong bài xã luận ngày 04/10/2024, đã phải thốt lên rằng, « Hoa Kỳ trở thành khán giả ở Cận Đông ». Còn nhật báo thiên hữu Le Figaro thì cho rằng, « Hoa Kỳ đã mất mọi ảnh hưởng đối với các tác nhân trong cuộc xung đột ở Cận Đông ». Một năm sau loạt tấn công khủng bố của phe Hamas, dẫn đến các chiến dịch quân sự trả đũa của Israel, Washington đã bị Tel Aviv – đồng minh chính của Mỹ trong khu vực – giáng vai trò xuống hàng « trợ tá ».
Martin Quencez, giám đốc quỹ tư vấn German Marshall, trên đài phát thanh France Culture ngày 07/10/2024, nhìn nhận đây thực sự là một thất bại của Washington. Nhưng việc Tel Aviv có thể lấn lướt, phớt lờ các khuyến nghị của giới lãnh đạo cao cấp Mỹ, thực hiện những điều mà Mỹ không mong muốn còn vì tính chất phức tạp của một số điểm trên bình diện chiến lược.
« Chẳng hạn tôi nhớ đến việc Hoa Kỳ cảnh báo Israel về chiến dịch tấn công Rafah, miền nam dải Gaza, hồi tháng 5/2024, hay như việc Mỹ yêu cầu Israel không nên đáp trả cuộc oanh kích của Iran hồi mùa xuân năm nay. Nhưng cuối cùng thì phía Israel và một bộ phận giới chiến lược gia Mỹ đã đồng tình rằng Israel đã có lý khi không nghe theo Mỹ, rằng bằng cách mở chiến dịch quân sự ở Rafah, họ đã có thể phá hủy một số đường hầm và các hoạt động của phe Hamas ; và khi đáp trả cuộc tấn công của Iran ngày 14/4, họ đã có thể giành lại được ưu thế trong vấn đề răn đe đối với Iran.
Và vì Mỹ cũng tìm cách hạn chế các quyết định của Israel và vì Israel không nghe Mỹ, chúng ta thấy là Joe Biden thật sự không có một giải pháp nào bởi vì chính bản thân ông và nước Mỹ cũng không đề nghị được một giải pháp thật sự nào khác cho vấn đề an ninh ở Trung Đông. »
Lợi ích chiến lược chung ở Cận ĐôngVới việc Israel mở chiến dịch tấn công trên bộ ở miền nam Liban chống Hezbollah và nguy cơ bùng nổ đối đầu Israel – Iran trong khu vực, phải chăng mối quan hệ Mỹ - Israel đã đi đến một bước ngoặt quan trọng ? Nhiều chuyên gia tại Mỹ cho rằng bất chấp việc có những bất đồng đối với các chính sách của Tel Aviv và những phát biểu gay gắt đối với đồng minh, nhưng Mỹ vẫn đang thực sự cho phép Israel leo thang xung đột khi tiếp tục bán vô điều kiện số lượng lớn đạn dược, vũ khí tấn công cho Israel.
Theo quan điểm của nhà nghiên cứu địa chính trị Pháp, Martin Quencez, đó là vì Mỹ và Israel vẫn còn chia sẻ nhiều lợi ích chiến lược ở Trung Đông.
« Khi chính quyền Biden xem xét những gì chính phủ Israel đang thực hiện, về hình thức, họ chỉ trích rất nhiều. Nhưng về cơ bản, rõ ràng chúng hoàn toàn phù hợp với ý tưởng về một chính sách làm suy yếu, thậm chí là tiêu diệt phe Hamas, trong mọi trường hợp, đây chính là những gì Benjamin Netanyahu miêu tả.
Tương tự, cuộc đối đầu với Hezbollah cũng là điều gì đó minh họa cho ý tưởng này. Những tuần qua, một số chỉ huy của Hezbollah, các nhà lãnh đạo của Hezbollah, đã bị hạ sát. Nhiều chỉ huy của Hezbollah bị Israel giết cũng từng là những chỉ huy được Mỹ treo thưởng, và tìm cách trừ khử từ nhiều năm qua.
Các cuộc tấn công chống Hezbollah, trong một chừng mực nào đó, đã gây khó khăn cho chính quyền Biden rõ ràng trên bình diện nhân đạo và chính trị, nhưng ở đây còn có sự hỗ trợ, có thể nói là về mặt chiến lược, bởi vì có một sự phù hợp về lợi ích ở cấp độ này ».
Với các chiến dịch quân sự chống Hezbollah và phe Hamas, cánh tay vũ trang nối dài của Iran tại Cận Đông, Israel phần nào đạt được một trong số các mục tiêu chiến lược : Ngăn chặn những nỗ lực của Mỹ nhằm giảm căng thẳng với Iran. Nhưng viễn cảnh một cuộc chiến trực diện với Iran mà Tel Aviv bị nghi ngờ là đang tìm cách mở rộng và lôi kéo Mỹ can dự, lại là một cơn ác mộng cho Washington.
Chính quyền Biden có thể hoàn toàn ủng hộ các chiến dịch quân sự của Israel tại Liban, ở dải Gaza, nhằm làm suy yếu các kẻ thù, nhưng đồng thời không muốn để bị vướng vào « mớ chằng chịt » có nguy cơ đẩy Mỹ lao vào cuộc chiến trực diện với Iran. Chiến lược này cũng được Mỹ áp dụng tương tự như với Ukraina, tìm cách ngăn chặn bằng mọi giá một cuộc chiến công khai giữa Mỹ và Nga.
Nguy cơ đối đầu Iran – Israel : Hoa Kỳ « đu dây » ?Đương nhiên chính sách này của Biden, giống như dưới thời Obama, phần nào bị các đối thủ diễn giải như là một sự do dự dùng đến vũ lực, và đã làm giảm đi đáng kể khả năng răn đe của Mỹ. Như thủ tướng Israel từng khoe khoang là ông « biết nước Mỹ là gì. Nước Mỹ là thứ mà quý vị có thể di chuyển dễ dàng, di chuyển chúng theo đúng hướng. Họ sẽ không cản đường chúng ta ! », có lẽ vì thế mà ông Netanyahu không ngần ngại vượt qua điều được cho là « những lằn ranh đỏ ».
Cũng theo nhà nghiên cứu về địa chính trị và chiến lược tại German Marshall Fund, những gì diễn ra sau đó mới là điều thú vị. Nghĩa là Hoa Kỳ rơi vào trong tình thế, ở đó, sau sự việc, họ đôi khi nhận thấy rằng việc Israel không tôn trọng lằn ranh đỏ là đúng.
« Ví dụ như việc Israel đáp trả cuộc không kích đầu tiên của Iran hồi tháng Tư vừa qua. Joe Biden trước đó đã nói với Israel rằng, trong một chừng mực nào đó nên chấp nhận mình đã thắng, "quý vị đã bị dội bom, hệ thống phòng không của chúng ta đã có thể bảo vệ tốt nhất có thể an ninh của Israel. Hãy xem điều đó như là một thắng lợi, đừng nên trả đũa".
Nhưng Israel đã đáp trả một cách có chừng mực nhằm vào một số căn cứ của Iran, điều đó cho phép vừa gởi đi một thông điệp đến Iran vừa không gây ra hỗn loạn điên rồ có thể dẫn đến chiến tranh. Và do vậy, Hoa Kỳ buộc phải chấp nhận rằng đòn trả đũa đó đã ít nhiều cũng đáp ứng được những gì mà Washington mong muốn và điều đó phù hợp với một dạng đồng thuận giữa hai nước. »
Trước những cân nhắc chiến lược quan trọng này, giới quan sát cho rằng quan hệ Mỹ - Israel thực sự sẽ không có những thay đổi đáng kể nào. Chính quyền Biden và những đời tổng thống tiếp theo vẫn sẽ tiếp tục hỗ trợ toàn diện – ngoại giao, kinh tế và quân sự cho Israel. Sự đồng thuận của lưỡng đảng vẫn sẽ chiếm ưu thế trong các hành lang quyền lực về một điểm : « Israel phải luôn được ủng hộ một cách rõ ràng », theo như nhận định của giáo sư Rajan Menon, đại học Columbia với Responsible Statecraft.
Công nghiệp vũ khí Mỹ thu lợiChỉ có điều, cuộc xung đột này rất có thể ảnh hưởng đến kết quả bầu cử tại Mỹ vào tháng 11 sắp tới. Một bộ phận cử tri Mỹ, đặc biệt là những thế hệ trẻ đã khẳng định rằng họ sẽ không ủng hộ việc Hoa Kỳ gởi hàng tỷ đô la tiền thuế của người dân đến một quốc gia « giết người và làm toàn bộ dân số chết đói ».
theo chuyên gia Martin Quencez, câu hỏi đặt ra ở đây là liệu các hành động của Israel có thể khiến một số cử tri từ bên này bỏ phiếu cho bên kia hay không, và như vậy, gây nguy hiểm cho cuộc tranh cử của bà Kamala Harris, hiện cũng đang chịu áp lực từ cánh tả trong đảng Dân Chủ về hồ sơ Palestine.
Một điều chắc chắn là các chiến dịch quân sự của Israel ở Gaza và tại Liban đã mang lợi nhuận khổng lồ cho các nhà đầu tư vũ khí Mỹ. Tổng lợi nhuận của các hãng Raytheon, chuyên cấp bom phá hầm ; Lockheed Martin, sản xuất F-35 hay General Dynamics, nhà cung cấp bom BLU-109 được dùng trong vụ ám sát lãnh đạo Hezbollah Hassan Nasrallah, lần lượt tăng lên ở mức gần 83%, 55% và 37%, cao hơn tổng lợi nhuận của S&P500, chỉ số chứng khoán của 500 hãng lớn nhất có niêm yết trên các sàn chứng khoán của Mỹ !
(Nguồn Responsible Statecraft, France Culture, Le Monde, Le Figaro)
Chuyển đổi năng lượng, chìa khóa chủ chốt để chống biến đổi khí hậu, phải bắt đầu từ việc phi các-bon hóa các hoạt động của nhân loại, từ giao thông, phương thức sản xuất, hoạt động nhà xưởng, cho đến xây dựng cơ sở hạ tầng. Nhưng những hệ thống năng lượng tái tạo sử dụng nhiều thứ kim loại « thiết yếu ». Trong cuộc cạnh tranh gay gắt nhằm bảo đảm chuỗi cung ứng những nguồn nguyên liệu không thể thiếu này, châu Âu bị « kẹp » giữa hai ông khổng lồ Mỹ và Trung Quốc.
Các lãnh chúa vàng đen ngày nay hiểu rất rõ một điều: Thế kỷ XX là của dầu hỏa, nhưng thế kỷ XXI sẽ là của kim loại. Quá trình chuyển đổi năng lượng xanh và số hóa nền kinh tế thế giới đang thúc đẩy nhu cầu về khoáng sản tăng vọt. Những linh kiện dùng để chế tạo các hệ thống năng lượng xanh như bảng năng lượng mặt trời, phong điện, pin cho xe ô tô điệ,n hay máy điện phân hydro, đều cần đến nhiều thứ kim loại như nickel, mangan, cobalt, lithium, than chì, cùng nhiều loại đất hiếm khác.
Cơn sốt vàng mới ?Theo báo cáo của Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), được công bố hồi tháng 5/2024, được báo Pháp Le Monde dẫn lại, để đạt được mục tiêu phát thải khí CO2 ròng từ đây đến năm 2050, mức tiêu thụ chất lithium sẽ phải tăng gấp 9 lần từ đây đến năm 2040, than chì gấp 4 lần và cobalt, nickel cùng các loại đất hiếm gấp hai lần.
Quá trình chuyển đổi năng lượng này rõ ràng đang đưa xã hội loài người chuyển từ « phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch sang phụ thuộc vào kim loại », theo nhận định của nhà nghiên cứu Stephanie Riché, phụ trách chương trình kinh tế tuần hoàn vật liệu thuộc Ủy ban Năng lượng Nguyên tử, nhân ngày hội Địa Chính Trị do Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược (IRIS) tổ chức ở Nantes (phía tây nước Pháp) trong hai ngày 27-28/09/2024, mà RFI là một trong số các đối tác.
Những tham vọng này đã khiến cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt giữa các đại cường nhằm bảo đảm nguồn cung những thứ kim loại chiến lược trên, đồng thời làm thay đổi sâu sắc thế cân bằng quốc tế về thị trường kim loại. Theo dự phóng của IEA, thị trường các loại khoáng sản này hiện có giá trị 325 tỷ đô la, dự kiến sẽ tăng gấp đôi vào năm 2040.
Nhưng trên thực tế, các khoáng sản này có giá trị cao hơn hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tỷ đô la. Các cường quốc phụ thuộc vào những thứ kim loại trên vì an ninh quốc gia, do , chúng được sử dụng để sản xuất các thiết bị quân sự tinh vi, và để phát triển ngành công nghiệp xanh của chính họ.
Mỹ - Thị trường Kim loại : Từ thống lĩnh đến phụ thuộcCũng trong cuộc hội thảo về « Địa chính trị kim loại : Phải chăng cơn sốt vàng mới đang diễn ra ? », mà RFI Tiếng Việt có tham dự, nhà nghiên cứu Virginie Raisson-Victor, chuyên gia về các vấn đề hệ thống và thách thức chuyển đổi năng lượng, nhận định, một trong những yếu tố làm thay đổi thế cân bằng thế giới liên quan đến quặng mỏ, là mức độ tập trung cao nguồn cung các loại khoáng sản trên không chỉ về trữ lượng, khai thác, mà cả trong tinh chế và xuất khẩu.
« Để cho thấy quy mô trung bình, người ta ước tính rằng đối với hầu hết các khoáng sản, khoảng 70% sản lượng thế giới được phân bổ giữa 3, 4 hay tối đa là 5 nước, trong đó Trung Quốc gần như hiện diện một cách có hệ thống. Và sự hiện diện khắp nơi này của Trung Quốc rõ ràng không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Bắc Kinh có cả một kế hoạch chiến lược lâu dài do việc tham vọng về tự chủ đã có một kinh nghiệm tồi tệ. Trung Quốc thích nghi kém với quá trình chuyển đổi từ tự chủ năng lượng vào cuối những năm 1980 do sự phụ thuộc của họ vào dầu hỏa. »
Trong khi đó, Hoa Kỳ, quốc gia từng thống trị thị trường kim loại trong những năm 1980, đã sẵn sàng để lại ngành công nghiệp gây ô nhiễm và ít lợi nhuận cho Trung Quốc. Kết quả là, theo bà Virginie Raisson-Victor :
« Vào cuối những năm 2010, toàn cầu hóa có dấu hiệu trì trệ và cũng vào thời điểm này, nhu cầu khoáng sản bùng phát, người ta nhận thấy Nhật Bản, Hoa Kỳ, châu Âu rơi vào tình trạng phụ thuộc nhiều vào các nước vẫn tiếp tục phát triển khai thác quặng mỏ, và tất nhiên đi đầu là Trung Quốc, chẳng hạn chỉ riêng nước này tinh chế đến khoảng 60% số kim loại được sử dụng trong pin xe điện.
Ngoài sự lệ thuộc chiến lược này, vốn dĩ sẽ đặt châu Âu hay Mỹ, các nước phương Tây vào tình trạng bị cầm cố, người ta thấy rõ là nhu cầu khoáng sản khiến những nước này phải cạnh tranh với nhau. Đây chính là những gì Mỹ đang làm khi đưa ra các biện pháp bảo hộ trong đạo luật giảm lạm phát hồi năm 2022. »
Bàn cờ địa chính trị về kim loại còn thêm phần nóng bỏng khi những nguồn dự trữ khoáng sản thiết yếu tập trung chủ yếu tại những nước mà ngày nay người ta gọi là phương Nam Toàn cầu, và đặc biệt là tại các nước trong nhóm BRICS, quy tụ năm nước Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi, và sắp tới là có thêm Ả Rập Xê Út. Ngoài việc thống lĩnh thị trường dầu hỏa, nước này gần đây có thêm tham vọng trở thành cường quốc khoáng sản, do có những trữ lượng dồi dào về đồng, mangan, lithium, đất hiếm và nickel.
Trung Quốc và chiến lược 25 nămTrong toàn cảnh này, đâu là những chiến lược của Trung Quốc, Hoa Kỳ và châu Âu nhằm bảo đảm chuỗi cung ứng ? Trả lời cho câu hỏi này, bà Virginie Raisson-Victor trước hết lưu ý, Trung Quốc, Mỹ và Châu Âu không xuất phát từ cùng một vạch.
Trung Quốc ngày nay có thể bỏ xa các đối thủ là nhờ có được một kế hoạch chiến lược dài hạn trong 25 năm. Ngay từ những năm 1980, Bắc Kinh đã từng tuyên bố, « Trung Đông có dầu lửa, Trung Quốc có đất hiếm ». Chiến lược này được Trung Quốc thực hiện theo bốn bước : Tự cung tự cấp, Mua hay tham gia các dự án khai thác quặng mỏ khắp nơi trên thế giới (chủ yếu ở châu Phi), Phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo và sau cùng Thúc đẩy dự án Con đường Tơ lụa Mới năm 2013, cho phép nhập khẩu và xuất khẩu các yếu tố cần thiết cho ngành công nghiệp Trung Quốc.
Trong vòng 25 năm, Bắc Kinh đã khẳng định thế thống trị trên trường quốc tế, buộc các đối tác châu Âu thực hiện chuyển đổi năng lượng theo nhịp độ và tầm nhìn địa chính trị của Trung Quốc và nhất là tạo một thế mạnh cho Bắc Kinh trong mối quan hệ với Washington. Khi chính quyền Biden cấm xuất khẩu sang Trung Quốc nhiều loại linh kiện bán dẫn rất tinh vi, Bắc Kinh đã không ngần ngại đáp trả bằng cách giảm xuất khẩu germanium, gallium và than chì sang Mỹ.
Cũng chính trong bối cảnh căng thẳng quan hệ với Trung Quốc mà Hoa Kỳ vạch ra hai trục chiến lược chính : Thứ nhất là tái khởi động ngành khai thác quặng mỏ trong nước để thúc đẩy sản xuất nội địa. Đạo luật về sản xuất quốc phòng cho phép tăng cường tài trợ khai thác, chế biến và tái chế các kim loại chiến lược cho Mỹ. Trục chính thứ hai là mở rộng đối tác Friendshoring mà Mỹ ký kết với các nước thành viên trong nhóm G7, tạo thuận lợi cho việc di dời nhà xưởng về các nước bằng hữu và tăng cường hợp tác đối tác về khai thác, chế biến, và tái chế kim loại.
Châu Âu giữa hai gọng kềm Mỹ - TrungTrong bối cảnh này, châu Âu nằm kẹp giữa hai ông khổng lồ, rơi vào thế lúng túng, vì không muốn bị giam hãm trong cuộc đọ sức Mỹ - Trung. Một mặt, châu Âu đang chịu nhiều áp lực từ hai phía, nhưng mặt khác châu Âu vẫn muốn bám chặt vào chủ trương « tự do mậu dịch », có thể nói là kim chỉ nam trong quá trình xây dựng khối 27 nước thành viên.
Do vậy, theo nhận định của nhà nghiên cứu Virginie Raisson-Victor, châu Âu khó có thể có cùng kiểu chiến lược như Mỹ hay Trung Quốc. Điểm hạn chế của châu Âu còn nằm ở việc thiếu hợp tác giữa các nước thành viên, và điều này cản trở khả năng xây dựng các nền công nghiệp khoáng sản, cũng như là tạo thế mạnh cho « ngoại giao khoáng sản ».
Đây là điều mà tổng thống Pháp Emmanuel Macron gần đây nỗ lực thực hiện khi thăm các nước Mông Cổ, Kazakhstan hay Chilê để đàm phán một thỏa thuận sản xuất và bán nguyên liệu. Tuy nhiên, theo nhà báo Guillaume Pitron, chuyên gia về nguyên nhiên liệu thiết yếu, chính sách « ngoại giao quặng mỏ » cũng có những hạn chế. Các nước sản xuất – khai thác kim loại giờ muốn trở thành một kiểu quốc gia mà tuần báo Anh The Economist gọi là Electro States:
« Các nước sản xuất khoáng sản ngày nay hay những nước đang trên đà trở thành các nước sản xuất lớn, hoàn toàn nhận thức được rằng, nếu muốn trở thành nhà sản xuất lớn hoặc giành chiến thắng quá trình chuyển đổi năng lượng, họ không chỉ khai thác kim loại và nghiền đá mà còn phải sản xuất các công nghệ chế biến, mang lại cho những viên đá các giá trị gia tăng và sau cùng là bán ô tô điện. Và ngày nay, nước thực hiện thành công nhất trong chiến lược dài hạn 25 năm chính là Trung Quốc. »
Khó khăn thứ hai, theo bà Virginie Raisson-Victor là nguồn dự trữ tài nguyên của châu Âu phân bổ không đồng đều. Việc tái khởi động khai thác mỏ rất tốn kém, cần nhiều khoảng đầu tư lớn trong dài hạn. Kế hoạch này đòi hỏi một chiến lược công nghiệp thực sự phải đi từ khai thác, chế biến cho đến có được thành phẩm sau cùng, theo như phân tích của nhà báo Guillaume Pitron tại ngày hội Địa Chính Trị Nantes 2024:
« Trước hết, phải mất nhiều thời gian hơn để mở một quặng mỏ, trung bình là 16 năm rưỡi, theo số liệu của IEA. Thứ hai, phải tạo ra một chuỗi giá trị, vì vậy phải đưa ra một chiến lược công nghiệp mà tôi sẽ phải mất 25 năm mới có thể đi thẳng đến việc sản xuất pin ô tô điện. Đây là quãng thời gian Trung Quốc đã mất để làm được điều này. Điều đó cũng có nghĩa là phải có nguồn nhân lực, đường sá, bến cảng, nhà máy điện để chế biến kim loại cho quá trình chuyển đổi năng lượng, có nghĩa là phải có một nhà nước ổn định, có thể không dân chủ, nhưng có sự ổn định để trấn an các nhà đầu tư, tuy có chút tham nhũng. »
Dù vậy, Châu Âu cũng nỗ lực đưa ra vài sáng kiến để bảo đảm nguồn cung nguyên liệu : Kế hoạch hành động về nguyên nhiên liệu nhằm đa dạng hóa chuỗi cung ứng, phát triển khả năng khai thác mỏ và phát triển công nghệ tái chế, hình thành Liên minh châu Âu về nguyên nhiên liệu trong nỗ lực phối hợp các tác nhân nhà nước và tư nhân tạo thuận lợi cho việc khai thác quặng mỏ trên lục địa cũng như là khuyến khích phát triển quan hệ đối tác với các nước nằm ngoài khối Liên Âu.
Cuối cùng là đầu tư trong ngành công nghiệp tái chế. Tuy nhiên, một lần nữa, trong lĩnh vực này, châu Âu và Mỹ lại bị Trung Quốc cùng nhiều nước Đông Nam Á qua mặt. Để có thể bảo đảm chuỗi cung ứng, châu Âu giờ đành phải đi ngược với mong muốn của Hoa Kỳ, mở rộng hợp tác công nghệ tái chế với nhiều tác nhân khác, kể cả với đối thủ của Washington là Bắc Kinh, theo như ghi nhận của nhà nghiên cứu Stephanie Riché !
Liệu vòng tròn vệ tinh yên bình quanh Trái Đất chúng ta có sắp biến thành một bãi chiến trường ? Căng thẳng đã gia tăng một nấc khi Mỹ nghi ngờ Nga cho triển khai vũ khí chống vệ tinh chạy bằng năng lượng hạt nhân, trong khi các cuộc thương lượng nhằm xác định các quy tắc đang rơi vào ngõ cụt. Cuộc đua vũ trang không gian đã khởi động, nhưng khó biết được ai đang làm gì và với ý đồ gì.
Hiện trạngNgày 21/05/2024, Lầu Năm Góc cáo buộc Matxcơva hôm 16/5 đã phóng một loại vũ khí không gian và triển khai trên cùng quỹ đạo một vệ tinh của chính phủ Mỹ. Nếu như phát ngôn viên điện Kremlin Dmitri Peskov từ chối bình luận thông tin trên, thì phía Nga cũng tố cáo Mỹ tìm cách bố trí vũ khí trên không gian sau khi Washington bác bỏ một nghị quyết về vấn đề này do Matxcơva đề xuất tại Hội Đồng Bảo An một ngày trước đó.
Chuyên gia Alain de Neve tại Trung tâm Nghiên cứu An ninh và Quốc phòng, trực thuộc bộ Quốc Phòng Bỉ, trả lời tạp chí Tạp chí khoa học Epsil∞n (số ra tháng 10/2024) nhắc lại « Trung Quốc hồi đầu năm 2023 đã phóng một vệ tinh, và từ chính vệ tinh này, một vật thể không xác định lại được phóng tiếp, tiến đến gần một vệ tinh quân sự của Mỹ. Những cỗ máy này, khi chơi trò búp bê Nga và có những hành vi không bình thường, rõ ràng khiến người ta nghĩ đến những cuộc thử nghiệm vũ khí diệt vệ tinh. »
Theo đánh giá của bà Victoria Samson, giám đốc nghiên cứu về an ninh và bình ổn không gian, Quỹ An ninh Thế giới (Secure World Foundation – SWF) với tạp chí Epsil∞n, hiện có 12 nước là có những năng lực quân sự tương tự, tăng gấp đôi so với cách nay sáu năm, trong số này có Pháp, Úc, Iran, Bắc Triều Tiên, Israel… Thế giới đã từng chứng kiến bốn nước Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nga và Ấn Độ cho nổ tung các vệ tinh của mình bằng tên lửa phóng đi từ Trái Đất.
Một hành động biểu dương sức mạnh nhằm phô diễn thế mạnh công nghệ, nhưng theo đánh giá của nhiều nhà quan sát, đó lại là « một con dao hai lưỡi ». Không những cú nện « búa tạ » này gây ra nhiều thiệt hại to lớn khi phát tán nhiều mảnh vỡ, có nguy cơ mang đến nhiều phiền toái cho tất cả các nước, kể cả bên tấn công, mà còn cho phép xác định thủ phạm.
Hồi kết của một thành trìGiải thích với đài France Culture (15/06/2024) trong chương trình mang tên Affaires Etrangères, nữ đại úy Béatrice Hainaut, chuyên gia Viện Nghiên cứu Chiến lược, trường Quân sự Pháp, cho rằng điều ưu tiên hiện nay là tấn công mạng hay tấn công điện từ như gây nhiễu, làm nhiễu tín hiệu GPS từ mặt đất… những phương thức hành động kín đáo hơn, có thể làm gián đoạn tạm thời hệ thống liên lạc của đối phương mà không lo bị quy trách nhiệm. Cuộc chiến tại Ukraina là một minh chứng điển hình nhất.
« Đây là những gì chúng ta đã thấy ngay trước cuộc xâm lược trên bộ của Nga tại Ukraina. Mạng viễn thông vệ tinh thương mại Ka-sat Viasat mà quân đội Ukraina sử dụng đã bị tấn công nhằm cắt đứt các đường liên lạc. Người ta nghĩ rằng khi liên lạc trên mặt đất thông qua không gian bị gián đoạn, cuộc xâm lược trên bộ sẽ đơn giản hơn. Do vậy, họ đã chuyển qua tấn công mạng khiến tất cả những thiết bị đầu cuối nào sử dụng mạng lưới vệ tinh này không hoạt động được. Điều này chẳng tác động gì đến bản thân vệ tinh nhưng ảnh hưởng đến tất cả những thiết bị đầu cuối của người dùng. »
Không gian về bản chất là được kết nối với nhau, khiến chúng có độ nhạy cao với mạng, mà 80% hoạt động của chúng là dành cho quân sự. Xung đột tại Ukraina đã cho thấy, lần đầu tiên, một hoạt động không gian là mục tiêu tấn công ưu tiên trong một cuộc xung đột.
Sự việc báo hiệu chấm dứt một thế nguyên trạng có hiệu lực từ thời Chiến Tranh Lạnh. Từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, không gian được dùng để dọ thám lẫn nhau và các vệ tinh có vai trò như là một dạng « bảo hiểm nhân thọ », một dạng « thành trì » răn đe hạt nhân, theo nhận định của chuyên gia về không gian Xavier Pasco, giám đốc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược (FRS), trên làn sóng France Culture:
« Quả thật, trong giai đoạn đầu tiên đó, bản thân không gian đã được sử dụng như là một cách thức bảo đảm thế cân bằng chiến lược và do vậy bản thân không gian đã được bảo vệ phần nào. Đương nhiên cũng có những cuộc thử nghiệm vũ khí, nhưng chúng chưa dẫn đến một cuộc chạy đua mà tôi có thể nói là trang bị vũ khí giống như những gì đã diễn ra trên Trái Đất với các loại tên lửa. Những gì chúng ta đang chứng kiến ngày nay là sự thay đổi thế cân bằng này. Không gian có thể sẽ bị sử dụng nhiều hơn cho các chiến dịch quân sự và có nguy cơ trở thành một mục tiêu, trong mọi trường hợp là các hệ thống không gian. »
Cuộc đua vũ trangDiện mạo thế giới thay đổi. Lực lượng Không gian Mỹ (US Space Force) năm 2024 lần đầu tiên có mức ngân sách cao hơn của NASA : 29 tỷ euro so với 24 tỷ. Trung Quốc cũng dành khoảng từ 15-20 tỷ cho không gian, trong khi Nga có mức ngân sách khiêm tốn hơn chỉ tầm 5 tỷ.
Theo quan sát của tướng Michel Friedling, chỉ huy đầu tiên của lực lượng không gian Pháp, tiến trình quân sự hóa không gian trên thực tế đã được thúc đẩy từ những năm 2010, khi Nga cho mở lại chương trình phát triển vũ khí phá vệ tinh, cùng thời điểm nước này thành một lập lực lượng không gian, và điều ngạc nhiên nhất là cùng lúc đó Trung Quốc cũng ra cho ra đời bộ chỉ huy bao trùm cả không gian, mạng và tình báo.
Trên làn sóng France Culture, tướng Michel Friedling giải thích tiếp :
« Người ta dần phát triển những thứ đã tồn tại trước đây chính vì Liên Xô đã làm chủ hoàn toàn các loại vũ khí chống vệ tinh trên quỹ đạo trong những năm 1970. Theo quyết định của Khrouchtchev, họ đã triển khai một chương trình có tên gọi là Istrebitel Spoutnikov, nghĩa đen là "sát thủ vệ tinh", nhưng chương trình này đã bị rút vào đầu những năm 1990 sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Đến cuối những năm 2010, Nga cho phát triển trở lại bí quyết này để có được những màn biểu dương đáng lo ngại trên quỹ đạo thấp cũng như là trên quỹ đạo địa tĩnh ».
Lãnh đạo lực lượng không gian Mỹ tại Space Symposium 2024 khẳng định « thắng lợi trên chiến trường phụ thuộc vào thành công trên không gian ». Quan điểm này phần nào đã được chứng minh qua cuộc chiến Vùng Vịnh năm 1990, một bước ngoặt lớn theo như đánh giá từ chuyên gia Xavier Pasco, cho thấy rõ tầm quan trọng chiến lược của không gian trong một cuộc xung đột, cũng những rủi ro bị biến thành mục tiêu tấn công:
« Trong suốt chiến tranh Vùng Vịnh lần thứ nhất, người ta chợt nhận ra rằng việc sở hữu các vệ tinh có khả năng đếm tên lửa trong các hầm chứa, hay nhìn thấy những thứ rất chính xác chẳng giúp ích gì nhiều khi nói đến việc theo dõi một chiếc xe pick-up chẳng hạn. Do vậy, Mỹ đã đầu tư rất mạnh mẽ vào thời điểm này ở khía cạnh chiến lược không gian theo một chiều hướng mang tính tác chiến hơn, ý tôi muốn nói là quân sự, có liên quan nhiều hơn đến chiến trường. »
Không gian: Mục tiêu tấn côngTrong cuộc chiến Vùng Vịnh, ưu thế chiến trường đã được bảo đảm bằng cách dựa vào các phương tiện không gian, vốn dĩ đã trở nên thiết yếu, cùng với drone nổi tiếng Predator chẳng hạn. Ông Paul Wohrer, nhà nghiên cứu tại Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI), nhận định với Epsil∞n rằng « không gian đã ngấm ngầm dịch chuyển đến gần chiến trường. Nếu người ta sử dụng vệ tinh để hướng dẫn bom, thì việc xem chúng như là những mục tiêu tấn công chẳng phải không hợp lý ? »
Chiến tranh Ukraina từ hơn hai năm rưỡi qua cũng đã cho thấy rõ tính chất « hỗn hợp » của một cuộc chiến tranh đương đại, vai trò của drone và các chiến dịch tấn công mạng. Cuộc chiến này cũng làm nổi rõ vai trò của các vệ tinh thương mại trong các cuộc xung đột mà điển hình là vai trò của mạng internet Starlink của nhà tỷ phú Mỹ Elon Musk đối với các chiến dịch quân sự của Ukraina.
Tướng Michel Friedling, trong chương trình của France Culture, nhắc lại : « Về vấn đề này, Nga đã có những cảnh cáo rất rõ ràng. Ngay sau khi các dịch vụ của Starlink được cung cấp, mạng này là đối tượng bị gây nhiễu hồi tháng 3/2022. Rồi đến tháng 10/2022 và tháng 02/2023, một quan chức cao cấp ở bộ Quốc Phòng Nga công khai cảnh báo rằng tất cả các vệ tinh dân sự mà Ukraina sử dụng để chống cuộc chiến xâm lược của Nga, đặc biệt là mạng Starlink, có thể được xem như là những mục tiêu chính đáng đối với Nga. »
Trong cuộc đua không gian này, học thuyết nổi trội ở các đại cường là chứng tỏ năng lực đáp trả khi bị tấn công. Điều này dẫn đến một cuộc đua vũ trang không gian. Nhiều ý tưởng thời Chiến tranh lạnh có thể thành hiện thực nhờ vào những tiến bộ kỹ thuật – công nghệ như tia laser theo kiểu Star Wars ! Theo tình báo Mỹ, Trung Quốc sở hữu nhiều đại bác laser có khả năng làm "mù", thậm chí phá hủy các vệ tinh. Nước Pháp hồi năm 2023, trong luật về Kế hoạch Quân sự 2024-2030, thông báo năng lực laser sẽ được triển khai từ Mặt đất và trên quỹ đạo từ đây đến cuối thập niên này.
Nga thử nghiệm hạt nhân trên không gian ?Trở lại với cáo buộc của Mỹ về khả năng Nga triển khai vũ khí phá vệ tinh bằng năng lượng hạt nhân, tướng Michel Friedling giải thích vì sao ông không tin vào khả năng Nga đưa vũ khí hạt nhân lên không gian :
« Vậy vũ khí hạt nhân trong không gian sẽ tạo ra điều gì ? Chúng sẽ tạo ra một xung điện từ rất mạnh, mà sẽ không gây ra hậu quả tiên nghiệm nào trên Trái đất nếu nó được sử dụng ở đủ độ cao, nhưng mặt khác sẽ phá hủy mạch điện của tất cả các vệ tinh nằm trong tầm bắn của loại vũ khí này.
Vì vậy, nhược điểm lớn của loại vũ khí như vậy là chúng sẽ vô hiệu hóa tất cả các vệ tinh ở gần đó mà không có sự phân biệt. Vì vậy, nếu Nga sử dụng loại vũ khí này, chúng sẽ phá hủy các vệ tinh của họ cũng như các vệ tinh của Trung Quốc, Mỹ, Pháp, tất cả mọi thứ xung quanh đó.
Đây là điều mà Mỹ đã từng thử nghiệm cách đây vài năm và đã bị dừng lại. Mỹ đã thực hiện một cuộc thử nghiệm vào năm 1962 với vũ khí có sức mạnh đến 1,4 megaton, có tầm bắn đáng kể ở khoảng cách 400 km, và họ nhanh chóng nhận ra thiệt hại liên đới mà chúng có thể gây ra, nên họ đã dừng chương trình này. »
Nhưng giới quan sát cũng cảnh báo, việc nở rộ các dịch vụ vệ tinh sửa chữa hay cung cấp nhiên liệu cũng là những công cụ phá hoại tiềm tàng. Jean-Marc Laurent, cựu tướng không quân Pháp, lưu ý « tất cả các hoạt động hậu cần có liên quan đến mức độ cơ động cao và cho phép tiếp cận một vệ tinh để kiểm tra, tiếp nhiên liệu, hoặc sửa chữa đều có thể bị khai thác cho các mục tiêu ít hòa bình ».
Không chỉ trên chiến trường, không gian ngày càng mang tính chiến lược cho kinh tế. Nhiều lĩnh vực như tài chính, nông nghiệp, giao thông hàng không hay hàng hải cũng phụ thuộc vào hệ thống viễn thông vệ tinh. Do vậy, ông Franck Lefèvre, giám đốc kỹ thuật thuộc Trung tâm Nghiên cứu Hàng không, cảnh báo « người ta cũng có thể gây bất ổn nền kinh tế của một nước bằng cách tấn công các cơ sở hạ tầng không gian của nước này ».
Quan hệ đối tác quân sự với Trung Quốc, Iran và Bắc Triều Tiên đã giúp Nga giảm nhẹ được áp lực từ các biện pháp trừng phạt của phương Tây, đồng thời duy trì được cường độ các cuộc tấn công đánh chiếm Ukraina, và góp phần cho nhiều thắng lợi của Nga trên chiến trường. Nhưng cả ba nước này cũng đã tận dụng sự phát triển các động lực chính trị, kinh tế, và quân sự của Nga để giành lợi thế và những nhượng bộ từ Matxcơva.
Quyết định của tổng thống Vladimir Putin phát động cuộc chiến xâm lược Ukraina đã đưa Nga vào một cuộc chiến tiêu hao lâu dài, đòi hỏi ngành công nghiệp quốc phòng phải sản xuất và cung cấp liên tục thiết bị quân sự cho chiến trường. Nhưng các đòn trừng phạt của phương Tây đã gây nhiều khó khăn lớn cho khả năng tự cung tự cấp, buộc Nga phải trông cậy vào sự hỗ trợ quân sự từ các đối thủ của Mỹ là Trung Quốc, Iran, và Bắc Triều Tiên.
Đổi công nghệ lấy viện trợ vũ khíCả ba nước này hậu thuẫn cho các nỗ lực chiến tranh của điện Kremlin ở những mức độ khác nhau và với các mục tiêu địa chính trị rất khác biệt. Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà phân tích địa chính trị về Nga, Igor Delanoe, phó giám đốc Đài Quan sát Pháp – Nga, trước hết lưu ý rằng sự hỗ trợ mà mỗi nước đối tác dành cho Nga có bản chất không giống nhau.
Igor Delanoe : Theo như những gì chúng tôi biết, Trung Quốc chưa hề cung cấp thiết bị quân sự sát thương mà thay vào đó là những thiết bị lưỡng dụng như linh kiện bán dẫn hay các bộ vi xử lý, drone bốn cánh quạt – những loại drone nhỏ này trên thực tế có thể được dùng để gắn chất nổ chẳng hạn (…)
Còn đối với Bắc Triều Tiên, người ta nói nhiều về việc cung cấp đạn pháo, bởi vì kho đạn nước này dường như rất dồi dào. Dĩ nhiên, nếu xét về lịch sử quan hệ giữa hai nước, Bắc Triều Tiên và quân đội Bắc Triều Tiên sử dụng trang thiết bị do Liên Xô cũ sản xuất. Và do vậy, có một sự tương thích khá thú vị về hệ thống vũ khí, đạn dược giữa hai nước (…)
Về phía Iran, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm khá thú vị, bởi vì nước này đã nhanh chóng giúp đỡ Nga qua việc cung cấp drone, kể cả drone trinh sát và các loại đạn dược. Ngoài ra, còn có cả một cơ sở sản xuất những loại drone này trên lãnh thổ Nga. Thậm chí gần đây nhất đã có tin đồn nói về việc cung cấp tên lửa đạn đạo.
Thông tin này đã xuất hiện từ vài tháng trước, nhưng chưa bao giờ thực sự được xác minh trên địa bàn. Tuy nhiên, hồi tuần rồi, cách nay vài ngày, nhiều lãnh đạo Mỹ, đặc biệt là ngoại trưởng Anthony Blinken, có nói rõ rằng Iran đã chuyển giao 200 tên lửa đạn đạo cho Nga.
Đương nhiên, Iran chính thức phủ nhận vì hơn nữa, cả bộ Ngoại Giao và tân tổng thống đã khẳng định rằng chẳng có chuyện như thế xảy ra. Do vậy, chúng ta sẽ phải quan sát những gì đang diễn ra trên chiến trường Ukraina để xem liệu những khẳng định trên có chính xác hay không.
Tuy những thiết bị này nhìn chung có chất lượng thấp hơn so với các sản phẩm tương đương của phương Tây, nhưng chúng vẫn cho phép Lực lượng Vũ trang Nga (FAR) được cung cấp tương đối đầy đủ. Nếu như ba nguồn cung này đã có thể giúp Nga duy trì cuộc chiến với một cường độ lớn chưa từng có, thì cả ba đối tác của Nga cũng hưởng được lợi từ kinh tế, chính trị cho đến quân sự trong việc hợp tác quân sự với Nga.
Tổng thống Vladimir Putin dường như phải chịu một số nhượng bộ, chấp nhận chia sẻ nhiều kỹ thuật, công nghệ quân sự tùy theo nhu cầu của mỗi đối tác – những « bí quyết » quân sự cho đến trước khi có cuộc xung đột tại Ukraina, Nga chưa bao giờ sẵn sàng cung cấp. Chuyên gia về Nga, Igor Delanoe, giải thích tiếp với RFI Tiếng Việt :
Igor Delanoe : Đối với Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy khối lượng trao đổi thương mại giữa Nga và Trung Quốc, theo đúng nghĩa đen, đã tăng vọt trong năm 2023. Trao đổi mậu dịch giữa hai nước đã đạt gần 240 tỷ đô la, một con số thực sự to lớn (…)
Rồi Nga đã giúp thúc đẩy chương trình không gian của Bình Nhưỡng, bởi vì không lâu sau chuyến thăm Bắc Triều Tiên của ông Vladimir Putin, Bình Nhưỡng đã phóng một vệ tinh từ sân bay vũ trụ của họ, một vệ tinh quân sự, vệ tinh quan sát, hay đúng hơn là vệ tinh « gián điệp ». Ở đây, chúng ta có thể tin là có nhiều khả năng Nga đã giúp Bắc Triều Tiên (…)
Vì đây là cái giá mà Nga phải trả nên có lẽ còn thú vị hơn, khi Iran trông đợi rất nhiều từ Nga. Họ đang chờ đợi Nga chuyển giao chiến đấu cơ Su-35 và các hệ thống phòng không như S-400, cũng như các loại trực thăng tấn công.
Vẫn còn khá nhiều thứ Iran đang chờ đợi và ngoài ra còn có một bối cảnh song phương khá thú vị vào lúc hai nước đang trong quá trình triển hạn thỏa thuận về quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, mà trên thực tế, đây là một thỏa thuận hợp tác chiến lược cho 20 năm. Thỏa thuận này rất có thể sẽ được hoàn tất trong những ngày hay những tuần sắp tới.
Thế bất cân xứngViệc phải phụ thuộc một phần vào viện trợ quân sự từ Trung Quốc, Iran, và Bắc Triều Tiên ít nhiều cũng đã làm biến đổi bản chất mối quan hệ giữa Nga với ba nước này. Vị thế thống trị của Nga trong mối quan hệ song phương bị suy giảm theo những cách khác nhau với từng đối tác.
Igor Delanoe : Ở đây cần phải xem xét từng nước. Nhưng nếu chúng ta lấy Iran làm ví dụ, thì cho đến khi chiến tranh bùng nổ và trước những tiến triển mà tôi đã đề cập ở trên, trước đây rõ ràng có một sự bất cân xứng rất mạnh mẽ trong mối quan hệ giữa Nga và Iran, nhìn chung Nga luôn chiếm thế thượng phong vì nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, với những gì đang diễn ra từ tháng 2/2022 và cuộc chiến tại Ukraina, và sự hỗ trợ này, dù Iran luôn phủ nhận, mối quan hệ giữa Nga và Iran đang được tái cân bằng, và sự bất xứng như nói ở trên không tồn tại theo cách tương tự.
Với Trung Quốc, mối quan hệ bất cân xứng ngày càng bị đào sâu. Một mặt, trong trao đổi thương mại giữa hai nước, lợi thế vẫn luôn nghiêng về phía Trung Quốc. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của Nga sang Trung Quốc chỉ chiếm từ 4-5%, trong khi chiều ngược lại, con số này lên đến gần 40%. Cũng theo phân tích của ông Igor Delanoe, Trung Quốc giờ cũng không còn phụ thuộc nhiều vào công nghệ của Nga như trong những năm 1990 – 2000.
Igor Delanoe : Họ đã tiếp thu được rất nhiều công nghệ và bí quyết của Nga. Đương nhiên, vẫn còn nhiều phân khúc, nhiều lĩnh vực mà Matxcơva vẫn là một đối tác quan trọng của Bắc Kinh, chẳng hạn như động cơ cho máy bay chiến đấu. Rồi còn có những lĩnh vực mà Nga vẫn chiếm ưu thế như các công nghệ có liên quan đến ra-đa phát hiện sớm cho hệ thống tên lửa đạn đạo. Trong những lĩnh vực này, Nga vẫn đi trước Trung Quốc một bước.
Câu hỏi đặt ra là liệu Nga có sẵn sàng chia sẻ với Trung Quốc loại công nghệ này hay không ? Ông Putin cách nay hai năm từng đề cập đến điều này khi giải thích rằng Nga và Trung Quốc có thể hợp tác xây dựng một hệ thống chung, hay chia sẻ mọi thứ. Kể từ đó, chúng tôi chưa thấy có gì mới cả.
Việc Nga mở rộng hợp tác quân sự với Trung Quốc, Iran và Bắc Triều Tiên sẽ tác động ra sao đến các cuộc xung đột đang diễn ra tại Ukraina và Gaza ? Theo nhận định của ông Igor Delanoe với RFI Tiếng Việt, điều này phụ thuộc một phần vào lập trường các nước phương Tây sẽ đưa ra liên quan đến việc cung cấp vũ khí mới hay cho phép Ukraina sử dụng các thiết bị đã được chuyển giao để tấn công các vị trí nhạy cảm nằm sâu trên lãnh thổ Nga.
Igor Delanoe : Nói cách khác, nếu Mỹ cho phép Ukraina oanh kích bằng tên lửa của Mỹ chẳng hạn nhắm vào vùng Matxcơva hay các thành phố của Nga, hoặc căn cứ quân sự Nga, cho đến hiện tại vẫn chưa bị ảnh hưởng, một phần phản ứng của Nga rất có thể sẽ là cung cấp thiết bị hay tên lửa cho các phe phái, các nhóm chống lại những lợi ích của phương Tây tại châu Phi, Trung Đông hay nhiều nơi khác. Điều này là hoàn toàn có thể. Hiện tại chúng ta chưa thấy gì, nhưng cũng không thể loại trừ khả năng này trong tương lai.
Xuất khẩu vũ khí của Nga : Nạn nhân liên đới ?Liệu người ta có thể nói đến sự hình thành một trục liên minh bốn nước chuyên chế Trung Quốc – Nga – Iran – Bắc Triều Tiên mà giới chuyên gia tại Pháp gọi tắt là CRIC hay không ? Chuyên gia về quốc phòng Nga Igor Delanoe lưu ý có sự khác biệt về bản chất trong các mối quan hệ Nga – Trung và quan hệ Nga – Iran – Bắc Triều Tiên.
Igor Delanoe : Iran và Bắc Triều Tiên thuộc về điều mà chính quyền tân bảo thủ của ông Bush từng gọi là « Trục Ma quỷ » vào đầu những năm 2000. Hai nước này, vì nhiều lý do khác nhau, nằm trong tầm ngắm của Washington từ nhiều thập niên qua, và chính bản thân họ cũng xem Mỹ là một kẻ thù cho sự tồn tại, một kẻ thù chiến lược cơ bản trong việc thể hiện mối tương quan lực lượng. Và điều này thật sự chẳng có gì mới, ngoại trừ việc phát triển hợp tác kỹ thuật – quân sự với Nga, mà tôi cho là nhằm củng cố hơn nữa luận điệu này của hai nước đó, cũng như là niềm tin của họ trong mối tương quan lực lượng này.
Nếu như Trung Quốc không đi xa hơn trong việc hậu thuẫn quân sự cho Nga một phần là vì những lợi ích kinh tế to lớn vẫn còn ràng buộc Bắc Kinh với Washington trong nhiều lĩnh vực tài chính, thương mại…, thì ông khổng lồ châu Á này dường như cũng muốn san bằng ảnh hưởng của Mỹ trong vùng lân cận, và do vậy, việc thắt chặt hợp tác với Nga cũng được phát triển theo chiều hướng chống phương Tây.
Igor Delanoe : Hiện tại, Trung Quốc vẫn còn neo bám trong hệ thống tài chính và kinh tế do phương Tây điều hành. Tôi muốn nói đến đồng đô la, Ngân hàng Thế giới, ngân hàng Mỹ v.v… Nhưng hiển nhiên, về mặt chính trị, có một dạng mong muốn hay một sự cám dỗ muốn tránh xa một chút tất cả những điều đó và bắt tay với Nga trong các hình thức đa phương khác như nhóm BRICS hay các mô hình Á-Âu, nhằm đa dạng hóa các mối quan hệ của mình, đặc biệt là với Nga.
Cuối cùng, câu hỏi đặt ra là liệu việc chia sẻ một số kỹ thuật, công nghệ mà Nga vẫn giữ cho đến giờ như là một công cụ ngoại giao để gây ảnh hưởng có tác động ra sao đến vị thế thống trị của Nga trên thị trường vũ khí ? Tính đến năm 2022, 2023, Nga nằm luôn nằm trong top 3 nước xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới. Nếu như Mỹ luôn bỏ xa các đối thủ, thì trong bảng sắp hạng Nga đứng hàng thứ hai, đôi khi là ba.
Tuy nhiên, việc phải ưu tiên cho chiến trường Ukraina đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến ngành xuất khẩu vũ khí của Nga, theo như quan sát của nhà địa chính trị học về Nga, Igor Delanoe.
Igor Delanoe : Do nhu cầu to lớn này của quân đội Nga trên chiến trường, Nga buộc phải ưu tiên cung cấp cho quân đội trên địa bàn. Hệ quả là khách hàng của tổ hợp công nghiệp – quân sự Nga sẽ phải chờ để nhận một số hệ thống vũ khí hay một số đơn đặt hàng sẽ bị tạm đóng băng. Mặt khác, vấn đề các biện pháp trừng phạt của phương Tây cũng đã cản trở một số nước hợp tác với tổ hợp công nghiệp – quân sự Nga, với các hãng vũ khí của Nga. Điều này chắc chắn có những tác động to lớn.
Vậy ai được lợi từ tình huống này ? Đó là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp, không hẳn là Mỹ, do họ không có cùng phân khúc thị trường với Nga, mà là những quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ. Những nước này có thể ký hợp đồng với những quốc gia trước đây từng là khách hàng của Nga, ví dụ như những gì Ấn Độ đang thực hiện ở Armenia.
Trung Quốc cũng có những thiết bị rõ ràng có giá không cao như với thiết bị của Mỹ, Pháp hoặc các nước khác, chúng rẻ hơn và dễ tiếp cận hơn đối với các nước phía Nam, các nước Châu Phi, các nước Trung Đông hoặc thậm chí cả các nước châu Á, những nước mà trước đây từng trang bị vũ khí của Nga và giờ có thể mua vũ khí từ Trung Quốc.
Ngược lại, Pháp chẳng hạn, thật thú vị là Pháp cũng tận dụng được hiệu ứng này để bán máy bay chiến đấu. Vì vậy, ở những nước mà trước đây máy bay Su-35 Nga có thế cạnh tranh, Pháp rất có thể sẽ đạt nhiều hợp đồng hơn với máy bay Rafale. Ai sẽ giành được hợp đồng? Quả thật, có sự cạnh tranh giữa các công ty quốc phòng của Nga và Pháp. Phía Pháp thực sự có thể tiến những con tốt của mình nếu tính đến nhu cầu của Nga trên chiến trường và các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga hiện nay.
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà nghiên cứu Igor Delanoe, phó giám đốc Đài Quan sát Pháp – Nga.
Ngày 05/09/2024, tổng thống Nga cho biết ông sẵn sàng đàm phán hòa bình với Ukraina. Ba ngày sau, ngày 08/09, thủ tướng Đức Olaf Scholz, trong cuộc phỏng vấn dành cho kênh truyền hình ZDF, kêu gọi gia tăng các nỗ lực ngoại giao để sớm chấm dứt xung đột. Phải chăng thời điểm cho đàm phán hòa bình đã đến ?
Thất bại thỏa thuận Istanbul : Lỗi ở phương Tây ?Tại một diễn đàn kinh tế với sự hiện diện của hai quan chức cao cấp Malaysia và Trung Quốc, tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố để ngõ cánh cửa đàm phán với Ukraina « dựa trên các tài liệu đã được nhất trí và thực sự được ký tắt tại Istanbul », Thổ Nhĩ Kỳ, hồi mùa xuân 2022, vài tháng sau khi Nga phát động « chiến dịch quân sự đặc biệt » xâm lược Ukraina.
Vào thời điểm đó, Kiev và Matxcơva được cho là đã gần đạt được một thỏa thuận, theo đó, Ukraina đồng ý cắt giảm quy mô quân đội, từ bỏ ý định tham gia Liên minh Bắc Đại Tây Dương – NATO nhưng được tự do theo đuổi tư cách ứng viên gia nhập Liên Hiệp Châu Âu.
Cuộc đàm phán này cuối cùng đã thất bại mà theo cáo buộc của nguyên thủ Nga tại diễn đàn kinh tế, là do phương Tây thúc ép Ukraina bác bỏ thỏa thuận. Tổng thống Putin nêu đích danh thủ tướng Anh lúc đó là Boris Johnson, « đã đến Kiev và đưa ra chỉ thị cho Ukraina phải chiến đấu đến người lính cuối cùng. Và đó là những gì đang diễn ra với mục tiêu là có được thất bại chiến lược của Nga ». Những cáo buộc cho đến giờ Ukraina vẫn phủ nhận.
Ngoài ra, tổng thống Nga còn gợi ý rằng ba nước Brazil, Ấn Độ, và Trung Quốc có thể làm trung gian cho các cuộc đàm phán mới để chấm dứt chiến tranh. Tuyên bố này của chủ nhân điện Kremlin làm dấy lên nhiều nghi vấn trong giới quan sát : Liệu mong muốn của ông Putin đàm phán chấm dứt chiến tranh có chân thành hay không ?
Điều kiện ngặt nghèoĐây không phải là lần đầu tiên ông Vladimir Putin đề cập đến việc đàm phán với Ukraina. Vào cuối tháng 5/2024, trong chuyến thăm Belarus, tổng thống Nga để ngỏ khả năng đàm phán, nhưng phải dựa trên « tình hình thực tế » và trên cơ sở những điểm đã thống nhất trong những tuần đầu tiên của cuộc chiến, « chứ không phải trên cơ sở những gì một bên muốn », hàm ý nhắc đến bản kế hoạch hòa bình 10 điểm do tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky đề xuất.
Sau đó, vào ngày 14/06/2024, phát biểu tại bộ Ngoại Giao Nga, tổng thống Vladimir Putin một lần nữa nhắc lại, Matxcơva sẵn sàng đàm phán một lệnh ngưng bắn nhưng với các điều kiện : Kiev phải từ bỏ ý định gia nhập NATO và rút hết quân ra khỏi bốn vùng đã bị sáp nhập vào Nga là Donetsk, Luhansk, Kherson và Zaporijia.
Đó là những điều kiện mà bà Christine Dugoin-Clément, chuyên gia phân tích địa chính trị, nhà nghiên cứu Viện Rủi ro, đại học Paris-Sorbonne, trên đài RFI Pháp ngữ (09/09/2024) đánh giá là hoàn toàn bất lợi cho Ukraina.
« Những gì mà người ta thường nghe, thường được đề cập đến là một công thức kiểu Istanbul mà ở đó, Nga có thể dễ dàng nói rằng họ luôn mở rộng cửa cho các cuộc đàm phán, giống như một sự đầu hàng với những điều khoản được cho là dễ chấp nhận. Trong khi những gì Ukraina đề nghị thì bị xem là không hợp lý và do vậy không thể là đối tượng cho cuộc thương lượng hay một cuộc họp từ phía Nga như ông Dmitri Peskov ( phát ngôn viên điện Kremlin ) đã nhiều lần nói đến. »
Nga cũng không phải là bên duy nhất đề cập đến việc nối lại các cuộc thương lượng. Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky trả lời giới truyền thông trong nước hồi trung tuần tháng 7 từng tuyên bố rằng « phái đoàn Nga có thể tham gia hội nghị hòa bình lần hai ».
Ông Zelensky còn đề xuất dự án vì một « nền hòa bình công bằng », khi giữ lại ba điểm trong thông cáo cuối cùng của hội nghị hòa bình ở Thụy Sĩ : Trả tự do cho các tù nhân, tự do lưu thông ở Hắc Hải và an ninh năng lượng. Mong muốn này của ông một lần nữa được khẳng định trong cuộc phỏng vấn dành riêng cho truyền thông Pháp vào đầu tháng Tám.
Xin nhắc lại là, trong hội nghị hòa bình thứ nhất do Ukraina tổ chức ở Thụy Sĩ vào trung tuần tháng Sáu, Nga không được mời dự, và Trung Quốc đã vắng mặt.
Tuy nhiên, những động thái này của nguyên thủ Nga, của tổng thống Ukraina và gần đây nhất là của thủ tướng Đức Olaf Scholz dường như phần nào phản ảnh tình hình khó khăn trên chiến trường của quân đội Ukraina.
Đại tá Peer de Jong, phó chủ tịch Viện Themiis, trả lời nhà báo Vincent Roux, trong chuyên mục Quan Điểm của báo Le Figaro, ghi nhận tình trạng mệt mỏi chung từ nhiều tháng qua giữa các bên tham chiến.
« Tôi nghĩ rằng không chỉ Nga, Ukraina mệt mỏi mà cả phía châu Âu nữa, bởi vì nước Đức, ngoài việc thúc đẩy Ukraina đàm phán với Nga, trong tuần rồi họ còn thông báo sẽ giảm một nửa nguồn đóng góp tài chính cho Ukraina. Rõ ràng có nhiều thông tin được đưa ra buộc các bên chủ chốt, đặc biệt là tổng thống Zelensky, phải nhận thấy thực tế là cần phải bắt đầu thảo luận. Do vậy, sự mệt mỏi của châu Âu, Nga, và Ukraina thực sự là một yếu tố tiềm năng cho đàm phán. »
Nhưng phải chăng Ukraina đang lặp sai lầm từ cuộc phản công mùa xuân tháng 6/2023, khiến nhiều lữ đoàn đã bị tiêu diệt, khi tấn công vào vùng Kursk trên lãnh thổ Nga từ hôm 06/08/2024 ? Trang Responsible Statecraft, thuộc Viện Quincy, một cơ quan tư vấn độc lập tại Mỹ, nhận định chiến dịch này của Ukraina đã thất bại:
« Ukraina không chiếm được một trung tâm dân cư hay nút giao thông quan trọng nào của Nga. Sự việc có thể làm ông Putin bối rối nhưng không làm lay chuyển được quyền lực của ông. Chúng có thể nâng cao tinh thần người dân Ukraina nói chung, nhưng theo tường thuật của phương Tây từ vùng miền đông, chiến dịch này không làm cho tinh thần quân đội Ukraina ở đó thêm hào hứng. »
… và chiếc bẫy « Kursk »Mục tiêu chuyển hướng lực lượng địch, chủ yếu từ Pokrovks và Kurakhove, đã bất thành. Để thực hiện cuộc tấn công, Ukraina đã điều động từ ba đến bốn lữ đoàn – những đơn vị tinh nhuệ nhất – lên phía bắc, để lại ở chiến trường miền đông là những binh sĩ mới nhập ngũ, thiếu kinh nghiệm và thiếu cả động lực.
Cũng trên chương trình Point de Vue của báo Le Figaro, đại tá Peer De Jong nói đến chiếc bẫy cho quân Ukraina:.
« Nếu như họ không ở lại Nga, chỉ cần ở lại 10 ngày, điều mà người ta gọi là đánh nhanh, rút gọn, họ phá hủy mục tiêu và họ lui quân, thì đây là một chiến dịch tốt. Ở đây, họ tái hiện mô hình trận Bakhmuth, họ đào hào và tự chôn mình. Trên thực tế, đây là một chiến dịch trên bộ, nhưng vấn đề ở đây là Nga đang thúc đánh ở miền trung, 4 hay 5 lữ đoàn Ukraina hiện đang ở phía bắc trong khi miền trung thì thiếu quân.
Điều này củng cố ý tưởng về một cuộc đàm phán bởi vì trên thực tế, điều chúng ta sẽ thấy là Nga làm ra vẻ đang đẩy mạnh tiến quân vào khu vực trung tâm Donetsk, họ đang tiến về phía tây nhưng thực tế không hẳn là vậy. Họ không thực hiện một nỗ lực lớn nào cả, rồi họ lặng lẽ rút đi, họ chỉ tiến hành một dạng hoạt động phòng thủ, họ để cho Ukraina đóng quân ở đó, có nghĩa là hiện nay, chiến dịch Kursk đã khiến hai, ba đến bốn tiểu đoàn bị kẹt lại ở phía bắc.
(…) Nga rất tinh khôn, điều này mang đến cho ông Zelensky cơ hội để đàm phán một số điểm để đổi lấy vùng Donbass, vùng này sẽ bị bỏ rơi và ông Zelensky sẽ bỏ rơi Donbass. Ông Zelensky sẽ nói rằng, nghe đây, hãy để tôi rút đi, tôi sẽ để lại cho quý vị phần đất này. Một hình thức trao đổi lãnh thổ. »
Nhìn từ bản đồ, những vùng lãnh thổ mà Nga chiếm đóng giờ chạy dọc theo sườn đông của Ukraina kéo dài đến tận Biển Đen cùng với bán đảo Crimée. Matxcơva cũng đã thành công phần nào trong việc tạo được một sự liên tục giữa lãnh thổ Nga và các vùng chiếm đóng.
Vậy phải chăng Nga đã đạt được mục tiêu chiến tranh ? Hiện tại việc ngăn chặn mọi cơ hội Ukraina gia nhập NATO vẫn chưa đạt được. Nhưng với sự trợ giúp quân sự từ các đồng minh thân thiết là Iran, Bắc Triều Tiên và nhất là Trung Quốc, quân đội Nga có thể gia tăng các chiến dịch oanh kích vào các mục tiêu dân sự, « khủng bố » tinh thần người dân và gây thêm nhiều bất lợi cho phía Ukraina vào lúc nguồn viện trợ từ phương Tây cũng bắt đầu suy giảm do những khó khăn về kinh tế, chính trị tại nhiều nước đồng minh của Kiev.
Chiến tranh cũng có nguy cơ lan rộng vào lúc Mỹ và một số nước đồng minh xem xét cho phép Ukraina sử dụng vũ khí tầm xa do họ cung cấp để tấn công các mục tiêu quân sự nằm sâu trong lãnh thổ Nga.
Nhưng khi cho rằng các bên có thể « bắt đầu nghĩ đến đàm phán », thì đàm phán có thể nhiều năm nữa mới bắt đầu và kéo dài nhiều năm, mà bài học chiến tranh Việt Nam là một ví dụ điển hình. Đại tá Peer De Jong nhắc lại, Hoa Kỳ đã mất gần như 7-8 năm trước khi thoát được khỏi « tổ ong vò vẽ » Việt Nam, bởi vì, « đàm phán kéo dài có lợi cho bên này và bên kia, và trong trường hợp này là có lợi cho Trung Quốc và Bắc Việt ».
Chiến tranh khi nào kết thúc ? Câu hỏi này hiện khó thể trả lời. Một điều chắc chắn, như tựa đề một bài viết trên Foreign Affairs, đó là « Putin sẽ không bao giờ từ bỏ Ukraina » chừng nào cảm giác bất an cho an ninh của ông và chế độ Nga hiện nay chưa được xóa tan. Do vậy, phương Tây cũng không thể thay đổi được nước cờ của ông Putin, và họ chỉ có thể trông chờ ông ấy ra đi mà thôi !
Nếu như các nước đồng minh của Mỹ bày tỏ quan ngại trước nguy cơ Donald Trump trở lại Nhà Trắng và nếu như Bắc Kinh vẫn chưa có những bình luận chính thức về cuộc đọ sức Trump - Harris, thì giới chiến lược gia tại Trung Quốc không mấy ảo tưởng về một sự thay đổi đáng kể trong chính sách của Washington đối với Bắc Kinh.
Trung Quốc thích chính quyền Harris hay là một chính quyền Trump thứ hai ? Hay nói rộng hơn, Bắc Kinh thích đảng Dân Chủ hay đảng Cộng Hòa ? Trang Foreign Affairs ngày 01/08/2024 nhắc lại năm 1972, khi tiếp tổng thống Richard Nixon, chủ tịch Mao Trạch Đông đã từng nói rằng ông thích cánh hữu ở Mỹ và các nước phương Tây khác.
Mặc dù Mao không giải thích vì sao, nhưng theo nhận định giới quan sát, trong nhãn quan Bắc Kinh thời đó, các nhà lãnh đạo phương Tây thiên hữu chú ý nhiều đến lợi ích kinh tế và an ninh quốc gia, trong khi chính sách của các chính trị gia cánh tả có xu hướng dựa nhiều hơn vào ý thức hệ và các giá trị chính trị.
Dân Chủ hay Cộng Hòa, bên nào có đóng góp to lớn cho quan hệ Mỹ - Trung ? Thật khó mà đánh giá. Kể từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949, qua bảy đời tổng thống Dân Chủ và bảy đời tổng thống Cộng Hòa, quan hệ Mỹ - Trung đã có những đột phá nhưng không ít lần gặp khủng hoảng.
Nhưng bất kể ai sẽ là chủ nhân Nhà Trắng sắp tới, Kamala Harris hay Donald Trump, đối với các nhà quan sát Trung Quốc, thay vì đưa ra các giải pháp thay thế cho đất nước và thế giới, cả hai đảng lớn ở Mỹ hiện nay đều có chung một cách tiếp cận đối với Trung Quốc, xuất hiện trong tám năm gần đây và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các mối quan ngại chính trị trong nước.
Cùng mục tiêu, khác chiến thuậtDonald Trump với câu thần chú « Nước Mỹ trên hết », nhằm đáp ứng mối quan tâm của cử tri về toàn cầu hóa và nhập cư, đã gia tăng các rào cản thương mại, hạn chế nhập cư và giới hạn sự tham gia của Mỹ trong các định chế quốc tế, để ưu tiên cho lợi ích kinh tế và an ninh quốc gia của Mỹ. Kết quả là Trung Quốc từ một đối tác thương mại bị xem là một « thế lực xét lại », là đối thủ cạnh tranh chiến lược và thậm chí là một mối đe dọa. Quan hệ Mỹ - Trung từ đó xuống cấp trầm trọng, nhất là từ sau đại dịch Covid-19.
Nhưng cách tiếp cận này của ông Trump cũng đồng nghĩa với việc Washington mất dần uy tín và các đòn bẩy trong việc phối hợp với các quốc gia khác về chính sách riêng của Mỹ đối với Trung Quốc, dẫn đến việc chính quyền Trump đã không xây dựng và không dẫn đầu một mặt trận đa phương mạnh mẽ chống Trung Quốc.
Chính quyền Biden, với câu nói « chính sách đối ngoại dành cho tầng lớp trung lưu », cũng cân nhắc những chính sách đối nội tương tự của Donald Trump, nhưng có thêm chiều hướng quốc tế khi cân bằng lại các chính sách công nghiệp trong nước và các quy tắc kinh tế quốc tế để thúc đẩy những lợi ích quốc gia. Nghĩa là ông Biden ngoài việc siết chặt thêm một số biện pháp đưa ra từ thời Donald Trump, còn có các lập trường đi xa hơn trong một số vấn đề.
Tuy nhiên, dù cạnh tranh quyết liệt với Trung Quốc nhưng Joe Biden vẫn duy trì các kênh liên lạc cấp cao thường xuyên và tìm kiếm các lĩnh vực hợp tác. Nếu như ông Joe Biden trong suốt nhiệm kỳ tổng thống chưa bao giờ đặt chân đến Bắc Kinh như người tiền nhiệm, thì nguyên thủ Mỹ cũng đã hai lần gặp trực tiếp đồng nhiệm Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bali, Indonesia tháng 11/2022 và tại San Francisco, Mỹ tháng 11/2023.
Đôi bên cam kết duy trì mối quan hệ song phương ổn định và lành mạnh. Mong muốn này còn thể hiện rõ qua một loạt các cuộc gặp bí mật giữa Jake Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia của Nhà Trắng với ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, mà cuộc gặp mới nhất là hồi cuối tháng 8/2024 ở Bắc Kinh.
Cuộc gặp này diễn ra vào lúc cuộc bầu cử Mỹ có những biến chuyển quan trọng : tổng thống Mỹ Joe Biden bất ngờ rút khỏi cuộc đua và thông báo ủng hộ phó tổng thống Kamala Harris, một nhân vật cho đến lúc này Bắc Kinh vẫn chưa hiểu rõ, theo như nhận định của ông Trầm Đinh Lập, giáo sư danh dự ngành Quan hệ Quốc tế đại học Phục Đán, Thượng Hải, trên kênh truyền hình Bloomberg ngày 19/08/2024.
Trung Quốc : Đối thủ lớn của Mỹ trong thập kỷ tớiNhìn chung, Trung Quốc chiếm một vai trò ngày càng lớn trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong những năm gần đây. Bất chấp các cuộc xung đột Nga – Ukraina, Israel - Hamas ở dải Gaza, Trung Quốc vẫn là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Và dường như có một sự đồng thuận lưỡng đảng ở Washington xem Trung Quốc là một đối thủ lớn.
Câu hỏi đặt ra : Chủ nhân tương lai của Nhà Trắng sẽ có chính sách ra sao với Trung Quốc ? Hiện tại Bắc Kinh vẫn chưa có phản ứng gì về việc ông Biden rút khỏi cuộc đua. Phát biểu chính thức là Trung Quốc « không bình luận chuyện nội bộ » nước Mỹ. Tuy nhiên, các chiến lược gia Trung Quốc không mấy hy vọng có những thay đổi đường hướng trong chính sách của Washington đối với Bắc Kinh trong thập kỷ tới.
Nếu tái đắc cử, ông Trump gần như chắc chắn tiếp tục theo đuổi chính sách thương mại cứng rắn hơn với Trung Quốc khi đề xuất áp thuế lên đến 60% đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, cũng như là hủy bỏ « Quy chế Thương mại Bình thường Vĩnh viễn » dành cho Bắc Kinh từ năm 2000, cho phép Trung Quốc tiếp cận thị trường Mỹ một cách dễ dàng. Đây có thể sẽ là một ác mộng lớn cho chính quyền ông Tập Cận Bình vào lúc nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn.
Ông kêu gọi biến khái niệm « sân nhỏ, rào cao » của chính quyền Biden – chỉ nhằm bảo vệ các ngành công nghệ mũi nhọn, mới nổi, qua các biện pháp an ninh mạnh mẽ cho phép tách biệt nhiều ngành công nghệ khỏi Trung Quốc – thành học thuyết « sân lớn, rào cao ». Nhưng với sở thích « trọng thương », nhà tỷ phú Mỹ cũng có thể theo đuổi các thỏa thuận song phương với Bắc Kinh về hàng tiêu dùng, năng lượng và công nghệ.
Donald Trump có thể sử dụng Đài Loan như một con bài mặc cả để đạt các thỏa thuận thương mại. Một lần nữa, sở thích ngoại giao song phương hơn là đa phương có thể hạn chế ông Trump huy động các đồng minh và đối tác để đối phó Trung Quốc.
Ngược lại, một chính quyền Harris có thể giúp giữ được phần lớn cách tiếp cận của ông Biden, tăng cường cạnh tranh chiến lược với Bắc Kinh và củng cố nỗ lực xây dựng liên minh với các nước phương Tây và châu Á mà ông Biden gầy dựng từ đầu nhiệm kỳ để đối trọng với Trung Quốc. So với chính sách tùy tiện, ngẫu hứng, bất thường của Trump, quả thật những chiến lược này có thể sẽ dễ dự đoán hơn cho Trung Quốc.
Harris hay Trump: Trung Quốc đã chọn phe ?Trở lại với câu hỏi, Trung Quốc thích làm việc với chính quyền nào, Kamala Harris hay là Donald Trump ? Ông Trầm Đinh Lập, giáo sư đại học Phục Đán, trả lời Bloomberg, đưa ra một số nhận xét nhưng không quên nhấn mạnh đây chỉ là quan điểm cá nhân, chứ không phải là lập trường của Bắc Kinh:
« Tất cả các nhà lãnh đạo Mỹ đều muốn làm cho nước Mỹ thịnh vượng và an ninh hơn. Nhưng nếu lấy một phạm trù khác làm ví dụ, điều gọi là nền dân chủ thì ông Trump dường như ít quan tâm hơn. Đây là quan điểm cá nhân tôi chứ không hẳn là của toàn thể người Trung Quốc. Ông ấy nghĩ rằng Hồng Kông là vấn đề chủ quyền của Trung Quốc, vậy tại sao Hoa Kỳ lại phải quan tâm nhiều đến điều đó ? Tôi nghĩ Biden và bà Harris sẽ giải quyết vấn đề này theo một cách khác.
Rồi Trump có thể nện Trung Quốc nếu nước này không làm cho ông ấy đạt được mục tiêu đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại, nếu Trung Quốc không mua nhiều hàng Mỹ hơn trong ngắn hạn, ông ấy sẽ làm cho Trung Quốc bị mất thể diện… Còn đảng Dân chủ thì sẽ cố gắng cân bằng trong khi tìm cách để Trung Quốc mua nhiều hơn nhưng cũng nỗ lực giảm một số thuế quan mà ông Trump áp đặt nhưng đã bất thành. Theo tôi, ông ấy thiếu khả năng lãnh đạo ».
Trung Quốc sẽ có cách xử lý ra sao nếu Trump tái đắc cử hay bà Kamala Harris lên cầm quyền ? Về điểm này, ông Trầm Đinh Lập giải thích:
« Trong 10 năm qua, Trung Quốc cố gắng xây dựng quan hệ đối tác thân thiện với Mỹ. Tôi cho rằng điều này vẫn nằm trong tư duy của giới lãnh đạo Bắc Kinh theo như những gì tôi biết. Chúng tôi muốn hợp tác với Mỹ, muốn có quan hệ đối tác lớn hơn trong nhiều vấn đề như đối thoại quân sự, trao đổi văn hóa, ngoại giao gấu trúc và chống ma túy cũng như là quan hệ đối tác về biến đổi khí hậu.
Nhưng chúng tôi đang vấp phải nhiều khó khăn. Và Trung Quốc đổ lỗi cho Hoa Kỳ. Nhưng theo quan điểm cá nhân của tôi, Trung Quốc cũng đang rút ra nhiều bài học từ hậu quả cuộc cạnh tranh như vậy. Trung Quốc hiện đang cố gắng điều chỉnh lập trường của mình. Vì vậy, nếu ông Trump đắc cử nhiệm kỳ hai, tôi nghĩ rằng Trung Quốc sẽ có lập trường thông minh hơn, có nguyên tắc hơn trong việc đối phó với nhiệm kỳ hai của ông Trump. Tôi cho rằng Trung Quốc sẽ đạt được kết quả tốt hơn so với nhiệm kỳ đầu tiên của ông ! »
Những nhận xét này của ông Trầm Đinh Lập, tuy chỉ là quan điểm cá nhân, có lẽ cũng phần nào phản ảnh chọn lựa của giới tinh hoa Bắc Kinh. Tuy nhiên, các tác giả bài viết trên Foreign Affairs cho rằng, theo quan điểm của Trung Quốc, các chính sách về Trung Quốc của Mỹ, chính quyền Trump nhiệm kỳ hai, hay là chính phủ Kamala Harris dường như đều sẽ nhất quán về mặt chiến lược. Hai ứng viên này, với tư cách là tổng thống, đều sẽ đặt ra những thách thức và bất lợi cho Trung Quốc, nhưng đều không muốn xảy ra xung đột quân sự lớn, hoặc cắt đứt mọi liên hệ kinh tế và xã hội. Do vậy, Bắc Kinh khó có thể có một ưa thích rõ ràng hơn.
Hơn nữa, Trung Quốc có những động lực mạnh để duy trì mối quan hệ ổn định với Mỹ, tránh đối đầu hay gián đoạn. Vào lúc cuộc đua giành chức tổng thống Hoa Kỳ 2024 đang nóng bỏng, giới chức Bắc Kinh đã có những nhận xét thận trọng và dè dặt về vấn đề này khi chỉ mô tả cuộc bầu cử là « chuyện nội bộ của Mỹ ».
Dù vậy, Bắc Kinh cũng cảnh báo, chính phủ Trung Quốc « kiên quyết phản đối bất kỳ ai đưa vấn đề Trung Quốc và gây tổn hại đến lợi ích của nước này vì mục đích bầu cử », đồng thời kêu gọi hai đảng ở Hoa Kỳ « không nên phát tán thông tin sai lệch bôi nhọ Trung Quốc (…) ». Điều đó báo hiệu rằng Bắc Kinh có thể cảm thấy buộc phải phản ứng, ít nhất trong các phát biểu, nếu bị tấn công trong các chiến dịch tranh cử tại Mỹ!
The podcast currently has 274 episodes available.
37 Listeners
4 Listeners
6 Listeners
218 Listeners
15 Listeners
2 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
21 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners