Góc vườn âm nhạc của RFI
... moreShare Tạp chí âm nhạc
Share to email
Share to Facebook
Share to X
Laufey, ngôi sao nhạc jazz của băng đảo Iceland nổi tiếng nhanh chóng nhờ Tiktok. Bản hit From the start (Điểm khởi đầu) lôi cuốn giới trẻ nhờ chất liệu jazz-pop hiện đại. Năm 2024, Laufey đoạt giải Grammy Album pop truyền thống xuất sắc nhất cho album Bewitched (Phép thuật).
Từ hòn đảo Iceland vươn ra thế giớp pop toàn cầuSinh ra và lớn lên tại Iceland, hòn đảo có khí hậu khắc nghiệt nhất châu Âu, Laufey thu hút lượng lớn fan khắp toàn cầu nhờ mạng xã hội. Ca sỹ sinh năm 2000 có tới 2,8 triệu lượt theo dõi trên Tiktok và 1,4 triệu người theo dõi trên Instagram. Laufey chia sẻ : “Tôi lớn lên tại Iceland, một hòn đảo xa xôi. Tôi đến trường Berklee, Mỹ để được đào tạo bài bản về nhạc. Mặc dù Tiktok không phải là cách lãng mạn nhất để khuyếch trương âm nhạc, nhưng không có cách trực tiếp nào kết nối tôi vớinền công nghiệp âm nhạc. Mạng xã hội giúp cho tôi có cơ hội được cả thế giới biết đến. Tôi biết ơn điều đó”.
Laufey xuất thân từ gia đình giàu truyền thống âm nhạc, mẹ cô là nhạc công violin cổ điển gốc Trung Quốc và ông bà ngoại cô đều là nhạc công. Do vậy, nhạc cổ điển là nền tảng âm nhạc chính của gia đình và thú vị hơn, jazz là thể loại ưa thích của cha cô, người gốc Iceland. Môi trường âm nhạc nuôi dưỡng tâm hồn và tài năng cô từ rất sớm. Khi 2 tuổi, cô được tặng cây violon, học piano năm 4 tuổi và học chơi cello từ rất sớm.
Cha mẹ cô rất khuyến khích Laufey theo đuổi con đường âm nhạc vì họ dịch chuyển thường xuyên giữa Washington (Mỹ) và London (Anh Quốc). Họ luôn tin tưởng con gái mình trở thành ca sỹ nổi tiếng. Đặc biệt, mẹ cô truyền cảm hứng cho Laufey theo đuổi giấc mơ âm nhạc. Năm 2014, cô tham gia chương trình phát hiện tài năng Ísland got talent và lọt vào bán kết. Năm 15 tuổi, cô đã chơi solo cello cho dàn nhạc giao hưởng Iceland. Cô theo học trường nhạc danh tiếng Berklee College of Music và tốt nghiệp năm 2021. Trước đó, năm 2020, cô tung ra đĩa đơn đầu tay Street by street và album ngắn (EP) - Typical of me (Điển hình của tôi) nhận được lời khen ngợi của giới phê bình như tạp chí âm nhạc uy tín Rolling Stone.
Định hình con đường âm nhạcKhi còn là cô bé 14 tuổi, giọng hát Laufey được đánh giá già giặn, màu hơi tối như các giọng ca kinh điển thế hệ trước. Cô thấy mình khác biệt với bạn bè cùng trang lứa do pha trộn hai dòng máu Iceland và Trung Quốc. Với nền tảng nhạc cổ điển sẵn có, Laufey luôn đắn đo theo đuổi dòng nhạc pha trộn giữa pop và jazz. Trường nhạc Berklee đã giúp cô thay đổi tư duy, quên đi lối mòn cũ và chuyển hướng theo sở thích cá nhân. Nữ ca sỹ đã khám phá ra tiềm năng, mức độ phù hợp với jazz-pop.
Cô có bước đột phá trong sự nghiệp với album đầu tay năm 2022 - Everything I know about love (Tất cả những điều em biết về tình yêu). Album đầu tay là bệ phóng giúp cô có lượng fan hâm mộ đông đảo nhờ ca từ pop hiện đại kết hợp giọng jazz cổ điển gợi nhớ tượng đài như Ella Fitzgerald và Chet Baker. Laufey học tập hình mẫu ca sỹ - nhạc sỹ toàn năng, Taylor Swift hay Carole King là nguồn cảm hứng cho sự nghiệp. “Họ là những nữ nghệ sỹ có thể kể chuyện rất tốt bằng âm nhạc.”
Thay vì chờ đợi tìm cảm hứng đánh thức giác quan sáng tác, Laufey rèn luyện sống kỷ luật để sáng tác nhạc thường xuyên. Cô cho rằng nhạc sỹ có thể tự rèn luyện để thấy cảm hứng liên tục, đó là công cụ vĩ đại nhất trở thành nhạc sỹ chuyên nghiệp. Sau thế hệ Bjork thập niên 1980-1990, Laufey được coi niềm tự hào của băng đảo nhờ sức lan tỏa mãnh liệt. Ở góc độ khác, cô luôn tự hào dòng máu châu Á và kết nối với cộng đồng châu Á : “Tôi có rất nhiều fan châu Á và rõ ràng, trong văn hóa pop đại chúng có khoảng trống rất lớn cho những đứa trẻ châu Á như tôi. Tôi luôn nói rằng trở thành ca sỹ-nhạc sỹ là điều tôi muốn và cần phải như vậy”.
Album vàng năm 2024 -Phép thuật (Bewitched)Nhờ đòn bẩy của album đầu tay, album phòng thu thứ hai của Laufey làm nên chuyện lớn tại giải Grammy 2024. Thế giới tình yêu mộng mơ, hy vọng bất tận trong album Bewitched đoạt giải album Pop truyền thống xuất sắc nhất. Điều này chứng tỏ nỗ lực phi thường của cô gái trẻ tài năng 24 tuổi xứ băng đảo. Âm nhạc trong album là sự pha trộn hoàn hảo giữa jazz, pop và nhạc cổ điển. Nội dung album đề cập tâm trạng đang yêu, phải lòng ai đó của cô gái mang dòng máu lai.
Ca khúc mở đầu Dreamer (Kẻ mộng mơ) là bản nhạc có giai điệu tươi sáng “Không chàng trai nào đủ thông minh/ Để thử và làm tan vỡ trái tim bằng sứ của tôi.” Tiếp sau đó, cô chiêu đãi một loạt ca khúc ở nhiều trạng trái khi yêu khác nhau từ Must be love, Serendipity. Đặc biệt trong bài Lovesick (Tương tư), Laufey ko ngần ngại thổ lộ mặt tối của trải nghiệm đang yêu. Trái tim tan vỡ được thể hiện theo cách mới mẻ trong nhịp điệu piano, guitar rất cổ điển. Thông qua chất liệu pop, cô tô vẽ mãnh liệt tâm trạng đang yêu và nhớ nhung.
Đối với Laufey, âm nhạc không bao giờ từ bỏ mọi giác quan khám phá bất kể tình huống đau khổ mức nào. Kỹ thuật thanh nhạc lẫn kiểm soát làn hơi gợi nhớ nữ minh tinh màn bạc Judy Garland (trong phim A star is born - Một ngôi sao ra đời). Ca khúc Letter to My 13 Year Old Self (Lá thư gửi tôi 13 tuổi) là bản nhạc đầy hồi ức thanh xuân mà Laufey ưa thích nhất trong album.
From the start (Từ điểm xuất phát) là bản hit màu sắc tươi sáng, có sức lan tỏa mạnh mẽ trên mạng xã hội nhờ giai điệu bắt tai, lịch lãm. While you were sleeping (Khi anh đang ngủ) quay về pop ballad ngọt ngào như bộ phim lãng mạn tình cảm cùng tên. Chất giọng nhẹ nhàng của Laufey phù hợp với nhiều thể loại. Kết hợp với kỹ năng sáng tác, cô chiêu đãi khán giả nhiều món ăn tinh thần tinh tế. “Sáng tác nhạc như ghi chép lại nhật ký cuộc đời tôi. Tất cả những ca khúc đều là trải nghiệm cá nhân, có đôi chút phóng đại. Nếu tôi cảm thấy buồn bã, sáng tác một ca khúc như miếng băng bó vết thương, hỗ trợ tinh thần.”
Đáng chú ý, ca khúc chủ đề - Bewitched - có thể coi là thỏi nam châm xuất sắc nhất album. Bài hát cô đọng nhất gu âm nhạc của Laufey, nhạc cổ điển và jazz, giọng hát mượt như nhung tán tỉnh giác quan của khán giả. Rõ ràng Laufey chịu ảnh hưởng khá lớn của Taylor Swift khi muốn thoát khỏi một khuôn mẫu, không phải jazz, ko phải nhạc cổ điển.
Ở một góc độ khác, Laufey lại đưa người nghe trở về thập niên 1930-1940 với bản nhạc jazz hơi hướng cổ điển như Ella Fitzgerald hay Billie Holiday trong It happended to me (Điều xảy ra với em). Tương tự, Misty (Mịt mù) cũng là bản nhạc kinh điển do nghệ sỹ piano Errol Garner sáng tác nhạc, lời do Johny Burke viết. Không phải lần đầu Laufey hát lại ca khúc này theo chuẩn mực jazz cổ điển, ngân nga và phiêu linh điển hình. Nữ ca sỹ rất tâm đắc với bản nhạc nên đã ghi âm như bản gốc với piano, bass và trống.
Album Bewitched (Phép thuật) giúp Laufey thực hiện ước mơ trở thành người kể chuyện thông minh qua âm nhạc. Quan trọng hơn, cô giúp thế hệ trẻ, Gen Z tiệm cận gần với phong cách jazz hiện đại pha lẫn nhạc cổ điển và pop.
(Theo Rolling stone, Pitchfork, Elle, Havard Crimson)
Trong làng nhạc Anh-Mỹ, Carole King người đã từng gợi hứng cho nhac pham "Oh Carol", là một trong những tác giả lẫy lừng nhất thế kỷ XX, với gần 120 ca khúc ăn khách trên thị trường quốc tế. Trong số những tác phẩm đầu đời, có giai điệu "Will You Love Me Tomorrow", đôi khi còn có tựa là "Will You Still Love Me Tomorrow", do Carole King đồng sáng tác cùng với chồng là tác giả Gerry Goffin.
Bản nhạc "Will You Still Love Me Tomorrow" được nhóm The Shirelles gồm 4 thành viên ghi âm và phát hành vào năm 1960. Đây là lần đầu tiên, một bài hát của một ban nhạc nữ da đen giành lấy vị trí quán quân trên bảng xếp hạng thị trường Hoa Kỳ, hạng tư tại vương quốc Anh, hạng 3 tại New Zealand. Phiên bản của nhóm The Shirelles từng được tạp chí Rolling Stone xếp vào hạng 126 trong số 500 bài hát hay nhất mọi thời đại, còn tạp chí Billboard xếp bài hát này ở hạng 3 trong số các ban nhạc nữ xuất sắc nhất.
được được được Kể từ đó, nó đã được thu âm bởi nhiều nghệ sĩ trong nhiều năm, bao gồm cả phiên bản năm 1971 của đồng tác gia Carole King.
Vào năm 1971, đồng tác giả bản nhạc Carole King cũng đã ghi âm một phiên bản "Will you still love me tomorrow" cho album phòng thu thứ hai của mình mang tựa đề ''Tapestry'', với phần hát bè của hai nghệ sĩ trứ danh là Joni Mitchell và James Taylor. Phiên bản của Carole King được thực hiện với nhịp điệu chậm hơn, mang âm hưởng của dòng nhạc folk rock, giúp cho album thứ nhì của Carole King thành công trên thị trường quốc tế. Trong vở nhạc kịch sáng tác cho Broadway vào năm 2013 mang tựa đề "Beautiful : The Carole King Musical", bài hát này được trình bày nhiều lần trên sân khấu, tựa như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt tác phẩm. Không có bài hát nào khác được biểu diễn thường xuyên như vậy trong vở nhạc kịch này.
Sau khi thành công trên thị trường quốc tế đầu những năm 1960, giai điệu "Will You Still Love Me Tomorrow" tiếp tục được ghi âm trong 11 ngôn ngữ khác nhau. Trong tiếng Pháp bài này có đến 4 lời : ''Reviendras-tu encore'' của ca sĩ Jocelyne, ''Longtemps, très longtemps'' của Martine Valdary, ''Demain tu peux changer'' của Dusty Spingfield và bản phóng tác gần sát nhất với bài hát gốc là ''M'aimeras tu demain?'' của Céline Lomez.
Còn trong tiếng Việt, "Will you still love me tomorrow" cũng có nhiều lời khác nhau : phiên bản đầu tiên được nhiều nguồn ghi chép là của tác giả Khúc Lan với tựa đề "Hãy nói mãi yêu''. Phiên bản lời Việt thứ nhì là của tác giả Nguyễn Thảo, do nghệ sĩ Lê Vũ ghi âm thành nhạc phẩm ''Mai này còn yêu nhau ?''. Tuy nhiên, không nên nhầm lẫn nguyên tác của Carole King với một bài hát khác có cùng tựa đề "Will you still love me tomorrow". Đây là một bản nhạc tiếng Hoa từng được tác giả Minh Tâm phóng tác sang tiếng Việt thành nhạc phẩm ''Tình yêu ngày mai''.
Về phía làng nhạc Anh-Mỹ, có rất nhiều nghệ sĩ tên tuổi từng ghi âm lại bản nhạc này. Trong số này, phải kể đến Frankie Valli và The Four Seasons (1968), Linda Ronstadt ghi âm một phiên bản cover trên album ''Silk Purse'' (1970), Laura Brannigan thu bài này cho album ''Self Control'' của mình (1984). Hầu như vào cùng một thời điểm (1983), nữ danh ca Dionne Warwick triệu mời nhóm The Shirelles cùng thu âm với mình một phiên bản mới của bài này cho album "How many times can we say goodbye". Phiên bản của nam danh ca Lobo cũng được ghi âm trên album ''Asian Moon'', phát hành vào năm 1994.
Về phần mình, Amy Winehouse cũng từng ghi âm vào năm 2004 một bản cover làm nhạc nền cho tập nhì của bộ phim ''Bridget Jones'' (The Edge of Reason), bài này được phát hành thành đĩa đơn chỉ vài tuần lễ sau khi Amy Winehouse qua đời vào năm 2011, ở tuổi 27. Gần đây hơn nữa, giọng ca thần tượng Taylor Swift đã hát bài này vào năm 2021 trong phần mở đầu buổi lễ vinh danh Carole King tại Đại sảnh Danh vọng ''Rock and Roll Hall of Fame''.
Trong số hàng trăm bản phóng tác, bài ghi âm thành công nhất theo đánh giá của chính tác giả Carole King vẫn là phiên bản ''Will you still love me tomorrow'' của ban nhạc huyền thoại Bee Gees. Ba thành viên trong nhóm đã ghi âm bài này cho tuyển tập tribute "Tapestry Revisited" đề cao tài nghệ sáng tác của Carole King. Sau khi thành công trong khá nhiều thể loại, từ nhạc pop, soul, funk cho đến disco, bản ghi âm này là dịp để cho
ban tam ca Bee Gees nối lại với sở trường hát nhạc folk của họ. Nhiều người chóng quên rằng trước khi chinh phục thị trường quốc tế, nhóm này chuyên hát nhạc skiffle, một thể loại nhạc folk (dân gian) của Anh thịnh hành vào những năm 1950. Có lẽ tác giả Carole King đã không sai khi cho
rằng lối hòa giọng của ba anh em nhà Gibb tạo ra một dấu ấn riêng trong cách hát không thể nhầm lẫn với ai khác. Lối hát thanh thoát nhẹ nhàng ấy tựa như lời hồi âm cho câu hỏi : Liệu mai này, chúng mình còn yêu nhau ? Không chỉ riêng ngày mai mà còn muôn đời sau, cho com tim thương hoài cho tâm hồn yêu mãi.
Mỗi lần nhắc tới giai điệu ''Can't help falling in Love'', giới yêu nhạc thường nghĩ đến lối diễn đạt tuyệt vời của ông hoàng nhạc rock Elvis Presley. Bài hát này từng được tạp chí Rolling Stone xếp vào danh sách 500 ca khúc hay nhất mọi thời đại và có lẽ cũng là một trong những giai điệu xưa nhất, do bản nhạc gốc từng được sáng tác cách đây hơn hai thế kỷ.
Được phát hành vào cuối năm 1961, nhạc phẩm ''Can't help falling in Love'' là ca khúc chủ đề của bộ phim ''Blue Hawaii'' của đạo diễn Norman Taurog, với Elvis Presley trong vai chính. Vào thời bấy giờ, nhóm sáng tác gồm ba nhạc sĩ Hugo Peretti, Luigi Creatore và George David Weiss được giao công việc thực hiện toàn bộ ca khúc và nhạc nền cho bộ phim ''Blue Hawaii''.
Ngoài những giai điệu truyền thống của đảo Hawaii, trong đó có bản dân ca "Aloha 'Oe" và bài "Hawaiian Wedding Song" trích từ một vở nhạc kịch năm 1926, nhóm sáng tác còn chuyển thể một số bản nhạc quen thuộc tại châu Âu, nhưng vẫn chưa được phổ biến rộng rãi ở Hoa Kỳ. Đầu tiên là nhạc phẩm "No More", phóng tác từ giai điệu cổ điển "La paloma" (1863) do nhà soạn nhạc cổ điển Tây Ban Nha Sebastián Iradier (1809-1865) sáng tác vào những năm cuối đời. Bản nhạc "La paloma" từng được đặt thêm lời Việt thành "Cánh buồm xa xưa".
Còn nhạc phẩm "Can't help falling in Love" thực ra là một bản phóng tác, vay mượn khá nhiều câu mở đầu và một phần điệp khúc từ một giai điệu cổ điển có từ thế kỷ XVIII. Trong tiếng Pháp, bản nhạc gốc mang tựa đề "Plaisir d'Amour" (Niềm vui tình yêu) do nhà soạn nhạc Jean-Paul-Égide Martini sáng tác vào năm 1784, tức cách đây vừa đúng 240 năm. Lúc đầu, bài hát này được đặt tên là "Première romance" (Mối tình đầu tiên) dựa theo một bài thơ tình nổi tiếng vào giữa thế kỷ XVIII dưới ngòi bút của Jean-Pierre Claris de Florian (1755–1794). Trong quyển hồi ký viết về những năm tháng thanh xuân "Mémoires de jeunesse", thi hào Alphonse de Lamartine nhớ lại rằng ông từng được nghe bài này lần đầu tiên thời ông còn trẻ nhân một chuyến đi nghỉ mát ở Aix les Bains (1816).
Nhiều thập niên sau, chính nhạc sĩ trứ danh Hector Berlioz gương mặt tiêu biểu của trường phái lãng mạn của Pháp, đã soạn lại giai điệu này cho một dàn nhạc giao hưởng vào năm 1859 (giữa thế kỷ XIX). Trung thành với lối hòa âm phối khí nhẹ nhàng mà tha thiết, giai điệu cực kỳ thịnh hành trong thời kỳ cổ điển này, lại đặt nền tảng cho hầu hết các bản phóng tác theo phong cách nhạc pop hoặc acoustic những năm sau này.
Ngoài ông hoàng nhạc rock Elvis Presley, còn có nhiều nghệ sĩ sĩ tên tuổi khác cũng từng chuyển thể giai điệu tiếng Pháp thành nhiều bài hát với tựa đề khác nhau. Đó là trường hợp của Anita Carter với nhạc phẩm "My love loves me", ban nhạc The Who với "Real good looking boy" và nhất là nhóm Aphrodite's Child với nhạc phẩm "I want to live"… Một khi có được nhiều bản phóng tác như vậy, "Plaisir d'Amour" (Niềm vui tình yêu) của Jean-Paul-Égide Martini trở nên trường tồn sống thọ nhờ bao luồng sinh khí mới.
Sau khi thành công tột bậc với giọng ca của Elvis Prersley, nhạc phẩm ''Can't help falling in Love'' có thêm hàng loạt phiên bản trong 15 thứ tiếng khác nhau, kể cả một phiên bản rất lạ ghi âm bằng tiếng La Tinh (tựa đề Non adamare non possum) và hai phiên bản tiếng Pháp : đầu tiên là nhạc phẩm "Chante encore, mon cœur" của André Claveau năm 1962 và kế đến là "Comment ne pas être amoureux de vous" của Dave năm 1978.
Trong tiếng Việt, ''Can't help falling in Love'' cũng gợi hứng cho các tác giả đặt nhiều lời khác nhau. Lời đầu tiên ''Gửi trao trái tim'' được nhiều nơi ghi chép là của tác giả Đức Huy do danh ca Ngọc Lan ghi âm. Lời thứ nhì ''Tình say'' là của tác giả Nguyễn Hoàng Đô qua phần diễn đạt của nữ ca sĩ Quỳnh Dao, lời thứ ba là của tác giả Ngu Yên qua phần ghi âm của nghệ sĩ Nguyễn Thảo. Lời thứ tư là của tác giả Nguyễn Xuân Hoàng. Lời thứ năm là của tác giả Minh Nguyệt do nam ca sĩ Triệu Vinh trình bày.
Hơn nửa thế kỷ sau ngày được phóng tác từ giai điệu tiếng Pháp, nhạc phẩm ''Can't help falling in love'' đã có đến cả ngàn bản ghi âm, nhưng dường như chưa có bản nào hay hơn bản ghi âm đầu tiên trong tiếng Anh của Elvis Presley. Phiên bản hòa âm gần đây nhất là của Mark Ronson, thực hiện cho bộ phim tiểu sử Elvis của đạo diễn Baz Luhrmann. Do nhịp điệu bài hát gốc quá chậm cho nên nhóm thu âm phải chỉnh sửa nhiều lần sao cho vừa với làn hơi thiên phú của "ông hoàng nhạc rock". Nhóm sản xuất đã mời bộ tứ The Jordanaires để phụ họa cho Elvis Presley, lối hát bè của họ càng làm nổi bật lối diễn đạt thần sầu của ông hoàng Elvis, không chỉ chuyên hát nhạc rock mà còn có sở trường hát các bản ballad tha thiết nồng thắm : giọng ca mượt trầm, tình nồng ý đậm, người nghe mê mẩn, tâm hồn say đắm.
Mỗi lần nhắc tới nhạc phẩm ''More than I can say'', hầu như mọi người yêu nhạc đều nghĩ tới phiên bản rất thành công vào năm 1980 của danh ca người Anh Leo Sayer, nay định cư tại Úc. Tuy nhiên, giai điệu này đã từng ăn khách từ hai thập niên trước đó, qua bản nhạc gốc ghi âm vào năm 1959 của hai tác giả Sonny Curtis và Jerry Allison.
Năm 1959 là năm đầy đau thương tang tóc đối với làng nhạc rock. Ba nghệ sĩ hàng đầu thời bấy giờ là Ritchie Valens, The Big Bopper và nhất là Buddy Holly qua đời vì tai nạn máy bay tại hồ Clear Lake, bang Iowa Hoa Kỳ, khiến cho công chúng cảm thấy tiếc thương vô vàn. Ca sĩ kiêm tác giả Don McLean trong nhạc phẩm ''American Pie'' (ghi âm vào năm 1971) gọi ngày này là ''The Day the Music Died'' : Ngày âm nhạc đã chết.
Giới hâm mộ sửng sốt trước sự qua đời quá đột ngột của ba tài năng còn rất trẻ. Gia đình và đồng nghiệp của họ lại càng bị choáng váng. Nhất là Buddy Holly vĩnh viễn ra đi quá sớm, ở tuổi 22 vào lúc sự nghiệp của anh vừa cất cánh. Đà thành công của nhóm The Crickets, ban nhạc của Buddy Holly cũng đột ngột bị gián đoạn. Trong cái rủi lại có cái may, nhóm The Crickets có cơ hội lưu diễn với nhóm The Everly Brothers nổi tiếng với các nhạc phẩm ''Bye Bye Love'' (Tạm biệt tình yêu) và ''All I have to do is dream'' (tựa tiếng Việt là Khi ta hai mươi)
Nhờ vậy, nhóm The Crickets mới tiếp tục giai đoạn thứ nhì trong sự nghiệp của họ. Bản nhạc ''More than I can say'' là ca khúc chủ đạo trích từ tập nhạc ''In style with the Crickets'', đây là bản ghi âm đầu tiên, đánh dấu sự thành công của nhóm này một năm sau ngày Buddy Holy qua đời. Tựa đề bản nhạc này được hiểu theo nghĩa ''Yêu em quá đỗi, biết nói sao cho vừa'' hay nói cách khác không có lời nào diễn đạt được hết tình yêu dành cho em.
Trước khi có phiên bản ghi âm lại của Leo Sayer, giới yêu nhạc trẻ Anh, Mỹ đầu những năm 1960 đã từng say đắm mê mẩn với bản nhạc gốc của Sonny Curtis và Jerry Allison sáng tác vào năm 1959, rồi ghi âm phát hành trên đĩa nhựa lần đầu tiên vào năm 1960. Bài hát này sau đó đã được nhiều nghệ sĩ ghi âm lại trong đó có phiên bản của Bobby Vee (phát hành vào năm 1961) từng thành công ở Anh, nhưng lại không ăn khách tại Mỹ. Trong số các bản ghi âm lại (cover), thành công nhất vẫn là phiên bản của Leo Sayer, hạng nhì trên bảng xếp hạng Billboard, hạng tư châu Âu và hạng nhất thị trường Úc.
Theo lời kể của nam danh ca người Anh Leo Sayer, ông đã được nghe bài này qua phiên bản cover của Bobby Vee, chứ không phải là bản nhạc gốc. Lúc bấy giờ ông đang tìm kiếm một bài hát ăn khách thời trước để cho đủ số bài ghi âm trên album phòng thu thứ 8 của mình mang tựa đề ''Living in a Fantasy'', phát hành vào năm 1980.
Ở Việt Nam, nhạc phẩm ''More Than I Can Say'' từ lâu đã là một ca khúc kinh điển, do được đưa vào các giáo trình học tiếng Anh qua âm nhạc và được nghe liên tục trên mạng trong nhiều thập niên qua. Câu hát mở đầu bản nhạc "Oh oh, yeah yeah, I love you more than I can say" có thể nói đã in đậm vào tâm trí của nhiều người yêu nhạc.
Giai điệu ''More Than I Can Say'' tiính đến nay đã được ghi âm trong hơn 10 thứ tiếng, kể cả tiếng Nhật, tiếng Hoa hay tiếng Hàn ..... Còn trong tiếng Việt, bài này từng được đặt tựa thành ''Yêu em nhiều hơn lời nói'', có nhiều nguồn ghi chép là của tác giả Trung Hành và từng được nhiều nghệ sĩ như Lam Trường, Don Hồ, Quốc Khanh ghi âm.
Chắc cũng vì rất nhẹ nhàng trong câu chữ, ý tứ đơn giản từng lời, mà bản nhạc ''More than I can say'' dễ thấm vào lòng người, giai điệu thân quen đến đỗi giới yêu nhạc thuộc lòng từ thập niên 1960 : Yêu ai nhiều, lời vẫn chưa đủ nói. Đến hôm sau, tim càng yêu gấp bội. Từ lúc đầu cho đến giây phút cuối. Trọn một đời, vẫn yêu người mãi thôi.
Tuy không hẹn nhưng hầu như vào cùng một thời điểm, hai nhóm sáng tác đã cho phát hành hai bài hát có tựa đề giống hệt nhau. Đó là nhạc phẩm ''I'll never fall in love again'' (Sẽ không còn yêu ai nữa). Cả hai bản nhạc chỉ giống nhau ở tựa, trong khi giai điệu lại hoàn toàn khác biệt, nhưng vì hai bài này đều ăn khách trên thị trường quốc tế, cho nên giới yêu nhạc ngoại thường dễ bị nhầm lẫn. Góc vườn âm nhạc RFI kỳ này nói về phiên bản của Tom Jones.
Trong trường hợp thứ nhất, nhạc phẩm ''I'll never fall in love again'' do hai nhạc sĩ người Mỹ Burt Bacharach và Hal David đồng sáng tác vào năm 1968 cho một vở nhạc kịch (Promises, Promises) và đều thành công trên thị trường Anh cũng như Bắc Mỹ qua phần ghi âm của hai nữ ca sĩ Bobbie Gentry và Dionne Warwick phát trong năm 1969.
Còn trong trường hợp thứ nhì, nhạc phẩm cũng mang tựa đề là ''I'll never fall in love again'' do hai tác giả Lonnie Donegan và Jimmy Currie soạn lại cho nam danh ca người Anh Tom Jones. Được phát hành vào năm 1967, giai điệu ''Sẽ không còn yêu ai'' về hạng nhì trên thị trường Anh quốc, hạng 5 châu Âu và hạng 6 tại Mỹ. Đây là bản hit thứ ba của Tom Jones sau hai nhạc phẩm ''It's not unusual'' và ''Green green grass of home'' (từng được danh ca Sĩ Phú đặt lời Việt thành bài ''Cỏ vẫn xanh''), giúp cho ca sĩ xứ Wales trở thành một thần tượng quốc tế.
Tại vương quốc Anh, tên tuổi của Lonnie Donegan hẳn chắc không còn gì xa lạ với công chúng. Được mệnh danh là "Ông hoàng nhạc Skiffle'' (The King of the Skiffle), một thể loại nhạc dân gian kết hợp folk, country và blues, thịnh hành vào cuối thập niên 1950, Lonnie Donegan là nghệ sĩ có tầm ảnh hưởng lớn tại nước Anh thời bấy giờ, ông có khoảng 20 bản nhạc ghi âm ăn khách liên tục (Top 30) trước khi nhóm Tứ quái The Beatles trỗi dậy, thay đổi cục diện của làng nhạc rock Anh, Mỹ đầu thập niên 1960.
Trả lời phỏng vấn tuần báo phát hành cuối tuần The Mail on Sunday, nam danh ca Tom Jones cho biết ông quen nhạc sĩ Lonnie Donegan từ lúc ông mới vào nghề (ông nhỏ hơn Lonnie 9 tuổi), hai người có dịp đi biểu diễn với nhau và từ đó, họ trở thành bạn đồng nghiệp. Lonnie Dinegan (1931-2002) là một trong những nghệ sĩ Anh đầu tiên biết chơi nhạc rock và điều đó ảnh hưởng nhiều cho thế hệ đi sau.
Tom Jones còn nhớ lại là lần đầu tiên ông được nghe bài hát ''I'll never fall in love again'' (Sẽ không còn yêu ai nữa) tại nhà riêng của Lonnie Donegan. Giai điệu này do Lonnie từng ghi âm trên đĩa nhựa vào năm 1962, phóng tác từ một bản dân ca không ghi rõ tên tác giả có từ những năm 1930. Nhạc phẩm (I'm Never Going To Cease My) ''Wandering'' hiểu theo nghĩa Kiếp phong trần vẫn mãi lang thang, từng có nhiều bản ghi âm, nổi tiếng nhất là phiên bản của James Taylor.
Khi soạn lại bài hát này theo dạng nhạc pop-rock với lối phối khí hòa âm của một dàn nhạc hòa tấu theo kiểu Ý (ở đây có thể thấy ảnh hưởng do trào lưu sau thành công của bản hòa âm ''Io che non vivo senza te'' (You don't have to say you love me), tác giả Lonnie Donnegan đã chỉnh sửa một số hợp âm trong phần điệp khúc sao cho giai điệu cao trào, càng trở nên mãnh liệt tha thiết.
Chính lối hòa âm ấy hơi cường điệu ấy khi gặp chất giọng nam trung trầm (baryton) đầy nội lực những vẫn có thể đạt được những nốt cao vút của giọng ca tenor, bản nhạc bỗng dưng bừng sáng, không còn là một bài dân ca mộc mạc theo kiểu hát rong, mà lại mang đậm chất pop-rock giao hưởng pha với một chút nhạc soul đầy ngẫu hứng.
Sau thành công của Tom Jones, nhiều giọng ca hàng đầu đều có ghi âm lại bài này, kể cả ông hoàng nhạc rock Elvis Presley vào năm 1976 và nam danh ca Richard Marx ghi âm cho tuyển tập tình khúc chọn lọc ''Ballads'' (Then, Now & Forever) phát hành vào năm 1994. Trong các ngôn ngữ khác, nhạc phẩm ''I'll never fall in love again'' cũng được khá nhiều nghệ sĩ ghi âm lại bằng 9 thứ tiếng (Ý, Đức, Phần Lan, Croatia, Rumani, Tây Ban Nha ….)
Trong tiếng Pháp, bài này được tác giả Pierre Delanoë đặt lời thành nhạc phẩm ''Plus Jamais'' (Không bao giờ nữa) do nữ ca sĩ người Bỉ Liliane Saint Pierre ghi âm vào năm 1968. Phiên bản tiếng Pháp thứ nhì ''Notre Amour'' là của tác giả vùng Québec Anne-Marie Gaspard, do Mike Alison ghi âm.
Còn trong tiếng Việt, bài này có hai lời khuyết danh tác giả. Lời đầu tiên là ''Em sẽ không yêu lần nữa'' của danh ca Carol Kim. Lời thứ nhì từng được ca sĩ Như Mai ghi âm với tựa đề ''Mãi mãi yêu anh'', hoàn toàn khác hẳn nếu không nói là đi ngược lại với tựa đề bản gốc là ''I'll never fall in love again'' (Sẽ không còn yêu ai nữa).
Vào năm 2019, ở tuổi gần 80, Tom Jones trong vai trò giám khảo cuộc thi The Voice (phiên bản Anh) đã quay ghế lại trong phần thi hát giấu mặt và bất ngờ khám phá thí sinh lúc ấy là Peter Donegan 35 tuổi, con trai ruột của người bạn đồng nghiệp quá cố Lonnie Donegan. Trước câu hỏi, cháu có biết bố cháu từng viết cho chú bản nhạc nào hay không, Peter đơn giản trả lời : cháu chẳng những biết mà cháu còn đàn cho chú hát. Thế là tiếng nhạc lại trỗi lên hơn nửa thế kỷ sau, hòa quyện vào nhịp đàn thuở nào, giọng ca của Tom Jones vẫn xúc động nghẹn ngào như xưa... Cho đam mê tâm hồn còn bùng cháy bao ngọn lửa. Dù con tim từ nay thề hứa, sẽ không còn yêu ai nữa.
''Piano'' là tựa đề album phòng thu thứ 11 của nam danh ca François Feldman, một trong những nghệ sĩ Pháp nổi tiếng nhất làng nhạc pop những năm 1980. Đây là một tuyển tập chọn lọc, chỉ được phát hành trên các nền tảng âm nhạc trực tuyến. Đúng với tên gọi, album chủ yếu bao gồm những bản nhạc ăn khách nhất của François Feldman, nhẹ nhàng với lối phối khí hòa âm, dịu dàng với tiếng mộc dương cầm.
Từ khoảng 20 năm nay, François Feldman đã chọn lập nghiệp ở thành phố Cannes, bên bờ Địa Trung Hải. Sở dĩ anh quyết định rời thủ đô Paris, dọn hẳn về miền nam nước Pháp sinh sống, là vì cách đây gần hai thập niên, anh đã trải qua một giai đoạn khó khăn trong cuộc đời. Bố mẹ anh vừa lần lượt từ trần, trong khi bản thân anh đang phải làm thủ tục ly hôn.
Một người bạn thân của anh (tên là Bobby) lúc bấy giờ đang điều hành nhà hàng nổi tiếng ''La Voile blanche'' ở thành phố Juan les Pins, mới đề nghị anh về miền nam để thay đổi không khí. Kể từ đó, François Feldman không bao giờ muốn rời đi chỗ khác nữa.
Chính tại phòng thu âm ở miền nam (thành phố Cannes) mà François Feldman đã thực hiện toàn bộ album mới của mình. Dường như chưa ai quên được những giai điệu trầm buồn, chứa chan hoài niệm của anh. Lối hòa âm cuối những năm 1980 có thể đã trở nên lỗi thời, đối với nam ca sĩ kiêm tác giả, có lẽ đã đến lúc mang lại cho những giai điệu nổi tiếng nhất của mình một luồng sinh khí mới, trong đó có nhạc phẩm ''Magic Boul’vard'' (tựa tiếng Việt là ''Ngày vui năm ấy''). Trong đoạn video clip, nam ca sĩ người Pháp lần đầu tiên hợp tác với nữ diễn viên điện ảnh Annie Girardot.
Mang tựa đề đơn giản là ''Piano'', tập nhạc chọn lọc vừa được phát hành đầu mùa hè năm 2024, với hình bìa là một bàn phím dương cầm trên phông nền nước biển màu ngọc lam. Theo lời kể của chính tác giả, ý tưởng thực hiện một album như vậy đến từ các đợt lưu diễn của anh. Khi lên sân khấu biểu diễn, để thay đổi không khí, sau những tiết mục sôi động nhẹ nhàng, François Feldman thường ngồi vào đàn piano, tự đệm cho mình hát.
Do có khá nhiều bản nhạc ăn khách, cho nên anh thường hát thành liên khúc, mỗi bài một phút. Sau các đợt biểu diễn, khách hâm mộ thường nói rằng họ rất thích các đoạn anh hát solo, một mình ngôi bên đàn piano. Gần đây, khi anh được nghe nghệ sĩ dương cầm trứ danh Sofiane Pamard biểu diễn trực tiếp, (Sofiane Pamard từng hợp tác với nhóm Bon Entendeur và đệm bài ''Imagine'' cho Juliette Armanet nhân lễ khai mạc Thế vận hội Paris 2024) thì lúc ấy François Feldman mới tin vào tiềm năng của một album được thiết kế với âm thanh chủ đạo là tiếng đàn dương cầm.
Để soạn lại những bản nhạc hay nhất của mình theo phong cách đàn piano với nhịp trầm đầy khoảnh khắc sâu lắng mà vẫn không quá cổ điển, François đã nhờ đến tài nghệ chơi piano của Hervé Cosentino, trong khi Julien Desjardin phụ trách phần thu thanh. Phần còn lại (nhưng quan trọng nhất) dường như đã có sẵn. Một bài hát hay có thể được phối lại theo bất cứ điệu nào. Nơi tác giả Feldman, giai điệu càng đậm nét trữ tình, càng dễ xóa bỏ rào cản vô hình, kể cả ngôn ngữ mặc định.
Hầu hết các bản nhạc ăn khách đều do Francois Feldman đồng sáng tác với Jean-Marie Moreau. Tác giả người Pháp đã từ trần cách đây 4 năm (vào năm 2020) ở tuổi 71 và album này là một cách để vinh danh người bạn đồng hành. Đằng sau những bài hát của hai tác giả này thường có khá nhiều giai thoại. Chẳng hạn như nhạc phẩm ''Le mal de toi'', tựa đề phiên bản phóng tác tiếng Việt là ''Tình đau'' của Khúc Lan hay Đêm cô đơn của tác giả Lê Hựu Hà. Theo lời tác giả, đây là một trong những tác phẩm yêu thích nhất của anh, có nhiều phần tự truyện, sáng tác thành công đầu tiên của Feldman gợi hứng từ những khoảnh khắc đau đớn, bất hạnh của một chuyện tình dang dở.
Còn trong các nhạc phẩm như Slave (Ngàn đời chờ mong) hay ''Les Valses de Vienne'' (Luân vũ ngày mưa), các giai điệu ban đầu được viết cho đàn vĩ cầm (do Thierry Durbet phối nhạc) vì nhóm sáng tác muốn cài đặt nhiều yếu tố đời tư của nam ca sĩ vào trong bài hát. Nếu mẹ của anh là một cô y tá người Bỉ thì bố của François Feldman là một thợ may người Nga gốc Slave. Dòng máu Đông Âu của nam ca sĩ được thể hiện qua các điệu vĩ cầm, kinh thành Vienne khi xưa là biểu tượng của đế chế Áo-Hung.
Riêng về giai điệu ''Les valses de Vienne'', bài này có nhiều lời khác nhau trong tiếng Việt. Lời thứ nhất là ''Cõi Mơ'' của tác giả Lữ Liên. Lời thứ nhì là ''Luân Vũ Ngày Mưa'' của Khúc Lan, không nên nhầm lẫn với ''Khúc luân vũ mùa mưa'' (The Last Waltz). Lời thứ ba là ''Điệu Valse buồn cho em'' của Đặng Tô Điền. Lời thứ tư là ''Những khúc hát đã tan'' của tác giả Quốc Bảo.
Khi được phối lại cho đàn piano, nhóm sáng tác đã chuyển đổi làm sao để không làm mất đi nỗi đam mê tha thiết của các bản nhạc gốc. Với thời gian, âm sắc chất giọng của François Feldman trở nên thật trầm, nhưng giai điệu trong tim vẫn ấm nồng, cho huyền diệu bay bổng, vang vọng mãi những dư âm.
''Casablanca'' nằm trong số những ca khúc nhạc ngoại hiếm hoi có rất nhiều lời Việt khác nhau. Theo các nguồn thông tin trên mạng, tính đến nay ''Casablanca'' đã có đến ít nhất đến 4 lời Việt khác nhau. Thế nhưng, trước ''Casablanca'', từng có nhạc phẩm ''Key Largo''. Cả hai bài hát này đều gợi hứng từ các bộ phim xưa của Humphrey Bogart, được phát hành trên album đầu tay của ca sĩ kiêm tác giả Bertie Higgins.
''Key Largo'' là một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Florida, nơi từng được chọn làm bối cảnh cho bộ phim cùng tên năm 1948, với hai ngôi sao màn bạc Humphrey Bogart và Lauren Bacall trong vai chính. Ngoài đời, họ đã thành hôn với nhau để rồi trở thành một trong những cặp vợ chồng nghệ sĩ quyến rũ nhất Hollywood. Về phần mình, Bertie Higgins lớn lên ở Tarpon Springs, Florida. Ông đã lấy cảm hứng từ thời kỳ vàng son của Hollywood để viết lên nhiều tình khúc quen thuộc. Trong đó có nhạc phẩm ''Key Largo'' dựa trên bộ phim cùng tên với đôi tình nhân Humphrey Bogart & Lauren Bacall (năm 1948) và giai điệu ''Casablanca'' cũng gợi hứng từ tác phẩm điện ảnh nổi tiếng của Michael Curtiz, với Humphrey Bogart và Ingrid Bergman trong vai chính (phát hành vào năm 1942).
Trong quyển sách ''Behind The Hits'' (Đằng sau những bản nhạc ăn khách), tác giả Bertie Higgins cho biết ông đã làm quen và sống với người yêu của mình tên là Beverly Seaberg trong nhiều năm ở Florida. Đôi tình nhân thường đi xem những bộ phim xưa vào những ngày cuối tuần. Trong mắt họ, mối tình lãng mạn giữa Lauren Bacall và Humphrey Bogart là một câu chuyện tình phi thường, trước hết vì sự chênh lệch tuổi tác, Bogart lớn hơn Bacall đến 25 tuổi, dù vậy, họ lại gầy dựng được một mối quan hệ thắm thiết, bền vững nhất ở kinh đô điện ảnh Hollywood.
Tuy có nhiều mong ước, nhưng mối tình giữa Beverly Seaberg và Bertie Higgins lại không được lý tưởng như vậy. Khi hai người chia tay nhau, tác giả Bertie Higgins cho biết ông đã đau khổ trong gần hai năm trời. Ông tự nhủ bằng một cách nào đó ông sẽ gửi đến người yêu cũ, một lời tạ từ nhắn nhủ. Thế là nhạc phẩm ''Key Largo'' ra đời. Còn giai điệu ''Casablanca'' được viết một thời gian sau đó, vẫn được xem như là chương thứ nhì trong câu chuyện tình của Beverly và Bertie. Cả hai bài hát đều là khúc biến tấu trên cùng một chủ đề : chuyện phim bất ngờ ở hồi kết, đời ai nào ngờ tình yêu sẽ hết.
Tác giả Bertie Higgins viết nhạc như những lá thư tình, nhắn nhủ van xin người yêu hãy quay trở lại với mình. Và rốt cuộc, Beverly lại về với Bertie. Hai người thành hôn sau khi album đầu tay của ông ''Just another day in Paradise'' được phát hành vào năm 1982. Album này gồm hai nhạc phẩm chủ đạo là ''Key Largo'' và ''Casablanca'' đều gợi hứng từ các bộ phim xưa. Hai vợ chồng có hai người con (Aaron & Julian) và từng sống chung với nhau trong vòng ba thập niên liền.
Trên thị trường Bắc Mỹ, ''Key Largo'' được xem là bản hit duy nhất ca sĩ kiêm tác giả Higgins, vào nghề nhờ chơi trống trong các ban nhạc trẻ đầu những năm 1960. Đầu những năm 1980, Bertie Higgins đã tạo ra một chỗ đứng riêng trong thể loại "tropical rock" (còn được gọi là Gulf & Wesstern) kết hợp nhạc pop, country và nhạc rock miền nam Florida với ảnh hưởng của các nhịp điệu reggae, calypso đến từ các hải đảo miền nhiệt đới, theo phong cách của Jerry Jeff Walker hay Jimmy Buffett và ban nhạc Coral Reefer.
Khi rời Florida về sống ở Atlanta, ông đã làm quen và hợp tác với nhà sản xuất Sonny Limbo. Chính ông Sonny Limbo đã giúp hoàn chỉnh các bản sáng tác và gợi ý cho Bertie Higgins cài đặt vào trong bài hát những chi tiết của bộ phim. Câu thoại của Bogart "Here's looking at you, kid" được đưa vào trong lời bài hát ''Key Largo và ''A kiss is still a kiss'' (As time goes by) vào trong điệp khúc nhạc phẩm ''Casablanca''.
Tuy không ăn khách trên thị trường Bắc Mỹ bằng nhạc phẩm ''Key Largo'', nhưng giai điệu Casablanca lại rất thịnh hành ở vùng châu Á-Thái Bình Dương, có thêm nhiều phiên bản ghi âm trong tiếng Hoa, tiếng Nhật, tiếng Mã Lai hay Philippines (tagalog) …. Còn trong tiếng Việt, giai điệu ''Casablanca'' có đến ít nhất bốn lời khác nhau.
Lời đầu tiên của tác giả Kim Tuấn, chuyển thành nhạc phẩm ''Sao không đến bên anh'' từng được nhiều ca sĩ ghi âm như Ngọc Lan, Don Hồ, Thiên Kim …. Lời Việt thứ nhì là của tác giả Quang Nhật qua phần diễn đạt của ca sĩ Diễm Liên. Lời thứ ba với tựa đề ''Casablanca, Đêm tình nhân'' do tác giả Nguyễn Thảo phóng tác và do nghệ sĩ Lê Thu Hiền trình bày. Lời Việt thứ tư chuyện tình ''Casablanca''' là của tác giả Maria Mai Phạm, qua phần ghi âm của nam ca sĩ Nguyễn Hồng Ân.
Trong nguyên tác, cái tài của hai tác giả Bertie Higgins và Sonny Limbo là đã lồng nhiều chi tiết bộ phim vào trong nội dung bài hát, tạo ra sự tương ứng giữa câu chuyện trên màn bạc và mối tình ngoài đời thật. Với thời gian, giai thoại sẽ trở thành huyền thoại. Con tim vẫn nhớ mãi những giây phút giã từ, bao đêm thức trắng tương tư. Những trang tình sử rồi cũng trở nên bất tử.
Thành danh vào giữa những năm 1960, vào thời cực thịnh của phong trào nhạc trẻ ở Pháp, nam ca sĩ Pascal Danel nổi tiếng nhờ có chất giọng biểu cảm, cùng với phong cách lãng mạn. Giọng ca ấy giờ đây không còn nữa. Pascal Danel đã vĩnh viễn ra đi hôm 25/07/2024, hưởng thọ 80 tuổi.
Sinh thời, Pascal Danel đã bán hơn 25 triệu đĩa hát, ghi âm 11 album phòng thu và 7 tập nhạc live trong gần nửa thế kỷ sự nghiệp. Bên cạnh đó, ông còn sáng tác cho nhiều nghệ sĩ khác như Daniel Guichard (Chanson pour Anna), Marcel Amont (Un peu de soleil, un peu de ciel bleu) và nhất là Dalida. Bài ''Ton âme'' (Tâm hồn của anh) từng đoạt giải nhất Bông hồng vàng năm 1972 nhân Liên hoan ca khúc tiếng Pháp La Rose d'or của thành phố Antibes, chứ không phải là giải truyền hình châu Âu Eurovision …
Tên thật là Jean-Jacques Pascal Buttafoco, ông sinh trưởng tại Paris, nhưng lại không được sống gần gũi với cha mẹ. Thời còn nhỏ, ông chủ yếu được bà ngoại nuôi dưỡng, đến khi lớn lên, gia đình cho ông vào trường nội trú tại thị trấn Annel, gần thành phố Compiègne, cách thủ đô Paris khoảng 90 cây số về phía bắc. Sau này khi vào nghề ca hát ông lấy tên trường nội trú Annel để làm nghệ danh : Pascal Danel.
Khi trưởng thành, Pascal Danel ban đầu chọn làm nghệ sĩ gánh xiếc (trong bộ môn đi môtô trên dây), nhưng vì tai nạn xe máy, ông buộc phải giải phẫu, ngưng các tiết mục biểu diễn để có thời gian phục hồi sức khỏe. Vận xui lại trở thành dịp may, ông khám phá niềm đam mê âm nhạc ngay trên giường bệnh. Trong thời gian dài phải nằm tại bệnh viện, ông đã học đàn ghi ta và nhờ có trí nhớ tốt, ông bắt đầu chơi lại những bài hát yêu thích, để rồi mò mẫm sáng tác những giai điệu đầu đời.
Khi vết thương đã lành hẳn, Pascal Danel bắt đầu đi hát trong các nhóm nhạc rock, tuy không thành công nhưng điều đó lại tạo cơ hội cho ông gặp nhà sản xuất Lucien Morisse, từng làm nên tên tuổi của Michel Polnareff và nhất là của Dalida thời bấy giờ. Vào năm 1966, Pascal Danel giành lấy hạng nhất thị trường Pháp nhờ tình khúc ''La plage aux Romantiques'', đồng sáng tác với Michel Delancray.
Bản nhạc này trong tiếng Việt có đến it nhất 4 lời khác nhau. Trước năm 1975, giai điệu ''La Plage aux Romantiques'' từng được tác giả Nguyễn Duy Biên đặt lời Việt thành nhạc phẩm mang tựa đề ''Biển Mộng Mơ''. Bản nhạc do nam ca sĩ Paolo ghi âm cho tuyển tập Tình Ca Nhạc Trẻ 2, gồm những ca khúc nhạc ngoại lời Việt của Nguyễn Duy Biên. Sau năm 1975, bài hát có thêm nhiều phiên bản lời Việt khác mà đôi khi các trang thông tin trên mạng không ghi rõ tác giả, trong đó có ''Bãi biển mộng mơ'' do nam ca sĩ Thái Hòa ghi âm, ''Bãi cát yêu thương'' qua phần trình bày của ca sĩ Công Thành, ''Bãi cát thơ mộng'' của ca sĩ kiêm tác giả Lê Toàn, cũng như nhạc phẩm ''Biển Mơ'' do nam danh ca Elvis Phương trình bày với ca từ khác hẳn với lời đầu tiên của tác giả Nguyễn Duy Biên.
Thường thì sau bài hát cực kỳ ăn khách đầu tiên, bản nhạc thứ nhì lại ít thành công hơn. Nhưng trường hợp của Pascal Danel đã chứng minh điều ngược lại. Giai điệu thứ nhì (cũng do ông soạn nhạc và do Michel Delancray đặt lời) một lần nữa lại phá kỷ lục số bán đầu năm 1967, thành công hơn cả bài hát đầu tiên, và được Pascal Danel ghi âm trong 6 thứ tiếng, trong đó có tiếng Ý, tiếng Đức, thậm chí tiếng Nhật.
Nhóm sáng tác đã lấy cảm hứng từ bộ phim ''Les neiges du Kilimanjaro'' (Tuyết trên đỉnh Kilimanjaro) của đạo diễn Henry King. Đây là phiên bản điện ảnh chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên của văn hào Ernest Hemingway. Ngoại trừ nhà sản xuất Lucien Morisse, không ai tin vào tiềm năng của bài hát, do có nội dung quá buồn, kể lại những hồi tưởng cuối cùng của một người sắp qua đời, trên đỉnh núi thì thầm gió thổi, tựa như lời trăng trối. Nhờ bài hát này mà giọng ca Pascal Danel gây được tiếng vang trên toàn thế giới.
''Les Neiges du Kilimanjaro'' ăn khách trở lại vào năm 2011 khi được chọn làm chủ đề cho bộ phim của đạo diễn Robert Guédiguian, nhưng lần này không có liên quan gì đến truyện ngắn cùng tên của nhà văn người Mỹ Ernest Hemingway. Nhạc phẩm ''Kilimandjaro'' trở nên nổi tiếng tại Việt Nam đầu những năm 1970, nhờ cái tài của tác giả Nguyễn Duy Biên đặt lời Việt thành nhạc phẩm ''Đỉnh Tuyết'' do nam ca sĩ Jo Marcel (cũng như Elvis Phương) trình bày. Sau năm 1975, Elvis Phương thực hiện trên album ''Tuyệt Diệu Tình Yêu'' một bản ghi âm thứ nhì mang tựa đề ''Tuyết Xa'' nhưng lại không ghi rõ tên tác giả, lời Việt bài này cũng khác hẳn với phiên bản đầu tiên của Nguyễn Duy Biên.
Sau gần 50 năm sự nghiệp, Pascal Danel chính thức giải nghệ vào năm 2016, thỉnh thoảng ông nhận lời hợp tác ghi âm với các nghệ sĩ trẻ tuổi (như nhóm Les Stentors) nhưng hầu như không còn đi hát do tuổi già sức yếu. Pascal Danel vĩnh viễn ra đi để lại cho công chúng những giai điệu sáng ngời : từ nay đành hết rồi, bao cánh mỏi chim trời, một khi đã về tới, đỉnh núi tuyết xa vời.
Thành danh ban đầu trong làng nhạc kịch opéra, giọng ca tenor Marc Hervieux đã trở nên quen thuộc hơn với công chúng trong một thập niên gần đây nhờ một loạt album phối hợp nhạc pop với bán cổ điển. Tuy có chất giọng thiên phú, nhưng danh ca người Canada lại thành công khá muộn trên thị trường đĩa hát. Mãi đến năm 2009, năm anh tròn 40 tuổi, Marc Hervieux mới trình làng album solo đầu tiên.
Thà muộn còn hơn không. Như thể để bù lại những năm tháng tuổi xuân đã qua, Marc Hervieux đã cho phát hành 10 album phòng thu đậm chất pop giao hưởng. Trong số này có hai tập nhạc (Tenor Arias 2010 & A Napoli 2012) từng đoạt danh hiệu album nhạc cổ điển hay nhất trong năm nhân kỳ trao giải thưởng âm nhạc Félix của vùng Québec Canada. Sau thành công này, anh đã được mời đi hát trên rất nhiều sân khấu lớn trên thế giới, kể cả New York, Vancouver, Paris, Seoul hay Đài Bắc ….
Sinh trưởng ở Montréal trong một gia đình công nhân nghèo sống gần khu chợ Maisonneuve, Marc Hervieux là con út lớn lên cùng với ba anh chị. Nhớ lại thuở ‘‘hàn vi’’, anh cho biết là thời còn nhỏ, bố mẹ anh cứ vào mỗi mùa thu, thường mua giá sỉ hàng trăm kí lô khoai tây, trữ khoai ở trong hầm, để dành ăn cho cả năm. Trong nhà, thực đơn các bữa ăn khá là bình dân đơn giản, chủ yếu bao gồm một chút thjt với bắp nướng và khoai luộc. Trong nhà chỉ có một chiếc máy radio, thân phụ anh rất mê nghe nhạc đồng quê (các nhạc phẩm như ‘‘Je chante à cheval” hay “Mille après mille). Khi gia đình dư dả hơn một chút, bố anh mới sắm một màn ảnh truyền hÌnh, nhờ vậy Marc Hervieux được nghe lần đầu tiên những khúc nhạc thính phòng, những giai điệu cổ điển. Từ thuở thiếu thời, anh bị cuốn hút các chất giọng cực mạnh của giới ca sĩ opera, nhưng bản thân anh chưa bao giờ nghĩ rằng anh có đủ khả năng để hát như vậy !
Lúc đầu, Marc Hervieux không chọn con đường sân khấu, vì anh không được gia đình ủng hộ. Do vậy, anh theo học ngành thiết kế đồ họa với hy vọng sau này sẽ có được một công việc ổn định. Mãi đến năm 22 tuổi, trước sự khuyến khích của bạn bè, Marc Hervieux mới tham gia một buổi casting thử giọng để tuyển diễn viên nhạc kịch (của đoàn kịch mới Nouvelle Compagnie Théâtrale). Một cách bất ngờ, anh được tuyển làm một trong những vai chính mặc dù anh chưa hề được đào tạo bài bản về âm nhạc.
Thành công này thúc đẩy anh thử vận may khi ghi tên vào Nhạc viện thành phố Montréal. Trong suốt quá trình 5 năm đào tạo, Marc Hervieux đã phải trải qua rất nhiều khó khăn, ít nhất trong hai năm đầu. Do không biết một chút gì về nhạc lý, cho nên anh buộc phải học từ đầu, để có thể đọc các nốt nhạc. Nhiều lần suýt bỏ cuộc vì thiếu sót quá nhiều kiến thức căn bản, nhưng nhờ có ý chí phấn dấu, rốt cuộc anh đã vượt qua được khó khăn, tạo cơ hội phát huy tài năng. Tốt nghiệp nhạc viện thành phố năm anh 27 tuổi, Marc Hervieux sau đó tiếp tục được đào tạo với đoàn kịch Opéra ở Montréal.
Mười năm sau khi ra trường, Marc Hervieux được giới phê bình quốc tế công nhận khi trở thành một trong những “nghệ sĩ chính” tại nhà hát nổi tiếng Metropolitan Opera ở New York. Suy cho cùng, người không hề biết mình có một chất giọng ténor hiếm thấy trong những năm tháng đầu đời, giờ đây lại đảm nhận những vai diễn quan trọng nhất của làng nhạc kịch opéra. Ngay cả những ngòi bút nổi tiếng là khó tính ''tàn nhẫn'', cũng phải ngả mũ kính chào, cúi đầu bái phục một tài năng.
Trong số những album mang chủ đề hoài niệm (Nostalgia) của anh có khá nhiều bài hát được đặt thêm lời Việt như Love Story (Chuyện tình), The Godfather (Thú đau thương), The Last Waltz (Khúc luân vũ mùa mưa) hay Je t’attendais (Anh đợi chờ em) phiên bản lừi việt của Duy Quang …. Marc Hervieux cho thấy nhờ năng khiếu bẩm sinh, nên dù hát chung với một dàn nhạc giao hưởng, vẫn khiến cho khán giả có cảm tưởng người hát đang ở ngay bên cạnh mình. Trong tiếng hát của anh, có tất cả những sắc thái lung linh của một giọng nam cao lãng mạn trữ tình, đầy đặn biểu cảm nhưng không bao giờ cường điệu ‘‘kịch tính”.
Tuy không hẹn, nhưng trong thời gian gần đây có khá nhiều nghệ sĩ quốc tế tìm nguồn cảm hứng trong dòng nhạc trữ tình của Ý. Trong số những giai điệu thịnh hành từ những năm 1960, có nhạc phẩm ‘‘Una lacrima sul viso’’ (Giọt lệ hoen mi) của Bobby Solo và nhất là “Io che non vivo senza te” (hiểu theo nghĩa Đời không thể vắng em), từng được tác giả Phạm Duy phóng tác sang tiếng Việt thành nhạc phẩm ‘‘Không cần nói yêu anh’’.
Cho dù chưa ngoài 40 tuổi (tức còn thuộc thế hệ millenials), nhưng nam ca sĩ người Pháp gốc Ý Claudio Capéo cho biết là từ thời còn nhỏ, anh vẫn thường nghe những bản nhạc tiếng Ý trong gia đình, và có lẽ cũng vì thế mà chất thơ bình dị thấm vào tim anh từ lúc nào không hay. Lần này, khi chọn ghi âm lại giai điệu ‘‘L’Italiano’’ bản nhạc nổi tiếng nhất của Toto Cutugno, Claudio Capéo đã đặt lời mới tiếng Pháp cho bài hát này, khác với phiên bản của Hervé Vilard, từng được phát hành năm 1983, trước khi anh ra đời.
Một cách tương tự, nam ca sĩ Agustín Galiana đã ghi âm lại một phiên bản tiếng Tây Ban Nha của nhạc phẩm ‘‘Ti Amo’’ để vinh danh tài nghệ sáng tác của Umberto Tozzi. Ca sĩ người Brazil Daniel Boaventura và Chris Ruggiero người Mỹ đều ghi âm lại ‘‘Quando Quando’’ của Tony Renis trên tuyển tập nhạc Ý ‘’Italiano’’. Bài này từng được tác giả Trường Kỳ chuyển sang lời Việt thành nhạc phẩm ‘’Khi nào đây’’. Còn dưới ngòi bút của tác giả Tuấn Cường, bài có tựa đề là ‘‘Biết đến khi nào’’.
Về phía các nghệ sĩ Anh quốc, ca sĩ kiêm tác giả Jack Savoretti (tên thật là Giovanni Galletto Savoretti) sau hai lần giành hạng đầu thị trường album vương quốc Anh (Singing to Strangers 2019 & Europiana 2021), đã tìm về cội nguồn khi cho phát hành trong năm 2024 album song ngữ nhạc pop mang tựa đề ‘‘Miss Italia’’ (Nhớ về nước Ý) với sự hợp tác của giọng ca trứ danh Natalie Imbruglia và danh ca nhạc rock người Ý Zucchero.
Còn ban nhạc bán cổ điển G4 vừa cho phát hành album mang tựa đề ‘‘20’’ kỷ niệm hai thập niên nhóm này được thành lập, theo mô hình của bộ tứ Il Divo. Ra đời vào năm 2004, sau khi thành danh nhờ xuất hiện trong chương trình ‘‘X-Factor’’ (Nhân tố bí ẩn), nhóm G4 với giọng ca tenor Jonathan Ansell và giọng ca baryton Mike Christie chuyên dung hòa thể loại acapella với nhạc pop giao hưởng. Điểm chung giữa Jack Savoretti và nhóm G4 là cả hai bên đều vừa ghi âm lại một bản phối mới cho giai điệu “Io che non vivo senza te” (Đời không thể vắng em).
Được biểu diễn lần đầu tiên tại vòng chung kết liên hoan ca khúc tiếng Ý Sanremo, giai điệu “Io che non vivo senza te’’ do hai nhạc sĩ Pino Donaggio và Vito Pallavicini đồng sáng tác. Bài hát này giành lấy hạng đầu thị trường Ý đầu năm 1965 và trở thành sáng tác ăn khách nhất của Pino Donaggio. Sau này ông chuyển sang nghề sáng tác nhạc phim tại Hollywood, chuyên hợp tác với đạo diễn Mỹ Brian de Palma.
Giai điệu ‘’Đời không thể vắng em’’ cho ra đời một loạt phiên bản phóng tác trong nhiều ngôn ngữ khác. Trong tiếng Anh, “Io che non vivo senza te’’ trở thành nhạc phẩm “You don’t have to say You love Me”. Nữ danh ca Dusty Springfield là người đầu tiên ghi âm phiên bản Anh ngữ vào năm 1966 và sau đó có thêm những phiên bản ăn khách khác của danh ca Engelbert Humperdinck và nhất là của ông hoàng nhạc rock Elvis Presley.
Trong tiếng Pháp, cũng đã có ít nhất hai lời khác nhau. Phiên bản đầu tiên do tác giả Michel Jourdan phóng tác thành ‘’Jamais je ne vivrai sans toi” gần sát với nguyên tác tiếng Ý và do Richard Anthony ghi âm lần đầu tháng 10 năm 1965. Sau đó đến phiên hai nữ ca sĩ Margot Lefebvre và Claude Valade ở vùng Québec, Canada đều có ghi âm lại. Gần ba thập niên sau, ca sĩ người Bỉ gốc Ý Sandra Kim từng đoạt giải nhất cuộc thi hát truyền hình châu Âu Eurovision vào năm 1986 nhờ nhạc phẩm ‘’J’aime la vie’’, ghi âm một phiên bản tiếng Pháp thứ nhì của tác giả Rosario Marino-Atria mang tựa đề ‘’Je t'ai tout donné’’ (Cho anh tất cả). Về nội dung, phiên bản tiếng Pháp thứ nhì không có liên quan gì với nguyên tác tiếng Ý, ra đời cách đây 6 thập niên, nay đã trở nên kinh điển.
Hầu hết các phiên bản phóng tác chủ yếu dựa vào phiên bản tiếng Anh rất thịnh hành cuối thập niên 1960 của nữ danh ca Dusty Springfield, trong đó có cả lời tiếng Việt với tựa đề “Không cần nói anh yêu” (đôi khi có nơi ghi chép thành “Không cần nói yêu anh”). Dù cách đặt lời có gần sát hay thoát ý, các phiên bản phóng tác vẫn chuyển tải được phần nào nội dung nguyên tác tiếng Ý, chất lãng mạn tột cùng, nét trữ tình tuyệt đối : Vắng em, ta không sống nổi một giờ, huống chi là phải khổ trọn đời.
The podcast currently has 248 episodes available.
43 Listeners
213 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
117 Listeners
17 Listeners
11 Listeners
63 Listeners
35 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
56 Listeners
1 Listeners
4 Listeners
39 Listeners
32 Listeners
10 Listeners
12 Listeners
0 Listeners