Thời sự quốc tế nổi bật qua lăng kính của RFI
... moreShare Tạp chí tiêu điểm
Share to email
Share to Facebook
Share to X
Quan hệ đối tác quân sự với Trung Quốc, Iran và Bắc Triều Tiên đã giúp Nga giảm nhẹ được áp lực từ các biện pháp trừng phạt của phương Tây, đồng thời duy trì được cường độ các cuộc tấn công đánh chiếm Ukraina, và góp phần cho nhiều thắng lợi của Nga trên chiến trường. Nhưng cả ba nước này cũng đã tận dụng sự phát triển các động lực chính trị, kinh tế, và quân sự của Nga để giành lợi thế và những nhượng bộ từ Matxcơva.
Quyết định của tổng thống Vladimir Putin phát động cuộc chiến xâm lược Ukraina đã đưa Nga vào một cuộc chiến tiêu hao lâu dài, đòi hỏi ngành công nghiệp quốc phòng phải sản xuất và cung cấp liên tục thiết bị quân sự cho chiến trường. Nhưng các đòn trừng phạt của phương Tây đã gây nhiều khó khăn lớn cho khả năng tự cung tự cấp, buộc Nga phải trông cậy vào sự hỗ trợ quân sự từ các đối thủ của Mỹ là Trung Quốc, Iran, và Bắc Triều Tiên.
Đổi công nghệ lấy viện trợ vũ khíCả ba nước này hậu thuẫn cho các nỗ lực chiến tranh của điện Kremlin ở những mức độ khác nhau và với các mục tiêu địa chính trị rất khác biệt. Trả lời RFI Tiếng Việt, nhà phân tích địa chính trị về Nga, Igor Delanoe, phó giám đốc Đài Quan sát Pháp – Nga, trước hết lưu ý rằng sự hỗ trợ mà mỗi nước đối tác dành cho Nga có bản chất không giống nhau.
Igor Delanoe : Theo như những gì chúng tôi biết, Trung Quốc chưa hề cung cấp thiết bị quân sự sát thương mà thay vào đó là những thiết bị lưỡng dụng như linh kiện bán dẫn hay các bộ vi xử lý, drone bốn cánh quạt – những loại drone nhỏ này trên thực tế có thể được dùng để gắn chất nổ chẳng hạn (…)
Còn đối với Bắc Triều Tiên, người ta nói nhiều về việc cung cấp đạn pháo, bởi vì kho đạn nước này dường như rất dồi dào. Dĩ nhiên, nếu xét về lịch sử quan hệ giữa hai nước, Bắc Triều Tiên và quân đội Bắc Triều Tiên sử dụng trang thiết bị do Liên Xô cũ sản xuất. Và do vậy, có một sự tương thích khá thú vị về hệ thống vũ khí, đạn dược giữa hai nước (…)
Về phía Iran, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm khá thú vị, bởi vì nước này đã nhanh chóng giúp đỡ Nga qua việc cung cấp drone, kể cả drone trinh sát và các loại đạn dược. Ngoài ra, còn có cả một cơ sở sản xuất những loại drone này trên lãnh thổ Nga. Thậm chí gần đây nhất đã có tin đồn nói về việc cung cấp tên lửa đạn đạo.
Thông tin này đã xuất hiện từ vài tháng trước, nhưng chưa bao giờ thực sự được xác minh trên địa bàn. Tuy nhiên, hồi tuần rồi, cách nay vài ngày, nhiều lãnh đạo Mỹ, đặc biệt là ngoại trưởng Anthony Blinken, có nói rõ rằng Iran đã chuyển giao 200 tên lửa đạn đạo cho Nga.
Đương nhiên, Iran chính thức phủ nhận vì hơn nữa, cả bộ Ngoại Giao và tân tổng thống đã khẳng định rằng chẳng có chuyện như thế xảy ra. Do vậy, chúng ta sẽ phải quan sát những gì đang diễn ra trên chiến trường Ukraina để xem liệu những khẳng định trên có chính xác hay không.
Tuy những thiết bị này nhìn chung có chất lượng thấp hơn so với các sản phẩm tương đương của phương Tây, nhưng chúng vẫn cho phép Lực lượng Vũ trang Nga (FAR) được cung cấp tương đối đầy đủ. Nếu như ba nguồn cung này đã có thể giúp Nga duy trì cuộc chiến với một cường độ lớn chưa từng có, thì cả ba đối tác của Nga cũng hưởng được lợi từ kinh tế, chính trị cho đến quân sự trong việc hợp tác quân sự với Nga.
Tổng thống Vladimir Putin dường như phải chịu một số nhượng bộ, chấp nhận chia sẻ nhiều kỹ thuật, công nghệ quân sự tùy theo nhu cầu của mỗi đối tác – những « bí quyết » quân sự cho đến trước khi có cuộc xung đột tại Ukraina, Nga chưa bao giờ sẵn sàng cung cấp. Chuyên gia về Nga, Igor Delanoe, giải thích tiếp với RFI Tiếng Việt :
Igor Delanoe : Đối với Trung Quốc, chúng tôi nhận thấy khối lượng trao đổi thương mại giữa Nga và Trung Quốc, theo đúng nghĩa đen, đã tăng vọt trong năm 2023. Trao đổi mậu dịch giữa hai nước đã đạt gần 240 tỷ đô la, một con số thực sự to lớn (…)
Rồi Nga đã giúp thúc đẩy chương trình không gian của Bình Nhưỡng, bởi vì không lâu sau chuyến thăm Bắc Triều Tiên của ông Vladimir Putin, Bình Nhưỡng đã phóng một vệ tinh từ sân bay vũ trụ của họ, một vệ tinh quân sự, vệ tinh quan sát, hay đúng hơn là vệ tinh « gián điệp ». Ở đây, chúng ta có thể tin là có nhiều khả năng Nga đã giúp Bắc Triều Tiên (…)
Vì đây là cái giá mà Nga phải trả nên có lẽ còn thú vị hơn, khi Iran trông đợi rất nhiều từ Nga. Họ đang chờ đợi Nga chuyển giao chiến đấu cơ Su-35 và các hệ thống phòng không như S-400, cũng như các loại trực thăng tấn công.
Vẫn còn khá nhiều thứ Iran đang chờ đợi và ngoài ra còn có một bối cảnh song phương khá thú vị vào lúc hai nước đang trong quá trình triển hạn thỏa thuận về quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, mà trên thực tế, đây là một thỏa thuận hợp tác chiến lược cho 20 năm. Thỏa thuận này rất có thể sẽ được hoàn tất trong những ngày hay những tuần sắp tới.
Thế bất cân xứngViệc phải phụ thuộc một phần vào viện trợ quân sự từ Trung Quốc, Iran, và Bắc Triều Tiên ít nhiều cũng đã làm biến đổi bản chất mối quan hệ giữa Nga với ba nước này. Vị thế thống trị của Nga trong mối quan hệ song phương bị suy giảm theo những cách khác nhau với từng đối tác.
Igor Delanoe : Ở đây cần phải xem xét từng nước. Nhưng nếu chúng ta lấy Iran làm ví dụ, thì cho đến khi chiến tranh bùng nổ và trước những tiến triển mà tôi đã đề cập ở trên, trước đây rõ ràng có một sự bất cân xứng rất mạnh mẽ trong mối quan hệ giữa Nga và Iran, nhìn chung Nga luôn chiếm thế thượng phong vì nhiều lý do khác nhau. Tuy nhiên, với những gì đang diễn ra từ tháng 2/2022 và cuộc chiến tại Ukraina, và sự hỗ trợ này, dù Iran luôn phủ nhận, mối quan hệ giữa Nga và Iran đang được tái cân bằng, và sự bất xứng như nói ở trên không tồn tại theo cách tương tự.
Với Trung Quốc, mối quan hệ bất cân xứng ngày càng bị đào sâu. Một mặt, trong trao đổi thương mại giữa hai nước, lợi thế vẫn luôn nghiêng về phía Trung Quốc. Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của Nga sang Trung Quốc chỉ chiếm từ 4-5%, trong khi chiều ngược lại, con số này lên đến gần 40%. Cũng theo phân tích của ông Igor Delanoe, Trung Quốc giờ cũng không còn phụ thuộc nhiều vào công nghệ của Nga như trong những năm 1990 – 2000.
Igor Delanoe : Họ đã tiếp thu được rất nhiều công nghệ và bí quyết của Nga. Đương nhiên, vẫn còn nhiều phân khúc, nhiều lĩnh vực mà Matxcơva vẫn là một đối tác quan trọng của Bắc Kinh, chẳng hạn như động cơ cho máy bay chiến đấu. Rồi còn có những lĩnh vực mà Nga vẫn chiếm ưu thế như các công nghệ có liên quan đến ra-đa phát hiện sớm cho hệ thống tên lửa đạn đạo. Trong những lĩnh vực này, Nga vẫn đi trước Trung Quốc một bước.
Câu hỏi đặt ra là liệu Nga có sẵn sàng chia sẻ với Trung Quốc loại công nghệ này hay không ? Ông Putin cách nay hai năm từng đề cập đến điều này khi giải thích rằng Nga và Trung Quốc có thể hợp tác xây dựng một hệ thống chung, hay chia sẻ mọi thứ. Kể từ đó, chúng tôi chưa thấy có gì mới cả.
Việc Nga mở rộng hợp tác quân sự với Trung Quốc, Iran và Bắc Triều Tiên sẽ tác động ra sao đến các cuộc xung đột đang diễn ra tại Ukraina và Gaza ? Theo nhận định của ông Igor Delanoe với RFI Tiếng Việt, điều này phụ thuộc một phần vào lập trường các nước phương Tây sẽ đưa ra liên quan đến việc cung cấp vũ khí mới hay cho phép Ukraina sử dụng các thiết bị đã được chuyển giao để tấn công các vị trí nhạy cảm nằm sâu trên lãnh thổ Nga.
Igor Delanoe : Nói cách khác, nếu Mỹ cho phép Ukraina oanh kích bằng tên lửa của Mỹ chẳng hạn nhắm vào vùng Matxcơva hay các thành phố của Nga, hoặc căn cứ quân sự Nga, cho đến hiện tại vẫn chưa bị ảnh hưởng, một phần phản ứng của Nga rất có thể sẽ là cung cấp thiết bị hay tên lửa cho các phe phái, các nhóm chống lại những lợi ích của phương Tây tại châu Phi, Trung Đông hay nhiều nơi khác. Điều này là hoàn toàn có thể. Hiện tại chúng ta chưa thấy gì, nhưng cũng không thể loại trừ khả năng này trong tương lai.
Xuất khẩu vũ khí của Nga : Nạn nhân liên đới ?Liệu người ta có thể nói đến sự hình thành một trục liên minh bốn nước chuyên chế Trung Quốc – Nga – Iran – Bắc Triều Tiên mà giới chuyên gia tại Pháp gọi tắt là CRIC hay không ? Chuyên gia về quốc phòng Nga Igor Delanoe lưu ý có sự khác biệt về bản chất trong các mối quan hệ Nga – Trung và quan hệ Nga – Iran – Bắc Triều Tiên.
Igor Delanoe : Iran và Bắc Triều Tiên thuộc về điều mà chính quyền tân bảo thủ của ông Bush từng gọi là « Trục Ma quỷ » vào đầu những năm 2000. Hai nước này, vì nhiều lý do khác nhau, nằm trong tầm ngắm của Washington từ nhiều thập niên qua, và chính bản thân họ cũng xem Mỹ là một kẻ thù cho sự tồn tại, một kẻ thù chiến lược cơ bản trong việc thể hiện mối tương quan lực lượng. Và điều này thật sự chẳng có gì mới, ngoại trừ việc phát triển hợp tác kỹ thuật – quân sự với Nga, mà tôi cho là nhằm củng cố hơn nữa luận điệu này của hai nước đó, cũng như là niềm tin của họ trong mối tương quan lực lượng này.
Nếu như Trung Quốc không đi xa hơn trong việc hậu thuẫn quân sự cho Nga một phần là vì những lợi ích kinh tế to lớn vẫn còn ràng buộc Bắc Kinh với Washington trong nhiều lĩnh vực tài chính, thương mại…, thì ông khổng lồ châu Á này dường như cũng muốn san bằng ảnh hưởng của Mỹ trong vùng lân cận, và do vậy, việc thắt chặt hợp tác với Nga cũng được phát triển theo chiều hướng chống phương Tây.
Igor Delanoe : Hiện tại, Trung Quốc vẫn còn neo bám trong hệ thống tài chính và kinh tế do phương Tây điều hành. Tôi muốn nói đến đồng đô la, Ngân hàng Thế giới, ngân hàng Mỹ v.v… Nhưng hiển nhiên, về mặt chính trị, có một dạng mong muốn hay một sự cám dỗ muốn tránh xa một chút tất cả những điều đó và bắt tay với Nga trong các hình thức đa phương khác như nhóm BRICS hay các mô hình Á-Âu, nhằm đa dạng hóa các mối quan hệ của mình, đặc biệt là với Nga.
Cuối cùng, câu hỏi đặt ra là liệu việc chia sẻ một số kỹ thuật, công nghệ mà Nga vẫn giữ cho đến giờ như là một công cụ ngoại giao để gây ảnh hưởng có tác động ra sao đến vị thế thống trị của Nga trên thị trường vũ khí ? Tính đến năm 2022, 2023, Nga nằm luôn nằm trong top 3 nước xuất khẩu vũ khí hàng đầu thế giới. Nếu như Mỹ luôn bỏ xa các đối thủ, thì trong bảng sắp hạng Nga đứng hàng thứ hai, đôi khi là ba.
Tuy nhiên, việc phải ưu tiên cho chiến trường Ukraina đã có những ảnh hưởng tiêu cực đến ngành xuất khẩu vũ khí của Nga, theo như quan sát của nhà địa chính trị học về Nga, Igor Delanoe.
Igor Delanoe : Do nhu cầu to lớn này của quân đội Nga trên chiến trường, Nga buộc phải ưu tiên cung cấp cho quân đội trên địa bàn. Hệ quả là khách hàng của tổ hợp công nghiệp – quân sự Nga sẽ phải chờ để nhận một số hệ thống vũ khí hay một số đơn đặt hàng sẽ bị tạm đóng băng. Mặt khác, vấn đề các biện pháp trừng phạt của phương Tây cũng đã cản trở một số nước hợp tác với tổ hợp công nghiệp – quân sự Nga, với các hãng vũ khí của Nga. Điều này chắc chắn có những tác động to lớn.
Vậy ai được lợi từ tình huống này ? Đó là những đối thủ cạnh tranh trực tiếp, không hẳn là Mỹ, do họ không có cùng phân khúc thị trường với Nga, mà là những quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ. Những nước này có thể ký hợp đồng với những quốc gia trước đây từng là khách hàng của Nga, ví dụ như những gì Ấn Độ đang thực hiện ở Armenia.
Trung Quốc cũng có những thiết bị rõ ràng có giá không cao như với thiết bị của Mỹ, Pháp hoặc các nước khác, chúng rẻ hơn và dễ tiếp cận hơn đối với các nước phía Nam, các nước Châu Phi, các nước Trung Đông hoặc thậm chí cả các nước châu Á, những nước mà trước đây từng trang bị vũ khí của Nga và giờ có thể mua vũ khí từ Trung Quốc.
Ngược lại, Pháp chẳng hạn, thật thú vị là Pháp cũng tận dụng được hiệu ứng này để bán máy bay chiến đấu. Vì vậy, ở những nước mà trước đây máy bay Su-35 Nga có thế cạnh tranh, Pháp rất có thể sẽ đạt nhiều hợp đồng hơn với máy bay Rafale. Ai sẽ giành được hợp đồng? Quả thật, có sự cạnh tranh giữa các công ty quốc phòng của Nga và Pháp. Phía Pháp thực sự có thể tiến những con tốt của mình nếu tính đến nhu cầu của Nga trên chiến trường và các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga hiện nay.
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà nghiên cứu Igor Delanoe, phó giám đốc Đài Quan sát Pháp – Nga.
Ngày 05/09/2024, tổng thống Nga cho biết ông sẵn sàng đàm phán hòa bình với Ukraina. Ba ngày sau, ngày 08/09, thủ tướng Đức Olaf Scholz, trong cuộc phỏng vấn dành cho kênh truyền hình ZDF, kêu gọi gia tăng các nỗ lực ngoại giao để sớm chấm dứt xung đột. Phải chăng thời điểm cho đàm phán hòa bình đã đến ?
Thất bại thỏa thuận Istanbul : Lỗi ở phương Tây ?Tại một diễn đàn kinh tế với sự hiện diện của hai quan chức cao cấp Malaysia và Trung Quốc, tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố để ngõ cánh cửa đàm phán với Ukraina « dựa trên các tài liệu đã được nhất trí và thực sự được ký tắt tại Istanbul », Thổ Nhĩ Kỳ, hồi mùa xuân 2022, vài tháng sau khi Nga phát động « chiến dịch quân sự đặc biệt » xâm lược Ukraina.
Vào thời điểm đó, Kiev và Matxcơva được cho là đã gần đạt được một thỏa thuận, theo đó, Ukraina đồng ý cắt giảm quy mô quân đội, từ bỏ ý định tham gia Liên minh Bắc Đại Tây Dương – NATO nhưng được tự do theo đuổi tư cách ứng viên gia nhập Liên Hiệp Châu Âu.
Cuộc đàm phán này cuối cùng đã thất bại mà theo cáo buộc của nguyên thủ Nga tại diễn đàn kinh tế, là do phương Tây thúc ép Ukraina bác bỏ thỏa thuận. Tổng thống Putin nêu đích danh thủ tướng Anh lúc đó là Boris Johnson, « đã đến Kiev và đưa ra chỉ thị cho Ukraina phải chiến đấu đến người lính cuối cùng. Và đó là những gì đang diễn ra với mục tiêu là có được thất bại chiến lược của Nga ». Những cáo buộc cho đến giờ Ukraina vẫn phủ nhận.
Ngoài ra, tổng thống Nga còn gợi ý rằng ba nước Brazil, Ấn Độ, và Trung Quốc có thể làm trung gian cho các cuộc đàm phán mới để chấm dứt chiến tranh. Tuyên bố này của chủ nhân điện Kremlin làm dấy lên nhiều nghi vấn trong giới quan sát : Liệu mong muốn của ông Putin đàm phán chấm dứt chiến tranh có chân thành hay không ?
Điều kiện ngặt nghèoĐây không phải là lần đầu tiên ông Vladimir Putin đề cập đến việc đàm phán với Ukraina. Vào cuối tháng 5/2024, trong chuyến thăm Belarus, tổng thống Nga để ngỏ khả năng đàm phán, nhưng phải dựa trên « tình hình thực tế » và trên cơ sở những điểm đã thống nhất trong những tuần đầu tiên của cuộc chiến, « chứ không phải trên cơ sở những gì một bên muốn », hàm ý nhắc đến bản kế hoạch hòa bình 10 điểm do tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky đề xuất.
Sau đó, vào ngày 14/06/2024, phát biểu tại bộ Ngoại Giao Nga, tổng thống Vladimir Putin một lần nữa nhắc lại, Matxcơva sẵn sàng đàm phán một lệnh ngưng bắn nhưng với các điều kiện : Kiev phải từ bỏ ý định gia nhập NATO và rút hết quân ra khỏi bốn vùng đã bị sáp nhập vào Nga là Donetsk, Luhansk, Kherson và Zaporijia.
Đó là những điều kiện mà bà Christine Dugoin-Clément, chuyên gia phân tích địa chính trị, nhà nghiên cứu Viện Rủi ro, đại học Paris-Sorbonne, trên đài RFI Pháp ngữ (09/09/2024) đánh giá là hoàn toàn bất lợi cho Ukraina.
« Những gì mà người ta thường nghe, thường được đề cập đến là một công thức kiểu Istanbul mà ở đó, Nga có thể dễ dàng nói rằng họ luôn mở rộng cửa cho các cuộc đàm phán, giống như một sự đầu hàng với những điều khoản được cho là dễ chấp nhận. Trong khi những gì Ukraina đề nghị thì bị xem là không hợp lý và do vậy không thể là đối tượng cho cuộc thương lượng hay một cuộc họp từ phía Nga như ông Dmitri Peskov ( phát ngôn viên điện Kremlin ) đã nhiều lần nói đến. »
Nga cũng không phải là bên duy nhất đề cập đến việc nối lại các cuộc thương lượng. Tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky trả lời giới truyền thông trong nước hồi trung tuần tháng 7 từng tuyên bố rằng « phái đoàn Nga có thể tham gia hội nghị hòa bình lần hai ».
Ông Zelensky còn đề xuất dự án vì một « nền hòa bình công bằng », khi giữ lại ba điểm trong thông cáo cuối cùng của hội nghị hòa bình ở Thụy Sĩ : Trả tự do cho các tù nhân, tự do lưu thông ở Hắc Hải và an ninh năng lượng. Mong muốn này của ông một lần nữa được khẳng định trong cuộc phỏng vấn dành riêng cho truyền thông Pháp vào đầu tháng Tám.
Xin nhắc lại là, trong hội nghị hòa bình thứ nhất do Ukraina tổ chức ở Thụy Sĩ vào trung tuần tháng Sáu, Nga không được mời dự, và Trung Quốc đã vắng mặt.
Tuy nhiên, những động thái này của nguyên thủ Nga, của tổng thống Ukraina và gần đây nhất là của thủ tướng Đức Olaf Scholz dường như phần nào phản ảnh tình hình khó khăn trên chiến trường của quân đội Ukraina.
Đại tá Peer de Jong, phó chủ tịch Viện Themiis, trả lời nhà báo Vincent Roux, trong chuyên mục Quan Điểm của báo Le Figaro, ghi nhận tình trạng mệt mỏi chung từ nhiều tháng qua giữa các bên tham chiến.
« Tôi nghĩ rằng không chỉ Nga, Ukraina mệt mỏi mà cả phía châu Âu nữa, bởi vì nước Đức, ngoài việc thúc đẩy Ukraina đàm phán với Nga, trong tuần rồi họ còn thông báo sẽ giảm một nửa nguồn đóng góp tài chính cho Ukraina. Rõ ràng có nhiều thông tin được đưa ra buộc các bên chủ chốt, đặc biệt là tổng thống Zelensky, phải nhận thấy thực tế là cần phải bắt đầu thảo luận. Do vậy, sự mệt mỏi của châu Âu, Nga, và Ukraina thực sự là một yếu tố tiềm năng cho đàm phán. »
Nhưng phải chăng Ukraina đang lặp sai lầm từ cuộc phản công mùa xuân tháng 6/2023, khiến nhiều lữ đoàn đã bị tiêu diệt, khi tấn công vào vùng Kursk trên lãnh thổ Nga từ hôm 06/08/2024 ? Trang Responsible Statecraft, thuộc Viện Quincy, một cơ quan tư vấn độc lập tại Mỹ, nhận định chiến dịch này của Ukraina đã thất bại:
« Ukraina không chiếm được một trung tâm dân cư hay nút giao thông quan trọng nào của Nga. Sự việc có thể làm ông Putin bối rối nhưng không làm lay chuyển được quyền lực của ông. Chúng có thể nâng cao tinh thần người dân Ukraina nói chung, nhưng theo tường thuật của phương Tây từ vùng miền đông, chiến dịch này không làm cho tinh thần quân đội Ukraina ở đó thêm hào hứng. »
… và chiếc bẫy « Kursk »Mục tiêu chuyển hướng lực lượng địch, chủ yếu từ Pokrovks và Kurakhove, đã bất thành. Để thực hiện cuộc tấn công, Ukraina đã điều động từ ba đến bốn lữ đoàn – những đơn vị tinh nhuệ nhất – lên phía bắc, để lại ở chiến trường miền đông là những binh sĩ mới nhập ngũ, thiếu kinh nghiệm và thiếu cả động lực.
Cũng trên chương trình Point de Vue của báo Le Figaro, đại tá Peer De Jong nói đến chiếc bẫy cho quân Ukraina:.
« Nếu như họ không ở lại Nga, chỉ cần ở lại 10 ngày, điều mà người ta gọi là đánh nhanh, rút gọn, họ phá hủy mục tiêu và họ lui quân, thì đây là một chiến dịch tốt. Ở đây, họ tái hiện mô hình trận Bakhmuth, họ đào hào và tự chôn mình. Trên thực tế, đây là một chiến dịch trên bộ, nhưng vấn đề ở đây là Nga đang thúc đánh ở miền trung, 4 hay 5 lữ đoàn Ukraina hiện đang ở phía bắc trong khi miền trung thì thiếu quân.
Điều này củng cố ý tưởng về một cuộc đàm phán bởi vì trên thực tế, điều chúng ta sẽ thấy là Nga làm ra vẻ đang đẩy mạnh tiến quân vào khu vực trung tâm Donetsk, họ đang tiến về phía tây nhưng thực tế không hẳn là vậy. Họ không thực hiện một nỗ lực lớn nào cả, rồi họ lặng lẽ rút đi, họ chỉ tiến hành một dạng hoạt động phòng thủ, họ để cho Ukraina đóng quân ở đó, có nghĩa là hiện nay, chiến dịch Kursk đã khiến hai, ba đến bốn tiểu đoàn bị kẹt lại ở phía bắc.
(…) Nga rất tinh khôn, điều này mang đến cho ông Zelensky cơ hội để đàm phán một số điểm để đổi lấy vùng Donbass, vùng này sẽ bị bỏ rơi và ông Zelensky sẽ bỏ rơi Donbass. Ông Zelensky sẽ nói rằng, nghe đây, hãy để tôi rút đi, tôi sẽ để lại cho quý vị phần đất này. Một hình thức trao đổi lãnh thổ. »
Nhìn từ bản đồ, những vùng lãnh thổ mà Nga chiếm đóng giờ chạy dọc theo sườn đông của Ukraina kéo dài đến tận Biển Đen cùng với bán đảo Crimée. Matxcơva cũng đã thành công phần nào trong việc tạo được một sự liên tục giữa lãnh thổ Nga và các vùng chiếm đóng.
Vậy phải chăng Nga đã đạt được mục tiêu chiến tranh ? Hiện tại việc ngăn chặn mọi cơ hội Ukraina gia nhập NATO vẫn chưa đạt được. Nhưng với sự trợ giúp quân sự từ các đồng minh thân thiết là Iran, Bắc Triều Tiên và nhất là Trung Quốc, quân đội Nga có thể gia tăng các chiến dịch oanh kích vào các mục tiêu dân sự, « khủng bố » tinh thần người dân và gây thêm nhiều bất lợi cho phía Ukraina vào lúc nguồn viện trợ từ phương Tây cũng bắt đầu suy giảm do những khó khăn về kinh tế, chính trị tại nhiều nước đồng minh của Kiev.
Chiến tranh cũng có nguy cơ lan rộng vào lúc Mỹ và một số nước đồng minh xem xét cho phép Ukraina sử dụng vũ khí tầm xa do họ cung cấp để tấn công các mục tiêu quân sự nằm sâu trong lãnh thổ Nga.
Nhưng khi cho rằng các bên có thể « bắt đầu nghĩ đến đàm phán », thì đàm phán có thể nhiều năm nữa mới bắt đầu và kéo dài nhiều năm, mà bài học chiến tranh Việt Nam là một ví dụ điển hình. Đại tá Peer De Jong nhắc lại, Hoa Kỳ đã mất gần như 7-8 năm trước khi thoát được khỏi « tổ ong vò vẽ » Việt Nam, bởi vì, « đàm phán kéo dài có lợi cho bên này và bên kia, và trong trường hợp này là có lợi cho Trung Quốc và Bắc Việt ».
Chiến tranh khi nào kết thúc ? Câu hỏi này hiện khó thể trả lời. Một điều chắc chắn, như tựa đề một bài viết trên Foreign Affairs, đó là « Putin sẽ không bao giờ từ bỏ Ukraina » chừng nào cảm giác bất an cho an ninh của ông và chế độ Nga hiện nay chưa được xóa tan. Do vậy, phương Tây cũng không thể thay đổi được nước cờ của ông Putin, và họ chỉ có thể trông chờ ông ấy ra đi mà thôi !
Nếu như các nước đồng minh của Mỹ bày tỏ quan ngại trước nguy cơ Donald Trump trở lại Nhà Trắng và nếu như Bắc Kinh vẫn chưa có những bình luận chính thức về cuộc đọ sức Trump - Harris, thì giới chiến lược gia tại Trung Quốc không mấy ảo tưởng về một sự thay đổi đáng kể trong chính sách của Washington đối với Bắc Kinh.
Trung Quốc thích chính quyền Harris hay là một chính quyền Trump thứ hai ? Hay nói rộng hơn, Bắc Kinh thích đảng Dân Chủ hay đảng Cộng Hòa ? Trang Foreign Affairs ngày 01/08/2024 nhắc lại năm 1972, khi tiếp tổng thống Richard Nixon, chủ tịch Mao Trạch Đông đã từng nói rằng ông thích cánh hữu ở Mỹ và các nước phương Tây khác.
Mặc dù Mao không giải thích vì sao, nhưng theo nhận định giới quan sát, trong nhãn quan Bắc Kinh thời đó, các nhà lãnh đạo phương Tây thiên hữu chú ý nhiều đến lợi ích kinh tế và an ninh quốc gia, trong khi chính sách của các chính trị gia cánh tả có xu hướng dựa nhiều hơn vào ý thức hệ và các giá trị chính trị.
Dân Chủ hay Cộng Hòa, bên nào có đóng góp to lớn cho quan hệ Mỹ - Trung ? Thật khó mà đánh giá. Kể từ khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập vào năm 1949, qua bảy đời tổng thống Dân Chủ và bảy đời tổng thống Cộng Hòa, quan hệ Mỹ - Trung đã có những đột phá nhưng không ít lần gặp khủng hoảng.
Nhưng bất kể ai sẽ là chủ nhân Nhà Trắng sắp tới, Kamala Harris hay Donald Trump, đối với các nhà quan sát Trung Quốc, thay vì đưa ra các giải pháp thay thế cho đất nước và thế giới, cả hai đảng lớn ở Mỹ hiện nay đều có chung một cách tiếp cận đối với Trung Quốc, xuất hiện trong tám năm gần đây và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các mối quan ngại chính trị trong nước.
Cùng mục tiêu, khác chiến thuậtDonald Trump với câu thần chú « Nước Mỹ trên hết », nhằm đáp ứng mối quan tâm của cử tri về toàn cầu hóa và nhập cư, đã gia tăng các rào cản thương mại, hạn chế nhập cư và giới hạn sự tham gia của Mỹ trong các định chế quốc tế, để ưu tiên cho lợi ích kinh tế và an ninh quốc gia của Mỹ. Kết quả là Trung Quốc từ một đối tác thương mại bị xem là một « thế lực xét lại », là đối thủ cạnh tranh chiến lược và thậm chí là một mối đe dọa. Quan hệ Mỹ - Trung từ đó xuống cấp trầm trọng, nhất là từ sau đại dịch Covid-19.
Nhưng cách tiếp cận này của ông Trump cũng đồng nghĩa với việc Washington mất dần uy tín và các đòn bẩy trong việc phối hợp với các quốc gia khác về chính sách riêng của Mỹ đối với Trung Quốc, dẫn đến việc chính quyền Trump đã không xây dựng và không dẫn đầu một mặt trận đa phương mạnh mẽ chống Trung Quốc.
Chính quyền Biden, với câu nói « chính sách đối ngoại dành cho tầng lớp trung lưu », cũng cân nhắc những chính sách đối nội tương tự của Donald Trump, nhưng có thêm chiều hướng quốc tế khi cân bằng lại các chính sách công nghiệp trong nước và các quy tắc kinh tế quốc tế để thúc đẩy những lợi ích quốc gia. Nghĩa là ông Biden ngoài việc siết chặt thêm một số biện pháp đưa ra từ thời Donald Trump, còn có các lập trường đi xa hơn trong một số vấn đề.
Tuy nhiên, dù cạnh tranh quyết liệt với Trung Quốc nhưng Joe Biden vẫn duy trì các kênh liên lạc cấp cao thường xuyên và tìm kiếm các lĩnh vực hợp tác. Nếu như ông Joe Biden trong suốt nhiệm kỳ tổng thống chưa bao giờ đặt chân đến Bắc Kinh như người tiền nhiệm, thì nguyên thủ Mỹ cũng đã hai lần gặp trực tiếp đồng nhiệm Trung Quốc Tập Cận Bình tại Bali, Indonesia tháng 11/2022 và tại San Francisco, Mỹ tháng 11/2023.
Đôi bên cam kết duy trì mối quan hệ song phương ổn định và lành mạnh. Mong muốn này còn thể hiện rõ qua một loạt các cuộc gặp bí mật giữa Jake Sullivan, cố vấn an ninh quốc gia của Nhà Trắng với ngoại trưởng Trung Quốc Vương Nghị, mà cuộc gặp mới nhất là hồi cuối tháng 8/2024 ở Bắc Kinh.
Cuộc gặp này diễn ra vào lúc cuộc bầu cử Mỹ có những biến chuyển quan trọng : tổng thống Mỹ Joe Biden bất ngờ rút khỏi cuộc đua và thông báo ủng hộ phó tổng thống Kamala Harris, một nhân vật cho đến lúc này Bắc Kinh vẫn chưa hiểu rõ, theo như nhận định của ông Trầm Đinh Lập, giáo sư danh dự ngành Quan hệ Quốc tế đại học Phục Đán, Thượng Hải, trên kênh truyền hình Bloomberg ngày 19/08/2024.
Trung Quốc : Đối thủ lớn của Mỹ trong thập kỷ tớiNhìn chung, Trung Quốc chiếm một vai trò ngày càng lớn trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong những năm gần đây. Bất chấp các cuộc xung đột Nga – Ukraina, Israel - Hamas ở dải Gaza, Trung Quốc vẫn là ưu tiên hàng đầu trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Và dường như có một sự đồng thuận lưỡng đảng ở Washington xem Trung Quốc là một đối thủ lớn.
Câu hỏi đặt ra : Chủ nhân tương lai của Nhà Trắng sẽ có chính sách ra sao với Trung Quốc ? Hiện tại Bắc Kinh vẫn chưa có phản ứng gì về việc ông Biden rút khỏi cuộc đua. Phát biểu chính thức là Trung Quốc « không bình luận chuyện nội bộ » nước Mỹ. Tuy nhiên, các chiến lược gia Trung Quốc không mấy hy vọng có những thay đổi đường hướng trong chính sách của Washington đối với Bắc Kinh trong thập kỷ tới.
Nếu tái đắc cử, ông Trump gần như chắc chắn tiếp tục theo đuổi chính sách thương mại cứng rắn hơn với Trung Quốc khi đề xuất áp thuế lên đến 60% đối với tất cả hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc, cũng như là hủy bỏ « Quy chế Thương mại Bình thường Vĩnh viễn » dành cho Bắc Kinh từ năm 2000, cho phép Trung Quốc tiếp cận thị trường Mỹ một cách dễ dàng. Đây có thể sẽ là một ác mộng lớn cho chính quyền ông Tập Cận Bình vào lúc nền kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn.
Ông kêu gọi biến khái niệm « sân nhỏ, rào cao » của chính quyền Biden – chỉ nhằm bảo vệ các ngành công nghệ mũi nhọn, mới nổi, qua các biện pháp an ninh mạnh mẽ cho phép tách biệt nhiều ngành công nghệ khỏi Trung Quốc – thành học thuyết « sân lớn, rào cao ». Nhưng với sở thích « trọng thương », nhà tỷ phú Mỹ cũng có thể theo đuổi các thỏa thuận song phương với Bắc Kinh về hàng tiêu dùng, năng lượng và công nghệ.
Donald Trump có thể sử dụng Đài Loan như một con bài mặc cả để đạt các thỏa thuận thương mại. Một lần nữa, sở thích ngoại giao song phương hơn là đa phương có thể hạn chế ông Trump huy động các đồng minh và đối tác để đối phó Trung Quốc.
Ngược lại, một chính quyền Harris có thể giúp giữ được phần lớn cách tiếp cận của ông Biden, tăng cường cạnh tranh chiến lược với Bắc Kinh và củng cố nỗ lực xây dựng liên minh với các nước phương Tây và châu Á mà ông Biden gầy dựng từ đầu nhiệm kỳ để đối trọng với Trung Quốc. So với chính sách tùy tiện, ngẫu hứng, bất thường của Trump, quả thật những chiến lược này có thể sẽ dễ dự đoán hơn cho Trung Quốc.
Harris hay Trump: Trung Quốc đã chọn phe ?Trở lại với câu hỏi, Trung Quốc thích làm việc với chính quyền nào, Kamala Harris hay là Donald Trump ? Ông Trầm Đinh Lập, giáo sư đại học Phục Đán, trả lời Bloomberg, đưa ra một số nhận xét nhưng không quên nhấn mạnh đây chỉ là quan điểm cá nhân, chứ không phải là lập trường của Bắc Kinh:
« Tất cả các nhà lãnh đạo Mỹ đều muốn làm cho nước Mỹ thịnh vượng và an ninh hơn. Nhưng nếu lấy một phạm trù khác làm ví dụ, điều gọi là nền dân chủ thì ông Trump dường như ít quan tâm hơn. Đây là quan điểm cá nhân tôi chứ không hẳn là của toàn thể người Trung Quốc. Ông ấy nghĩ rằng Hồng Kông là vấn đề chủ quyền của Trung Quốc, vậy tại sao Hoa Kỳ lại phải quan tâm nhiều đến điều đó ? Tôi nghĩ Biden và bà Harris sẽ giải quyết vấn đề này theo một cách khác.
Rồi Trump có thể nện Trung Quốc nếu nước này không làm cho ông ấy đạt được mục tiêu đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại, nếu Trung Quốc không mua nhiều hàng Mỹ hơn trong ngắn hạn, ông ấy sẽ làm cho Trung Quốc bị mất thể diện… Còn đảng Dân chủ thì sẽ cố gắng cân bằng trong khi tìm cách để Trung Quốc mua nhiều hơn nhưng cũng nỗ lực giảm một số thuế quan mà ông Trump áp đặt nhưng đã bất thành. Theo tôi, ông ấy thiếu khả năng lãnh đạo ».
Trung Quốc sẽ có cách xử lý ra sao nếu Trump tái đắc cử hay bà Kamala Harris lên cầm quyền ? Về điểm này, ông Trầm Đinh Lập giải thích:
« Trong 10 năm qua, Trung Quốc cố gắng xây dựng quan hệ đối tác thân thiện với Mỹ. Tôi cho rằng điều này vẫn nằm trong tư duy của giới lãnh đạo Bắc Kinh theo như những gì tôi biết. Chúng tôi muốn hợp tác với Mỹ, muốn có quan hệ đối tác lớn hơn trong nhiều vấn đề như đối thoại quân sự, trao đổi văn hóa, ngoại giao gấu trúc và chống ma túy cũng như là quan hệ đối tác về biến đổi khí hậu.
Nhưng chúng tôi đang vấp phải nhiều khó khăn. Và Trung Quốc đổ lỗi cho Hoa Kỳ. Nhưng theo quan điểm cá nhân của tôi, Trung Quốc cũng đang rút ra nhiều bài học từ hậu quả cuộc cạnh tranh như vậy. Trung Quốc hiện đang cố gắng điều chỉnh lập trường của mình. Vì vậy, nếu ông Trump đắc cử nhiệm kỳ hai, tôi nghĩ rằng Trung Quốc sẽ có lập trường thông minh hơn, có nguyên tắc hơn trong việc đối phó với nhiệm kỳ hai của ông Trump. Tôi cho rằng Trung Quốc sẽ đạt được kết quả tốt hơn so với nhiệm kỳ đầu tiên của ông ! »
Những nhận xét này của ông Trầm Đinh Lập, tuy chỉ là quan điểm cá nhân, có lẽ cũng phần nào phản ảnh chọn lựa của giới tinh hoa Bắc Kinh. Tuy nhiên, các tác giả bài viết trên Foreign Affairs cho rằng, theo quan điểm của Trung Quốc, các chính sách về Trung Quốc của Mỹ, chính quyền Trump nhiệm kỳ hai, hay là chính phủ Kamala Harris dường như đều sẽ nhất quán về mặt chiến lược. Hai ứng viên này, với tư cách là tổng thống, đều sẽ đặt ra những thách thức và bất lợi cho Trung Quốc, nhưng đều không muốn xảy ra xung đột quân sự lớn, hoặc cắt đứt mọi liên hệ kinh tế và xã hội. Do vậy, Bắc Kinh khó có thể có một ưa thích rõ ràng hơn.
Hơn nữa, Trung Quốc có những động lực mạnh để duy trì mối quan hệ ổn định với Mỹ, tránh đối đầu hay gián đoạn. Vào lúc cuộc đua giành chức tổng thống Hoa Kỳ 2024 đang nóng bỏng, giới chức Bắc Kinh đã có những nhận xét thận trọng và dè dặt về vấn đề này khi chỉ mô tả cuộc bầu cử là « chuyện nội bộ của Mỹ ».
Dù vậy, Bắc Kinh cũng cảnh báo, chính phủ Trung Quốc « kiên quyết phản đối bất kỳ ai đưa vấn đề Trung Quốc và gây tổn hại đến lợi ích của nước này vì mục đích bầu cử », đồng thời kêu gọi hai đảng ở Hoa Kỳ « không nên phát tán thông tin sai lệch bôi nhọ Trung Quốc (…) ». Điều đó báo hiệu rằng Bắc Kinh có thể cảm thấy buộc phải phản ứng, ít nhất trong các phát biểu, nếu bị tấn công trong các chiến dịch tranh cử tại Mỹ!
Từ ngày 03-13/09/2024, Đức giáo hoàng Phanxicô sẽ thăm bốn nước Đông Nam Á và châu Đại Dương, bao gồm Indonesia, Papua New Giunea, Timor Leste và Singapore. Chuyến đi dài nhất này, gần 33 ngàn cây số, đi qua 4 quốc gia và 2 châu lục, diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn 10 ngày, đặt ra nhiều câu hỏi về tính khả thi cho vị giáo hoàng đã 87 tuổi, phải đi lại bằng xe lăn và có nhiều vấn đề về sức khoẻ.
Thông tin này đã được hoan nghênh không chỉ từ các Giáo hội Công Giáo ở các nước này, mà từ cả các lãnh đạo chính quyền và lãnh đạo các tôn giáo khác. Chuyến đi của Đức giáo hoàng Phanxicô đang được mọi người ở các nước này mong đợi.
Điều đáng tiếc là trong chuyến tông du này, Việt Nam không nằm trong số các điểm đến của Ngài bất chấp những chuyển biến trong năm nay : Việt Nam vừa cho phép Tòa thánh đặt văn phòng đại diện thường trực, cũng như việc tiếp xúc đều đặn của « tổ công tác hỗn hợp » giữa Tòa Thánh và Việt Nam để tiến tới thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Phải chăng các nước được chọn trong chuyến tông du này đều có mục đích? Linh mục Phạm Hoàng Dũng, từ Liège, Bỉ giải thích:
Theo lịch trình công bố của Phòng báo chí Vatican, Đức Phanxicô sẽ có 4 bài diễn văn chính thức và khoảng 16 bài giảng trong các thánh lễ. Chuyến đi này còn là cơ hội để Tòa Thánh bày tỏ những quan điểm của mình : Từ ngày lên địa vị giáo hoàng, Đức Phanxicô luôn kêu gọi những mục tử, những người hợp tác với ngài trong chức giám mục, linh mục đi đến các vùng ngoại vi (périphérie) để loan báo Tin mừng.
Khái niệm vùng ngoại vi trong ngôn ngữ châu Âu dùng để chỉ nơi kết thúc của một thành phố, thường là những khu dân cư phức tạp, nơi mà nạn nghèo đói và các tệ nạn xã hội lan tràn. Và vì thế những con người của Đức Ki-tô phải đi đến và hiện diện ở những nơi đó để trình bày Tin mừng của Chúa.
Nhưng vùng ngoại vi không chỉ giới hạn về mặt địa lý, mà nó còn mở rộng ra cả không gian chính trị, tôn giáo và kỹ thuật công nghệ, nơi mà các tôn giáo gặp gỡ để cùng xây dựng thế giới, nơi các chính sách chính trị không loại trừ con người và công nghệ mới không phá hủy nhưng xây dựng thế giới tốt đẹp hơn.
Chuyến đi Mông Cổ năm 2023 là một ví dụ điển hình cho chủ trương này của Ngài. Gặp gỡ với các tôn giáo đặc trưng của Mông Cổ, Đức Phanxicô đã kêu gọi hợp tác gìn giữ và phát triển văn hoá bản sắc, nhất là sự bền vững của thảo nguyên nơi cộng đồng nhân loại cùng sinh sống.
Indonesia và khẩu hiệu « Đức tin-Tình Huynh đệ-Lòng Cảm thương »Chuyến đi đến các nước châu Á đã được chuẩn bị từ năm 2020 cùng với những chuyến đi đến các nước Phi châu. Hai lục địa này có số tín hữu gia tăng không ngừng và có thể nói đây là tương lai của Giáo hội Công giáo.
Thủ đô Jakarta sẽ là điểm dừng đầu tiên. Ngài là vị giáo hoàng thứ ba, sau Đức Phaolô VI (1970) và Đức Gioan-Phaolô II (1989) đặt chân đến Indonesia, quốc gia lớn nhất, đông dân nhất Đông Nam Á và có tín đồ Hồi giáo đông nhất thế giới 270 triệu người, tức chiếm đến 87% dân số Indonesia, trong khi số người theo Ki-tô giáo chiếm khoảng 11%.
Theo Hồng y Ignatius Suharyo Hardioatmodjo, giáo phận Jarkarta, hai tổ chức Hồi giáo lớn nhất nước này là Muhammadiyah và Nahdlatul Ulama, « rất cởi mở và khoan dung ». Chính vì điều này, ban tổ chức đã lấy khẩu hiệu Đức tin-Tình Huynh đệ-Lòng Cảm thương (Faith-Fraternity-Compassion) làm chủ đề cho chuyến thăm.
Nhân chuyến thăm này, đường hầm Terowongan Silaturahmi dài 28,3m sẽ được tổng thống Joko Widodo khánh thành trong tháng Tám này. Đường hầm nối liền Nhà thờ Chính toà Đức Mẹ Mông Triệu và Đền thờ Hồi giáo Istiqlal lớn nhất Đông Nam Á. Đây chính là biểu tượng cho cơ hội bắc cầu đối thoại với Hồi giáo tại đất nước vạn đảo.
Papua New Guinea và những yếu tố bất ổnPapua New Guinea, nơi Đức Phanxicô từng hy vọng viếng thăm năm 2020 nhưng bị đại dịch Covid-19 ngăn trở, sẽ là chặng dừng chân thứ hai, nhưng đây cũng là một điểm đến chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn.
Thứ nhất, Vị khâm sứ Toà thánh, người gánh vai trò chính trong việc chuẩn bị cho chuyến đi, chỉ mới được bổ nhiệm hồi tháng 3/ 2024 sau khi vị trí này bị để trống một thời gian dài.
Kế đến, từ đầu năm nay, bạo lực và bất ổn xã hội bùng phát và diễn tiến theo hướng trở nên trầm trọng. Vào tháng giêng 2024, việc cắt giảm lương của các nhân viên an ninh và đề xuất thay đổi thuế đã làm bùng phát bạo lực ở nhiều thành phố tại một đất nước có khoảng 10 triệu dân, làm hơn 22 người thiệt mạng. Thủ tướng Lames Marape đã phải ban hành tình trạng khẩn cấp trong 14 ngày. Sự việc này, theo Hồng y John Ribat, “đã phá hủy tất cả những gì mà người dân Papua New Guinea đã xây dựng trong suốt 49 năm sau khi giành độc lập”.
Thêm vào đó là xung đột giữa các bộ lạc trên những vùng cao nguyên, gây chết chóc ngày càng nhiều do sự gia tăng sử dụng các vũ khí hiện đại. Những vùng cao nguyên này xa xôi hẻo lánh, nhưng có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, kể cả vàng.
Nhưng bất ổn tại Papua New Guinea còn nảy sinh giữa những nhóm theo Ki-tô giáo (bao gồm Công giáo, Tin lành). Theo điều tra, có 98% người Papua New Giunea tự nhận theo Ki-tô giáo. Vì thế, những người theo Tin Lành đã vận động để thay đổi Hiến pháp theo đó Papua New Guinea sẽ là nước Ki-tô giáo. Nhưng các nhóm Công giáo chống đối; xem hành động này là “lỗi thời và gây rối loạn xã hội”.
Hội đồng giám mục nước này đã gửi một lá thư chỉ trích đến Ủy ban Cải cách Hiến pháp và luật pháp : “Mặc dù Papua New Guinea đã có Kinh thánh trong Hạ viện từ năm 2015 và tự hào rằng có hơn 90% là người theo đạo Thiên chúa, chúng tôi không thấy có sự giảm bớt nào về tham nhũng, bạo lực, tình trạng vô luật pháp và hành vi xúc phạm trong các cuộc tranh luận của Quốc Hội”.
Ủy ban chuẩn bị hy vọng sẽ không xảy bất ổn có thể dẫn đến việc phải hủy bỏ chuyến đi. Papua New Guinea là một quốc gia biển đảo bị ảnh hưởng trầm trọng do biến đổi khí hậu như lũ lụt, hạn hán và mực nước biển dâng cao. Những chủ đề này gần gũi với Đức Phanxicô, sẽ được nêu lên khi Ngài đề cập đến vấn đề “chăm sóc ngôi nhà chung của chúng ta” như đã nói đến trong thông điệp Laudato si’ và tông huấn Laudate Deum.
Đông Timor và những nghịch lý của chuyến điĐông Timor, còn được gọi là Timor-Leste, nổi bật trong bốn điểm dừng chân trong chuyến đi của Đức Giáo hoàng Phanxicô. Dân số 1,3 triệu người của quốc gia này là 97% theo Công giáo. Đông Timor tách ra khỏi Indonesia từ năm 2002, nên có thể nói đây là vị giáo hoàng thứ hai đến nước này, vì đức Gioan-Phaolo II đã đến thủ đô Dili vào năm 1989.
Cộng đoàn công giáo Đông Timor mang dấu ấn của Đức cha Carlos Filipe Ximenes Belo, giám mục của hòn đảo, người đoạt giải Nobel Hòa Bình do vai trò của ngài trong việc giành độc lập, nhưng sau đó bị tố cáo đã lạm dụng tình dục một số trẻ em địa phương.
Khoảng 700.000 người - hơn một nửa dân số - dự kiến sẽ dự Thánh lễ của Giáo hoàng vào ngày 10 tháng 9 tại thủ đô Dili.
Tuy nhiên, việc chi ra đến 12 triệu đôla để đón tiếp giáo hoàng đã gây ra nhiều chỉ trích, vì 42% dân số Đông Timor sống dưới mức nghèo đói,không đủ lương thực. Theo Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO), Đông Timor đang phải đối diện với những thách thức nghiêm trọng về an ninh lương thực. Lạm phát thì cao và biến đổi khí hậu thì đã làm giảm sản lượng ngũ cốc, đẩy khoảng 364.000 người ( 27% dân số ) vào tình trạng thiếu thốn lượng thực nghiêm trọng từ tháng 5 đến tháng 9.
Những người chống đối còn cáo buộc chính phủ của thủ tướng Xanana Gusmão ưu tiên cho các nghi lễ mà không quan tâm đến các ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Mặc dù vậy, hầu hết người Công giáo đều vui mừng về chuyến thăm của Đức Giáo hoàng.
Singapore: Cửa ngõ để vào Trung Quốc ?Chặng cuối của chuyến đi của Đức Phanxicô sẽ là Singapore, nơi mà cách nay 38 năm vào năm 1986 đức Gioan-Phaolo II đã từng đặt chân đến.
Ban tổ chức đã lấy khẩu hiệu Hiệp nhất và hy vọng (Unity Hope) làm chủ đề cho chuyến viếng thăm. Theo báo chí, Singapore như cách cửa mở vào vùng đất rộng lớn là Trung Quốc, vì Singapore có cộng đồng người Hoa theo Công giáo đóng vai trò quan trọng cả về chính trị và kinh tế.
Singapore còn là một trung tâm tài chính và công nghệ không chỉ của vùng Đông Nam Á mà của cả thế giới. Ngày cuối cùng ở Singapore, Đức giáo hoàng sẽ gặp gỡ và chúc lành cho những người cao tuổi sống tại Saint Joseph’s Home và Villa Francis Home, sau đó là cuộc gặp với các giáo sĩ và tu sĩ cao tuổi trước khi có cuộc gặp khác với giới trẻ.
Điều đó như là một thông điệp về một xã hội phát triển nhưng không gạt sang bên lề những con người “khác”: người già, người thiếu phương tiện…
An ninh: Vấn đề hóc búaĐảo quốc Singapore được coi là một trong những quốc gia ổn định nhất thế giới về mặt chính trị. Nhưng ngay cả ở đây, chặng cuối trong chuyến thăm của Giáo hoàng, vẫn có những rủi ro.
Mối đe dọa chính không đến từ bên trong thành phố thịnh vượng với khoảng năm triệu dân, mà từ khu vực rộng lớn hơn. Tại nước láng giềng Malaysia, nơi có phần lớn dân số theo đạo Hồi, các nhóm chiến binh dự trù tổ chức các cuộc biểu tình phản đối chuyến thăm của Giáo hoàng từ ngày 11 đến 13/09. Tại nước này, trạng tâm lý chống Israel gia tăng mạnh trong bối cảnh cuộc chiến ở Gaza.
Aruna Gopinath, từng là giáo sư tại Đại học Quốc phòng Malaysia, đã thẳng thắn nói với UCA News rằng "Giáo hoàng đã chọn sai thời điểm để đến [Singapore]".
"Với việc Singapore được coi là ủng hộ Israel, chuyến thăm của Giáo hoàng chắc chắn sẽ kích động các nhóm ủng hộ Hồi giáo cực đoan", bà nói. "Cần phải có sự quan sát toàn diện ở Malaysia".
Các chuyên gia khác nhấn mạnh khả năng xảy ra một cuộc tấn công đơn độc, như ở Indonesia, do những cá nhân bị kích động từ các tổ chức như Nhà nước Hồi giáo hoặc al-Qaeda.
Một báo cáo đánh giá mối đe dọa được công bố trong năm nay cho biết "mặc dù không có dấu hiệu nào cho thấy một cuộc tấn công sắp xảy ra, nhưng mối đe dọa khủng bố đối với Singapore vẫn ở mức cao".
Thành công trước khi bắt đầu ?Chưa thể nói gì bởi vì việc chuẩn bị cho một một chuyến đi dài và lâu của một vị giáo hoàng 87 tuổi có nhiều vấn đề về sức khoẻ thì rất phức tạp. Phức tạp không chỉ về chi phí cho chuyến đi mà còn về mặt an ninh trong tình hình thế giới bất ổn hiện nay. Tuy thế, điều có thể cảm nhận được là sự sẵn sàng và lòng hiếu khách của các tín hữu Công giáo hay không Công giáo và của các nhà lãnh đạo các tôn giáo và chính phủ ở các nước này.
Nhân chuyến đi của Đức Giáo Hoàng, những nước xung quanh như Philippines hay Việt Nam cũng như Hồng Kông gởi phái đoàn sang Singapore. Điều này mở ra một cánh cửa cho một chuyến đi khác của ngài đến các quốc gia mà chưa từng có vị Giáo hoàng nào đặt chân đến: Việt Nam và Trung Quốc.
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Linh mục Phạm Hoàng Dũng, từ Liège, Bỉ.
Nếu có một nước nào phải theo dõi sát sao và với đầy nỗi lo lắng một trục Nga – Trung ngày càng được củng cố, thì đó chính là Nhật Bản. Bị giới hạn về địa lý và chịu sức ép từ gánh nặng lịch sử, Nhật Bản có nguy cơ đối mặt cùng lúc với hai đối thủ cường quốc hạt nhân, thậm chí có thể là ba, nếu bao gồm cả mối đe dọa Bắc Triều Tiên trong vùng Đông Á.
Nỗi lo này đã được thể hiện rõ trong Sách Trắng quốc phòng thường niên « Quốc phòng Nhật Bản 2024 », được công bố ngày 12/07/2024, cho rằng Nhật Bản « đang phải đối mặt với một môi trường an ninh nghiêm trọng và phức tạp nhất kể từ khi kết thúc Đệ Nhị Thế Chiến ».
Lần đầu tiên Tokyo cảnh báo trực tiếp về « khả năng một tình huống nghiêm trọng tương tự như cuộc xâm lược Ukraina của Nga xảy ra ở khu vực Ấn Độ - Thái Bình Dương trong tương lai, đặc biệt là ở vùng Đông Á », ám chỉ đến những hoạt động quân sự của Trung Quốc xung quanh đảo Đài Loan.
Đài Loan và mối lo an ninh cho Nhật BảnTheo nhận định của Yoshinaga Kenji, cựu sĩ quan tình báo của Cơ quan Điều tra An ninh và Lực lượng Phòng vệ Biển Nhật Bản, với trang The Diplomat, « phần đầu của Sách Trắng quốc phòng năm nay, mô tả tình hình an ninh xung quanh Nhật Bản, là phần căng thẳng nhất trong lịch sử Sách Trắng, khi xét đến cuộc chiến xâm lược kéo dài của Nga tại Ukraina, áp lực quân sự ngày càng lớn của Trung Quốc đối với Đài Loan và việc Bắc Triều Tiên triển khai vũ khí hạt nhân chiến thuật ».
Lập trường đối ngoại cứng rắn cùng với đà trỗi dậy mạnh mẽ năng lực quân sự của Bắc Kinh đặt Tokyo trước một thách thức chiến lược lớn chưa từng có. Bộ trưởng Quốc Phòng Nhật Bản Kihara Minoru mở đầu Sách Trắng với đánh giá « không quốc gia nào có thể tự bảo vệ an ninh của mình ». Ông nhấn mạnh đến sự cần thiết tăng cường hợp tác với các quốc gia có cùng chí hướng mà Tokyo chia sẻ các giá trị phổ quát và lợi ích chiến lược.
Nhật Bản bày tỏ « quan ngại nghiêm trọng » về các hoạt động quân sự của Trung Quốc trên toàn khu vực xung quanh Nhật Bản, từ biển Hoa Đông – đặc biệt xung quanh quần đảo Senkaku đang tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc – cho đến biển Nhật Bản, Tây Thái Bình Dương, nhất là xung quanh Đài Loan, trước nguy cơ « xảy ra căng thẳng quân sự giữa Trung Quốc và Đài Loan, do những hoạt động quân sự ngày càng tăng từ phía Bắc Kinh ».
Về điểm này, nhà nghiên cứu địa chính trị Valérie Niquet, chuyên gia về Trung Quốc thuộc Quỹ Nghiên cứu Chiến lược FRS, trong một chương trình tranh luận trên đài phát thanh France Culture (18/05/2024), đưa ra một số phân tích :
« Đài Loan có một vị thế quan trọng cả về mặt ý thức hệ, cho thấy một mô hình dân chủ vẫn có thể tồn tại trong thế giới Trung Hoa, điều mà Tập Cận Bình hoàn toàn phủ nhận, và cả về mặt chiến lược, vì Đài Loan là chốt chặn lối ra Thái Bình Dương và do vậy không thể để cho Đài Loan rơi vào tay Bắc Kinh. Đó là chưa nói đến người dân.
Câu hỏi lớn được đặt ra ở đây là mối quan hệ chiến lược quốc phòng giữa Nhật Bản với Hoa Kỳ. Các căn cứ chính của Mỹ ở châu Á đều nằm ở Nhật Bản và chủ yếu ở quần đảo Okinawa, nằm ở tuyến đầu đối diện với Đài Loan, (với 53.000 lính Mỹ).
Hòn đảo cuối cùng, Yonaguni, nằm gần nhất với đảo cực tây của Nhật Bản, chỉ cách bờ biển Đài Loan khoảng 100 km, nên thực sự Nhật Bản ở trên tuyến đầu. Hơn nữa, khi Trung Quốc tập trận để gây áp lực với Đài Loan, vào lúc bà Nancy Pelosi thăm Đài Loan cách đây không lâu, 5 hay 6 quả tên lửa, tôi quên mất con số chính xác, đã rơi vào vùng đặc quyền kinh tế ở Biển Nhật Bản. Đây rõ ràng còn là lời cảnh báo đối với Nhật Bản, gây áp lực buộc nước này không được đi quá xa. »
Nga - Trung hợp tác quân sự : « Cơn ác mộng » cho Nhật BảnNhưng điều làm Tokyo đặc biệt lo lắng là khả năng Bắc Kinh và Matxcơva siết chặt hơn nữa quan hệ hợp tác quân sự. Tokyo xem những cuộc tập ném bom chung và tuần tra hải quân chung thường xuyên giữa hai cường quốc này là « nhằm mục đích phô trương sức mạnh chống Nhật Bản ».
Đây không phải là lần đầu tiên Nhật Bản cho thấy nỗi bất an về quan hệ hợp tác Nga - Trung. Trang South China Morning Post ngày 27/11/2023 trích dẫn một báo cáo an ninh của Viện Nghiên cứu Quốc Phòng (NIDS), một tổ chức tư vấn trực thuộc bộ Quốc Phòng Nhật Bản, cho thấy một trong những nỗi lo sợ lớn nhất của Tokyo là hai cường quốc này thực sự trở thành đồng minh quân sự.
Dưới thời thủ tướng Shinzo Abe (2012-2020), Nhật Bản đã nỗ lực thiết lập một chính sách đối ngoại hòa dịu với Nga. Cố thủ tướng Abe đã có gần 30 cuộc gặp với tổng thống Vladimir Putin nhằm gầy dựng một mối quan hệ tin cậy, một mặt là để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên quần đảo Kuril, dưới sự kiểm soát của Nga từ năm 1945.
Vùng « Lãnh thổ phương bắc » này, theo cách gọi của Nhật Bản, có một vị trí chiến lược, nằm ở phía bắc đảo Hokkaido và là chốt chặn cửa biển Okhotsk. Nhưng nỗ lực này của ông Abe chẳng mang lại kết quả : Nga không những không nhượng một tấc đất lãnh thổ nào mà còn tăng cường sự hiện diện quân sự trên quần đảo, bố trí 3500 binh lính và nhất là lắp đặt các hệ thống tên lửa địa đối không S-300 vào cuối năm 2020.
Mặt khác, theo phân tích của nhà địa chính trị học Céline Pajon, Viện Quan hệ Quốc tế Pháp (IFRI) trên báo Libération ngày 25/03/2022, ông Abe còn nhắm đến mục tiêu chiến lược xa hơn. Khi tìm cách xích lại gần Putin, thủ tướng Nhật Bản hy vọng tránh để Nga rơi vào quỹ đạo Trung Quốc, hay chí ít là ngăn chặn việc hình thành một mặt trận Nga - Trung chống Nhật Bản trong các vấn đề lãnh thổ và lịch sử.
Một lần nữa ông Abe lại gặp thất bại. Matxcơva lệ thuộc ngày càng nhiều vào Bắc Kinh về kinh tế và hai bên có những cam kết hợp tác quân sự chưa từng có. Quân đội Nga và Trung Quốc tiến hành nhiều cuộc tập trận quy mô lớn tại vùng Viễn Đông, tổ chức các cuộc tuần tra chung xung quanh Nhật Bản, khiến Tokyo phải lo lắng.
Trước nguy cơ phải đối mặt với cùng lúc hai cường quốc hạt nhân Nga – Trung trong các vấn đề tranh chấp lãnh thổ, và thậm chí có thể có bên thứ ba là Bắc Triều Tiên, tháng 12/2022, chính phủ của thủ tướng Fumio Kishida công bố ba tài liệu chiến lược quan trọng : Chiến lược An ninh Quốc gia (NSS), Chiến lược Phòng thủ Quốc gia (NDS) và Chương trình Tăng cường Phòng thủ (DBP).
Theo nhiều nhà quan sát tại Pháp, cuộc chiến xâm lược Ukraina do Nga phát động đã có những tác động đáng kể đến việc vạch ra chiến lược an ninh cho Nhật Bản. Tài liệu NSS đánh giá Trung Quốc như là một « thách thức chiến lược chưa từng có » và xem Bắc Triều Tiên là một « mối đe dọa nghiêm trọng hơn và sắp xảy ra ». Nhưng, nước Nga, không giống như trong phiên bản NSS năm 2013, cùng sự phối hợp chiến lược của Matxcơva với Bắc Kinh, giờ được xác định là « mối quan tâm sâu sắc về an ninh ».
AUKUS: Giải pháp để thoát gọng kềm Nga – Trung ?Nhật Bản còn thông báo tăng đáng kể ngân sách quốc phòng với mục tiêu từ đây đến năm 2027 đạt mức chi tiêu quân sự 2% GDP như các nước thành viên Liên minh Quân sự Bắc Đại Tây Dương NATO. Đáng chú ý là lần đầu tiên Nhật Bản cho biết tham vọng sở hữu năng lực phản công, để nước này thực hiện các cuộc tấn công trả đũa nhằm vào lãnh thổ đối thủ.
Giáo sư Tsuyoshi Goroku, ngành Quan hệ Quốc tế và Kinh tế, trường đại học Nishogakusha, trong cuộc trả lời phỏng vấn dành riêng cho Quỹ Nghiên cứu Chiến lược (FRS) của Pháp hồi tháng 3/2024, lưu ý bước tiến lịch sử này, « không phải là một sự đảo ngược đột ngột các nguyên tắc chính sách quốc phòng truyền thống của đất nước. Đúng hơn đó là một sự thừa nhận của Tokyo về môi trường an ninh ngày càng xấu đi của Nhật Bản. Điều này là kết quả của một loạt những thay đổi tăng dần trong suốt hai thập niên qua. Tuy nhiên, việc Nga vô cớ xâm lược Ukraina là một lời cảnh báo cho Nhật Bản, củng cố những đánh giá ảm đạm và thúc đẩy hơn nữa những thay đổi này ».
Vị giáo sư Nhật Bản thừa nhận đất nước ông đã hưởng được một nền an ninh và sự thịnh vượng trong khuôn khổ trật tự quốc tế dựa trên các luật lệ. Nhưng việc Nga và Trung Quốc có tham vọng thay đổi trật tự đó khiến Nhật Bản cảm thấy bất an. Trong suốt hai năm qua, thủ tướng Fumio Kishida nhiều lần cảnh báo « Ukraina hôm nay rất có thể sẽ là Đông Á ngày mai » và « an ninh của châu Âu và vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương là không thể tách rời ».
Và cảm giác bất an này dường như được đông đảo công luận Nhật Bản chia sẻ. Giáo sư Tsuyoshi Goroku giải thích :
« Sau cuộc xâm lược của Nga, một số cuộc thăm dò dư luận cho thấy công chúng Nhật Bản ngày càng lo sợ an ninh của Nhật Bản đang bị đe dọa. Ngoài ra, một cuộc khảo sát do tờ Nikkei thực hiện vào tháng 3 năm 2022 cho thấy 77% số người được hỏi "lo ngại" nếu cộng đồng quốc tế không ngăn chặn được cuộc xâm lược của Nga và việc thay đổi biên giới, điều này sẽ dẫn đến việc Trung Quốc sử dụng vũ lực chống Đài Loan. Liệu cuộc xâm lược của Nga và thành công có thể của cuộc chiến này có khuyến khích Trung Quốc sử dụng vũ lực hay không, đó vẫn còn là vấn đề tranh luận, nhưng công chúng Nhật Bản đã thể hiện rõ những lo ngại này. »
Trong hai ngày 16 - 17/05/2024, tổng thống Nga Vladimir Putin đã đến thăm Bắc Kinh gặp chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, cuộc gặp lần thứ 43 kể từ khi ông Tập Cận Bình lên cầm quyền năm 2012. Trong chuyến thăm này, tổng thống Nga đã đến thăm Harbin, nơi có Viện Công nghệ Quân sự Trung Quốc. Một chuyến thăm mang tính biểu tượng cao, một tín hiệu mạnh mẽ gởi đến Nhật Bản và các nước phương Tây : Nga và Trung Quốc đang thắt chặt quan hệ hợp tác, kể cả về công nghiệp vũ khí.
Trong bối cảnh này, Nhật Bản quan ngại về các hoạt động quân sự của Nga và sự phối hợp chiến lược của Nga với Trung Quốc trong vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương. Chiến tranh Ukraina kéo dài, Bắc Triều Tiên có thể sẽ can dự với việc cung cấp tên lửa và đạn dược cho Nga. Mối quan hệ hợp tác quân sự Matxcơva – Bình Nhưỡng càng làm cho môi trường an ninh Nhật Bản thêm phần u ám.
Đối diện với những mối đe dọa an ninh chưa từng có này, thủ tướng Fumio Kishida đã gia tăng các hoạt động ngoại giao, thiết lập các mối quan hệ chiến lược với nhiều nước từ châu Á đến châu Âu, từ việc mở rộng quan hệ đối tác với NATO, cho đến việc để ngỏ khả năng tham gia liên minh quân sự AUKUS, hiện quy tụ ba nước Anh, Mỹ và Úc. Về điểm này, nhà địa chính trị học Valerie Niquet nhận định :
« Ưu điểm lớn của AUKUS so với các đối tác khác: đây là một liên minh Anglo-Saxon và do vậy sẽ không làm Washington tức giận, vì Úc và Anh là những đồng minh rất thân thiết của Mỹ và Nhật Bản đã ký kết những thỏa thuận hợp tác trao đổi, chẳng hạn như tạo điều kiện thuận lợi cho các cuộc tập trận chung với cả Úc và Anh.
Hơn nữa, chúng ta không thể quên một thực tế là việc tham gia một phần vào liên minh AUKUS, không liên quan đến khía cạnh hạt nhân, mà có lẽ là trụ cột đầu tiên như người ta nói về hợp tác công nghệ đối với Nhật Bản, cũng có yếu tố uy tín theo nghĩa Nhật Bản trở lại với trường quốc tế với tư cách là một tác nhân chính, cả trong lĩnh vực công nghiệp quân sự, điều vẫn chưa có trên phương diện xuất khẩu vũ khí ».
Trong gần một tuần, bạo động đã nổ ra tại nhiều thành phố ở Vương Quốc Anh sau vụ một thanh niên 17 tuổi tấn công bằng dao làm thiệt mạng ba bé gái tại Southport, tây bắc nước Anh. Chính phủ của thủ tướng Keir Starmer quy trách nhiệm cho những nhóm cực hữu đứng sau các cuộc bạo loạn.
Nguyên nhân sâu xa của vụ việc này là gì ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà báo Nguyễn Giang, định cư lâu năm tại Anh Quốc.
**********
RFI Tiếng Việt : Trước hết, anh có thể giải thích rõ thêm về nguyên nhân thực sự của những vụ bạo loạn ? Phải chăng di dân luôn là vấn đề « nhạy cảm » tại Anh Quốc ?
Nhà báo Nguyễn Giang : Mười ngày bạo động, đốt phá ở chừng 10 thành phố, thị trấn của xứ Anh (England) và Bắc Ireland cho thấy có hàng loạt vấn đề trước mắt và lâu dài mà chính phủ của Công đảng phải giải quyết. Đó là sự hoạt động kín của các nhóm dùng mạng xã hội, là thái độ bài ngoại, phân biệt chủng tộc âm ỉ trong dân bản địa Anh đã lâu, là các vấn đề kinh tế khó khăn, câu chuyện di dân, người nhập cư và cả bệnh tâm thần và tệ nạn say xỉn, nghiện ngập.
Đầu tiên là việc những kẻ theo phái cực hữu, dân tộc chủ nghĩa Anh nghe theo những lời kêu gọi lan truyền trong các cộng đồng mạng dùng chatapp khép kín, người không được mời không thể tham gia, để tổ chức các đợt tấn công vào khách sạn có người nhập cư, tỵ nạn được chính quyền cho tạm cư. Họ cũng nhân đó đốt phá xe cảnh sát, đập cửa tiệm, ném gạch đá vào một số ngôi đền Hồi giáo ở những vùng mà căng thẳng sắc tộc đã có sẵn.
Nhắc lại đợt bạo loạn tương tự năm 2011 ở Anh, các tờ báo lớn đều cho rằng chỉ xử phạt, bỏ tù những kẻ gây rối thôi sẽ không giải quyết được gốc rễ của vấn đề tha hóa trong thanh thiếu niên thất nghiệp, sự nghèo nàn về sinh hoạt cộng đồng và các căn bệnh xã hội bấy lâu nay ở các đô thị thua thiệt trong kinh tế.
Cảnh sát Anh cáo buộc nhóm cực hữu English Defence League đứng sau cuộc bạo loạn. Anh có thể cho biết rõ thêm về nhóm cực hữu này ? Chủ trương hành động của họ là gì?
Nhà báo Nguyễn Giang : Nhóm cực hữu này đã bị cấm từ 10 năm qua, nhưng các nhà báo Anh khi đến các điểm bạo loạn thì họ nhận ra là có các thành viên cũ của English Defence League (EDL) tham gia đốt phá, hoặc đứng ngoài xem, quay video. Cựu thủ lĩnh của tổ chức này là Tommy Robinson thì không ở Anh nhưng vẫn có thể phát biểu qua mạng xã hội thúc giục những người tin theo ông ta ra tay.
Cũng phải nói rằng báo chí Anh vẫn trích dẫn lời Tommy Robinson để hiểu ra vì sao ông ta và những kẻ bài ngoại nói và làm như vậy. Điều đáng chú ý là EDL không còn chính thức hoạt động, nhưng các lập luận của họ vẫn có ảnh hưởng nhất định trong một số giới. EDL cũng không phải là tổ chức công khai phân biệt chủng tộc, bài Do Thái như một số đảng cực hữu ở châu Âu.
Trái lại, họ nói là văn hóa bản địa của người Anh bị đe dọa bởi hai thứ: một là làn sóng dân nhập cư quá cao, hàm ý người Hồi giáo và châu Phi, và hai là thái độ thờ ơ, bỏ mặc của tầng lớp trên ở Luân Đôn, gồm cả chính phủ và giới truyền thông.
Dù bị luật chống khủng bố Terrorism Act 2000 cấm, những cựu thành viên của tổ chức này vẫn tuyên truyền trên mạng xã hội, đôi khi trả lời phỏng vấn đài báo chính thống như SkyNews. Họ có cả các nhóm thân hữu tập hợp người Do Thái, người theo đạo Sikh và LGBT.
Trong vụ việc này, chính phủ thủ tướng Keir Starmer còn quy trách nhiệm cho các mạng xã hội. Thực hư cáo buộc này là gì ?
Nhà báo Nguyễn Giang : Điều đáng nói là bạo loạn nổ ra đúng 9 tháng sau khi Anh thông qua Luật An toàn mạng (Online Safety Act) nhằm ngăn chặn việc lan truyền tin giả qua các nhóm dùng mạng khép kín. Thế nhưng trong vụ việc mới đây, tin giả nói thủ phạm chém chết ba bé gái ở Southport, Anh Quốc “là người di dân vừa vào Anh bất hợp pháp” đã lan tỏa rất nhanh, thúc đẩy làn sóng bài ngoại lên cao.
Sự thật là hung thủ sinh ra ở Anh chứ không phải người nhập cư, nhưng điều đó không được các nhóm phân biệt chủng tộc nghe theo. Đây là bằng chứng cho thấy trong một xã hội tự do, việc giám sát mạng xã hội rất khó và sắp tới, chính phủ của Thủ tướng Kier Starmer nói sẽ làm chặt hơn, nhưng sẽ không dễ, ví dụ như luật Anh cấm tuyên truyền kỳ thị chủng tộc, chống di dân nhưng không ai cấm cả các công ty điều tra dư luận và đài báo hỏi dân chúng về thái độ của họ đối với người nhập cư.
Trên thực tế, nhiều người dân ở Anh gồm cả người không phải gốc bản địa Anh cũng lo rằng kinh tế khó khăn, nhà ở đang thiếu mà làn sóng di cư trái phép cứ tiếp tục thì gánh nặng cho chi tiêu công sẽ tăng, trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng đến đời sống của họ. Sự thất vọng trong cuộc sống đẩy cao tâm lý nghi kỵ, bài xích người khác họ.
Trong vụ việc gần nhất đây, hiện tượng người Hồi giáo ở một số vùng phải đứng ra bảo vệ cơ sở tôn giáo của họ cũng bị phe bài ngoại cho rằng cảnh sát chỉ bênh người Hồi giáo và bắt giữ toàn người gốc Anh bản địa, khiến cho tình hình thêm căng thẳng. Phải tới cuối tuần qua, số người biểu tình chống phân biệt chủng tộc, gồm rất nhiều thành phần sắc tộc, xã hội, mới tụ họp đông đảo ở Luân Đôn và các đô thị khác, nêu lên tiếng nói hòa bình của đa số, khiến tình hình giảm nhiệt đi trông thấy.
Tại sao bạo động đặc biệt diễn ra dữ dội tại các thành phố Sunderland, Liverpool, Hull… , những thành phố phía bắc nước Anh ? Và đây cũng phải là lần đầu tiên những cuộc bạo loạn bài chủng tộc diễn ra ở Anh ?
Nhà báo Nguyễn Giang : Không phải ngẫu nhiên mà nơi nổ ra bạo loạn ở vùng miền Trung và Bắc nước Anh, cộng thêm một số điểm ở phía Đông Luân Đôn và ở Bắc Ireland đều là những nơi có tỷ lệ nghèo khó cao nhất nước. Ví dụ như Blackburn, Blackpool, Hartlepool, Hull, Liverpool, Manchester và Middlesbrough nằm cả trong số 10 đô thị xuống cấp, nghèo đi so với trước, theo thống kê của chính phủ trong bảng Indices of Deprivation (Hạng mục suy thoái, xuống cấp).
Tại các vùng này, nơi người nhập cư từ Nam Á đã sống cạnh người Anh mấy thế hệ nhưng việc làm ít, đầu tư công bị cắt giảm khiến căng thẳng sắc tộc thường cao hơn các vùng khá giả. Không ít gia đình người Anh sống trong cảnh vất vưởng về việc làm, về cơ hội vươn lên trong khi đầu tư công, chi phí cho xây dựng cộng đồng, hỗ trợ thất nghiệp bị cắt giảm liên tục.
Trong một số vụ bị xử tù tuần qua vì gây bạo loạn, người ta thấy có những ông già người Anh và có các thiếu niên 17-18 tuổi, trẻ nhất có em 14 tuổi, chứng tỏ những vấn đề nghiêm trọng đã bao phủ mấy thế hệ. Một em trai khác, 15 tuổi, thuộc dạng lêu lổng, đi từ North Lincolnshire tới Hull thăm bạn thì thấy bạo loạn nên tranh thủ hôi của, cũng bị xử tù. Đây không phải là những chuyện vui vì các tệ nạn khác trong giới trẻ người Anh như tỷ lệ bệnh tâm thần, nạn nghiện hút, rượu chè, nay vì các vụ bạo loạn cũng được nói tới.
Tân chính phủ Công đảng nếu không thay đổi chính sách thì sẽ khó giúp người dân trở nên lạc quan, có thái độ tích cực hơn, thay vì tâm lý bài xích, phản kháng (anti-social attitude). Cũng ở một số địa phương đó, năm 2011 đã từng xảy ra bạo loạn tương tự và đây là dấu hiệu nhiều vấn đề sâu xa chưa được các nhiệm kỳ khác nhau của chính quyền giải quyết.
Phải chăng cuộc bạo loạn đang diễn ra hiện nay minh chứng cho những gì ông David Cameron từng nói năm 2011 là chủ nghĩa đa văn hóa đã thất bại tại Anh Quốc ? Giới chính trị gia có trách nhiệm như thế nào về tình trạng hiện nay ở Anh?
Nhà báo Nguyễn Giang : Ở Anh từ lâu nay không có định nghĩa cụ thể về chủ nghĩa đa văn hóa (multiculturalism) như cách hiểu ở Đức, Pháp hay một số nước châu Âu là văn hóa người châu Âu đón nhận các dòng văn hóa của người di cư từ châu Á, Trung Đông, châu Phi tới.
Lý do là lịch sử Liên hiệp Vương quốc Anh, trên danh nghĩa, đã chứa đựng yếu tố đa văn hóa của các nhóm bản địa gốc Âu từ lâu: Anh, Scotland, Ireland, Wales, sau này thêm dân Đức, Pháp, Do Thái, và Đông Âu nên người ta cho rằng việc có các văn hóa khác như Hồi giáo, văn hóa Á Đông bổ sung nào cũng không sao cả.
Cũng vì thế, chính trị gia Anh nói khác nhau về chủ nghĩa đa văn hóa. Hồi năm 2011, ông David Cameron không tin vào điều này và cho rằng cần có một yêu cầu mạnh hơn buộc người nhập cư bỏ chủ nghĩa cực đoan để chấp nhận các giá trị của nước Anh, nhưng một cựu thủ tướng Anh khác của đảng Bảo thủ, Rishi Sunak, người gốc Ấn, lại cho rằng Anh đã rất thành công khi tạo ra “nền dân chủ đa văn hóa” (multicultural democracy).
Điều này người ta nói tới không phải là đa văn hóa nữa, vì nó khá trừu tượng mà vấn đề di dân. Một điều tra của Viện Ipsos hồi tháng 2/2024 cho thấy 52% người được hỏi ở Anh tin rằng số người nhập cư vào là quá cao, so với 42% vào năm 2022.
Trong bối cảnh này, tân chính phủ thủ tướng Keir Starmer chủ trương đường lối cứng rắn với những kẻ gây bạo loạn. Liệu thủ tướng Anh có đủ các phương tiện cũng như sự ủng hộ của người dân để thực hiện các biện pháp đó ?
Nhà báo Nguyễn Giang : Năm 2011, khi Anh nổ ra các cuộc bạo loạn lần đầu, ông Kier Starmer là trưởng công tố quốc gia và đã đích thân chỉ đạo việc xử tù những kẻ gây rối. Tuần qua, ông cũng tỏ ra cứng rắn, yêu cầu toà án, công tố viện làm việc ngày đêm để xử nhanh khoảng 150 bị cáo gây bạo loạn. Tuy thế, các báo Anh nói ở cương vị thủ tướng, ông Starmer cần có cái nhìn dài hạn và tìm giải pháp sâu rộng cho các vấn đề gốc rễ của bạo loạn tức là sự rạn nứt xã hội (social rifts). Án tù sẽ chỉ ngăn được những kẻ liều lĩnh tràn ra phố vì tức giận, nhưng không hóa giải, thuyết phục được khá nhiều người khác lo ngại về xung đột sắc tộc ở Anh.
Bạo loạn nổ ra một tháng sau khi Công đảng giành được đa số tuyệt đối trong cuộc bầu cử Nghị Viện. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử này, lần đầu tiên một đảng cực hữu là Reform UK đã có chân trong Nghị Viện Anh. Cuộc bạo loạn này phải chăng cho thấy là cũng giống như nhiều nước châu Âu lục địa, tân chính phủ Anh đang phải đối mặt trước đà trỗi dậy của phe cực hữu ?
Nhà báo Nguyễn Giang : Công đảng thắng cử vừa qua chủ yếu là vì cử tri ở Anh chán đảng Bảo thủ cầm quyền đã lâu, sau 5 đời thủ tướng trong vòng 14 năm cả thẩy, chứ không phải vì cương lĩnh tranh cử của Công đảng quá hấp dẫn. Cùng lúc, đảng Reform UK thu được 14% tổng số phiếu bầu và về nhì ở trên 90 khu vực bầu cử trên cả nước mà chỉ có 5 ghế nghị sĩ trong Hạ viện, do hệ thống bầu cử Anh tuân theo nguyên tắc « Được ăn cả ngã về không » (first-past-the post-electorial sysem). Điều này khiến một phần phe thiên hữu trong đảng Reform UK của ông Nigel Farage và cả trong đảng Bảo thủ cảm thấy họ bị thiệt thòi và đang dùng mạng xã hội đe dọa chính phủ Công đảng là “sẽ có bạo loạn còn to hơn”.
Tuy phe thiên hữu đã hiện diện công khai trong Nghị viện và có thể dùng các thủ tục lập pháp để thay đổi chính sách, nhưng họ lại thích dùng mạng xã hội để gây sức ép “ngoài luồng” lên chính phủ. Điều này đang gây đau đầu cho chính phủ Anh và cũng cho thấy phe cực hữu, thiên hữu ở Anh nói riêng và ở châu Âu nói chung ưa thích các cách đấu tranh, công kích phi truyền thống, ngoài nghị trường và các chính quyền sẽ không dễ hạn chế ảnh hưởng của họ.
Nhiều đời chính phủ gần đây đã có các chính sách siết chặt di dân nhưng bất thành. Anh có thể điểm lại sơ qua các chính sách đó và cho biết thêm tân chính phủ Anh sẽ có đối sách ra sao đối với hồ sơ di dân ?
Nhà báo Nguyễn Giang : Trong nhiều thập kỷ, Anh là quốc gia di cư, có dòng di dân đi nhiều hơn đến, tức là số người ở Anh đến các xứ sở khác sinh sống luôn cao hơn số người nhập cư. Nhưng từ năm 1994 thì Anh là nước nhận người nhập cư nhiều hơn số ra đi. Theo một số cơ quan nghiên cứu thì trong thập niên đầu tiên của thế kỷ 21, cụ thể là tính đến năm 2011, mỗi năm số người vào Anh làm việc, sinh sống cao hơn số ra đi tới 360 nghìn.
Các chính phủ qua nhiều nhiệm kỳ coi đây là quy luật đất lành chim đậu, dân số tăng thì kinh tế tăng trưởng theo, và cũng vì dòng người tới từ Liên Hiệp Châu Âu mà Anh là thành viên có quyền tới theo nguyên tắc tự do di cư trong EU nên Luân Đôn không có chính sách gì cụ thể.
Chỉ khi Brexit xảy ra thì vấn đề kiểm soát số người nhập cư mới thành vấn đề và chính phủ của đảng Bảo thủ chấp nhận trưng cầu dân ý Brexit năm 2016 một phần để tìm giải pháp tái kiểm soát biên giới, để người từ EU không thể tự do vào Anh nữa.
Tuy thế, trong một năm từ tháng 3/2019 đến tháng 3/2020 thì vẫn có trên 700 nghìn người vào Anh, trừ đi gần 400 nghìn người di cư đi nơi khác thì con số ròng vẫn là khoảng 347 nghìn. Dịch Covid có làm ngưng trệ số người vào Anh và sau khi Brexit có hiệu lực từ đầu năm 2021, số dân EU sang Anh có giảm nhưng các nhóm khác vẫn vào đều, thậm chí còn tăng cao.
Họ gồm cả người tỵ nạn chính đáng mà Anh đón về từ các vùng chiến sự, từ những nơi Anh có dính líu quân sự như Afghanistan, từ cả các nước như Việt Nam. Chính phủ Bảo thủ muốn chặn dòng người vào Anh bằng đường biển, nên đã ký với Rwanda thỏa thuận mở trung tâm cứu xét hồ sơ xin tỵ nạn ở nước châu Phi đó, nhằm làm di dân trái phép nản chí, không từ châu Âu sang Anh nữa, nhưng chính phủ Công đảng vừa lên đã xóa dự án Rwanda và nói sẽ tăng cường lực lượng chặn biên giới trên biển để ngăn các thuyền phao chở di dân từ Pháp, Bỉ bơi sang.
Cho đến nay chưa thấy chính sách này có hiệu lực, vì không nước châu Âu nào sẵn sàng nhận lại di dân bỏ nước họ sang Anh. Cũng không rõ tới đây chính phủ Anh sẽ làm gì với số người nhập cư lậu đã vào Anh, lên tới hàng trăm nghìn. Giả sử hàng nghìn người bị bác đơn xin tỵ nạn thì sẽ đưa họ về đâu, vì các nước xuất xứ sẽ không dễ dàng nhận.
Còn về thị trường lao động, Công đảng muốn giảm việc cấp visa việc làm cho nhân công nước ngoài và mở các khóa huấn luyện tay nghề cho người ở Anh làm các việc đó. Cho tới nay còn quá sớm để biết việc này triển khai ra sao và liệu có hàng trăm nghìn người ở Anh sẵn sàng đổi việc làm để lấp chỗ trống trên thị trường lao động hay chưa.
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn nhà báo Nguyễn Giang.
Trao đổi với báo chí trong nước ngày 15/07/2024, tổng thống Ukraina Volodymyr Zelensky đã để ngỏ khả năng đàm phán với Nga. Nguyện vọng này một lần nữa được nguyên thủ Ukraina nhắc lại khi trả lời phỏng vấn các hãng truyền thông lớn của Pháp. Liệu đối thoại hòa bình giữa Nga và Ukraina là có thể ?
Đây là lần đầu tiên kể từ khi Nga khởi động cuộc chiến xâm lược Ukraina vào tháng 2/2022, tổng thống Ukraina Vododymyr Zelensky đã ngỏ khả năng đàm phán hòa bình với Nga khi tuyên bố « phái đoàn đại diện Nga có thể tham gia hội nghị hòa bình lần hai ».
Hơn hai tuần sau, ngày 01/08, trước các tờ báo lớn của Pháp là Le Monde, l’Equipe và Libération, tổng thống Zelensky nhắc lại, « trong hội nghị về hòa bình lần hai sắp tới, tôi nghĩ rằng các đại diện của Nga nên có mặt ».
Một sự thay đổi ngoạn mục? Cho đến nay, tổng thống Zelensky luôn phản đối kịch liệt ý tưởng đàm phán với quân xâm lược Nga. Hội nghị hòa bình lần thứ nhất do Ukraina tổ chức tại Thụy Sĩ trong hai ngày 15-16/06/2024, đã không có sự tham dự của Nga, lẫn Trung Quốc.
Thông tin này đã được Matxcơva tiếp đón lạnh nhạt. Phát ngôn viên điện Kremlin Dmitri Peskov tuyên bố : « Hội nghị đầu tiên cho hòa bình không hoàn toàn là một hội nghị cấp cao hòa bình. Vì vậy, cần phải hiểu một cách rõ ràng những gì ông ấy (Volodymyr Zelensky) muốn đề cập đến ».
Ba điểm đàm phánNhà cựu ngoại giao Emilija Pundziute-Gallois và cũng là nhà nghiên cứu trường đại học Vytautas Magnus, Kaunas, Litva, trên đài phát thanh France Culture trước hết nhận định đây không hẳn là một cuộc đàm phán chính trị trực tiếp giữa Nga và Ukraina để tìm kiếm một lệnh ngừng bắn hay chấm dứt chiến tranh.
« Ukraina hiểu rõ Nga không có ý định đàm phán trực tiếp. Matxcơva đang áp đặt những điều kiện không thể chấp nhận được đối với Kiev, trái với các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành. Vì vậy, ý tưởng ở đây là thực hiện một cách tiếp cận toàn diện hơn, mà chúng ta có thể gọi là cách tiếp cận chuyển đổi xung đột, gạt sang một bên các vấn đề chính trị gai góc và khó giải quyết và xem xét những vấn đề nào họ có thể tiến tới để ít nhất cải thiện tình hình chung ».
Trong phát biểu ngày 15/07, tổng thống Ukraina đề xuất dự án vì một « nền hòa bình công bằng », khi giữ lại ba điểm trong thông cáo cuối cùng của hội nghị hòa bình ở Thụy Sĩ: Trả tự do cho các tù nhân, tự do lưu thông ở Hắc Hải và an ninh năng lượng.
Đây là những điểm thiết yếu cho Ukraina và cũng là một phần trong bản kế hoạch 10 điểm đã được tổng thống Zelensky trình bày vào năm 2020 tại hội nghị nhóm G20 ở Bali, Indonesia. Nếu như việc trao đổi tù nhân hay được nhắc đến trong tất cả cuộc chiến tranh, thì hai điểm sau cùng có tính chất sống còn cho Ukraina.
Đó cũng là những điểm mà ngành ngoại giao Ukraina hoạt động tích cực trên trường quốc tế. Tuy nhiên, nhà phân tích địa chính trị Christine Dugoin-Clément, chuyên gia ngành Rủi ro, trường Sorbonne Business School và Trung tâm Nghiên cứu trường Đào tạo Sĩ quan Hiến binh Quốc gia, trên đài RFI Pháp ngữ, ngày 17/07/2024, đánh giá :
« Điều chúng ta sẽ thấy là tự do lưu thông cũng sẽ tác động đến Green Deal (thỏa thuận ngũ cốc). Tất cả các thỏa thuận về trao đổi ngũ cốc, vốn phải được lưu thông trên Hắc Hải, là đối tượng chính trong các cuộc đàm phán, và những thỏa thuận này đã được gia hạn. Thổ Nhĩ Kỳ đóng vai trò trung gian vì về mặt địa lý, nước này có thể đóng cửa eo biển Bosphore.
Ngoài ra, người ta còn nhận thấy Nga thực sự gia tăng các hoạt động ở cấp độ các nước trong vùng Trung Đông và Bắc Phi (MENA), hoặc nhằm thúc đẩy các luận điệu ủng hộ cuộc chiến xâm lược, hoặc làm xấu thêm các mối quan hệ, vốn dĩ không mấy tốt đẹp, giữa các nước trong vùng với phương Tây ».
Những cuộc oanh kích của Nga đã phá hỏng nhiều cơ sở năng lượng trọng yếu, như nhà máy xử lý nước, bệnh viện, các cơ sở dân dụng... Mùa đông năm nay, Ukraina rơi vào tình trạng thiếu điện. Vấn đề cấp bách với Kiev là làm sao có thể tái thiết các cơ sở mà không lại bị bắn phá. Một thách thức lớn cho Kiev, theo như nhận định của nhà nghiên cứu về Rủi ro Christine Dugoin-Clément:
« Có hai kiểu oanh kích : Bắn phá các cơ sở hạ tầng rồi sau đó tấn công vào toàn bộ chuỗi hậu cần, cho phép sửa chữa các cơ sở hạ tầng, nhằm mục tiêu đánh mạnh các cơ sở quân sự và dân thường. Ý đồ hiển nhiên là ngăn chặn tất cả những gì có liên quan đến hoạt động quân sự nhưng đồng thời làm nhụt chí người dân khiến họ mệt mỏi vì chiến tranh và do vậy muốn đi đến đàm phán, thậm chí là thương lượng theo ý của Nga như điện Kremlin hy vọng, điều mà người ta gọi là một sự đầu hàng, hoặc trong mọi trường hợp, có được một cơ sở hậu thuẫn đủ mạnh về đàm phán đối với chính phủ hiện nay ở Ukraina. »
Không đặt điều kiện tiên quyết nhưng cũng không nhượng đấtĐiểm đáng chú ý trong phát biểu của tổng thống Ukraina, đó là ông không còn xem việc Nga rút quân như là một điều kiện tiên quyết. Marie Dumoulin, giám đốc chương trình « Châu Âu mở rộng », thuộc Hội đồng Châu Âu về Quan hệ Quốc tế (ECFR), trên trang Public Senat lưu ý điều đó cũng không có nghĩa là Volodymyr Zelensky sẵn sàng nhượng các tỉnh Donetsk, Luhansk hay Zaporijia.
Đề nghị đàm phán hòa bình này của ông Zelensky được đưa ra vào lúc các thăm dò gần đây cho thấy công luận Ukraina phần lớn ủng hộ một giải pháp đàm phán. Theo khảo sát của Trung tâm Razumkov, thực hiện cho một nhật báo Ukraina, 44% số người dân được hỏi đồng ý đàm phán với Nga so với 35% phản đối.
Tuy nhiên, có đến 83% số người thăm dò từ chối nhượng cho Nga những vùng đang diễn ra chiến sự. Về điểm này, bà Christine Dugoin-Clément, trên làn sóng RFI, lưu ý thêm :
« Cuộc thăm dò do Trung tâm Razumkov thực hiện gần đây cho thấy gần 44% người dân Ukraina không phản đối việc đàm phán với Nga. Nhưng đó là những người Ukraina không bị huy động ra chiến trường, đó là những thường dân.
Cũng cần cẩn trọng giữa đàm phán thật sự và đầu hàng theo ý của điện Kremlin, bởi vì khảo sát này còn thẩm định có đến hơn 80% người được hỏi từ chối các điều kiện của Nga. Một lần nữa xin lưu ý, đây là một cuộc thăm dò được thực hiện với dân thường.
Tuy chúng ít nhất cung cấp một cảm nhận và một cách tiếp cận, nhưng cũng đừng quên rằng trong tầm ngắm của Nga, còn có bốn tỉnh, bao gồm cả vùng Zaporijia và Kherson, có thể sẽ thuộc về Nga trong khi nước này hiện tại chưa chắc kiểm soát được toàn bộ khu vực. »
Áp lực quốc tế và nguy cơ Trump đắc cửTinh thần người dân xuống dốc trước một cuộc chiến mà Ukraina phải trả giá nhân mạng đắt đỏ khi phải đối mặt với một đối thủ mạnh hơn gấp bốn lần trong khi quân đội Ukraina không ngừng bị đẩy lui là một yếu tố không thể phủ nhận. Tuy đạo luật được ban hành ngày 02/4 hạ tuổi tòng quân từ 27 xuống 25 tuổi, quân đội Ukraina vẫn gặp khó khăn trong việc tuyển mộ binh sĩ để mở một cuộc phản công lớn.
Nhưng sự thay đổi thái độ của nguyên thủ quốc gia Ukraina còn là do áp lực của quốc tế và các đồng minh. Triển vọng Donald Trump trở lại Nhà Trắng có nguy cơ buộc Kiev phải đàm phán với Matxcơva trong những điều kiện bất lợi.
Vị tỷ phú Mỹ chưa bao giờ che giấu mong muốn chấm dứt chiến tranh « nhanh nhất có thể » mà không nêu rõ là để thực hiện điều này, ông có sẽ chấp thuận các đòi hỏi của Nga hay không. Trong viễn cảnh đó, lãnh đạo Ukraina dường như chạy đua với thời gian, thúc đẩy đàm phán nếu có thể trước cuộc bỏ phiếu ở Mỹ vào tháng 11 tới.
Tuy nhiên, theo đánh giá của Guillaume Ancel, cựu sĩ quan Pháp trên trang La Depeche, đề nghị này của tổng thống Ukraina là một thay đổi về tư thế hơn là thay đổi các kỳ vọng : « Cho đến lúc này, ông luôn yêu cầu Nga phải rút hết binh sĩ ra khỏi lãnh thổ Ukraina (bao gồm cả những vùng chiếm đóng), điều này là hợp lệ xét theo luật quốc tế. Nhưng Volodymyr Zelensky phụ thuộc rất nhiều vào sự hỗ trợ của các đồng minh và cảm thấy rằng sự hậu thuẫn này đang dần sụp đổ ».
Công luận Mỹ bắt đầu mệt mỏi và lo lắng về một cuộc xung đột bất tận, gợi nhắc đến cuộc chiến Triều Tiên. Sự sụp đổ đó còn được thúc đẩy bởi tình hình ở Gaza và tình trạng « nhất bên trọng, nhất bên khinh » mà cộng đồng quốc tế đang áp đặt – Nga bị trừng phạt, còn Israel thì không – vốn dĩ gây khó chịu cho một số nước « phương Nam ».
Nga cũng muốn chấm dứt chiến tranh ?Tổng thống Phần Lan, Alexandre Stubb, trong một diễn đàn đăng trên Le Monde, cho rằng đã đến lúc mở các cuộc đàm phán hòa bình giữa Nga và Ukraina. Cũng theo ông, thời gian đang chống lại Kiev, và phương Tây không thể chịu được lâu hơn.
Ông viết : « Trong năm năm nữa, năng lực quân sự của Nga sẽ ở mức trước khi có chiến tranh, bởi vì Nga đã biết cách thiết lập một nền kinh tế chiến tranh. Vì vậy, sẽ không có chỗ cho một sự hòa dịu đơn giản ».
Đây không phải là lần đầu tiên một lãnh đạo phương Tây gióng chuông báo động. Tháng 11/2022, tướng Mark Milley, tham mưu trưởng quân đội Mỹ, đã từng nói rõ quân đội Ukraina đã lấy lại được tối đa những vùng lãnh thổ trước đây bị Nga chiếm đóng và đã đến lúc chuyển qua ngoại giao. Ông nói, « ngay khi có một cơ hội đối thoại, ngay khi hòa bình có thể đạt được, quý vị hãy nắm lấy. Nên nắm bắt lấy cơ hội để hành động ».
Về phần phía Nga, giới quan sát ghi nhận, Vladimir Putin thường xuyên bày tỏ mong muốn đối thoại nhưng rất có thể sẽ không chấp nhận giải pháp nào ngoài việc quy hàng, nghĩa là Kiev phải chấp nhận phi quân sự hóa và trở thành nước trung lập. Nhưng giống như Ukraina, sau hơn hai năm rưỡi giao tranh, Nga cũng cần chấm dứt chiến tranhh và bắt đầu giảm bớt các tham vọng.
Ý đồ chiếm đóng rộng lớn lãnh thổ Ukraina được thông báo từ đầu chiến dịch nay dừng lại ở vùng Donbass với cái giá nhân mạng và vật chất không thể đo lường. Việc kéo dài cuộc chiến này có thể khiến ông Putin phải trả giá đắt về kinh tế và chính trị, trước nguy cơ công luận Nga xoay lưng chống lại ông !
Trong bối cảnh này, chưa có lúc nào nguy cơ Ukraina bị biến thành một bán đảo Triều Tiên thứ hai lại gần như lúc này !
Ngày 21/07/2024, Joe Biden bất ngờ thông báo rút khỏi cuộc tranh cử tổng thống Mỹ tháng 11/2024, đồng thời tuyên bố ủng hộ bà Kamala Harris đại diện đảng Dân chủ ra tranh cử. Sự xuất hiện đột ngột của phó tổng thống Mỹ trong cuộc đua vào Nhà Trắng thổi bùng ngọn gió hy vọng trong đảng Dân Chủ, nhưng cùng lúc cũng làm xáo trộn các nước cờ của cựu tổng thống Mỹ Donald Trump. Câu hỏi đặt ra : Liệu bà Kamala Harris có thể đánh bại Donald Trump ?
Nhiều tín hiệu trong những ngày qua cho thấy phó tổng thống Mỹ Kamala Harris, trừ phi có những bất ngờ vào phút chót, sẽ được đại hội Dân Chủ trong tháng Tám chỉ định là ứng viên ra tranh cử tổng thống Mỹ.
Các thăm dò mới nhất (ngày 27/07) còn khẳng định Kamala Harris đã rút ngắn khoảng cách với Donald Trump, với tỷ lệ cử tri ủng hộ chỉ thấp hơn cựu tổng thống Mỹ Donald Trump chỉ hai điểm (44/46%) khi chỉ còn 100 ngày nữa là đến kỳ bỏ phiếu chính thức. Một số thăm dò khác thậm chí còn cho thấy phó tổng thống Mỹ qua mặt Donald Trump.
Những ưu thếNếu những số liệu này phần nào xác nhận quyết định chiến lược trên của đảng Dân Chủ đang gặp hái kết quả, thì điều đó cũng cho thấy cuộc song đấu Kamala Harris – Donald Trump dự báo rất gay go. Liệu rằng bà có đủ sức đối đầu với một Donald Trump nổi tiếng với những phát biểu « quá thể » và hiếu chiến hay không ?
Bước vào cuộc đua lớn ở độ tuổi 59, bà đang mang lại nhiều hy vọng, một làn gió mới cho nhiều cử tri Mỹ khao khát một gương mặt mới, trẻ trung hơn lãnh đạo đất nước. Luôn tự hào là một người mang hai dòng máu Á – Phi, có cha là người gốc Jamaica – giáo sư kinh tế, mẹ người Ấn Độ - chuyên gia nghiên cứu về ung thư, Kamala Harris đã từng không ngần ngại đả kích Joe Biden trong một cuộc tranh luận sơ bộ của đảng Dân Chủ hồi năm 2019 về việc ông từng phản đối chính sách xóa bỏ phân biệt chủng tộc trong quá khứ, bao gồm cả việc buộc một số trẻ em phải đi xe buýt đến trường học ở xa, mà bà cũng là người nằm trong số trẻ đó.
Nếu như việc công khai khẳng định nguồn gốc giúp mang lại cho Kamala Harris « tấm vé » trở thành phó tổng thống, thì chúng lại là đích ngắm cho mọi công kích từ Donald Trump. Từ năm 2020, cựu tổng thống Mỹ đã gọi phó tổng thống Dân Chủ là « quái vật » và người « phụ nữ nóng nảy », những từ ngữ ám chỉ định kiến phân biệt chủng tộc về phụ nữ da đen.
Nếu như năm 2017, Kamala Harris được biết đến với tư cách là người phụ nữ gốc Nam Á đầu tiên trở thành thượng nghị sĩ Mỹ, là nữ thượng nghị sĩ da đen thứ hai trong lịch sử Hoa Kỳ, thì năm 2022, bà là người bảo vệ nhiệt thành quyền phá thai, khi chỉ trích mạnh mẽ một số nhà lãnh đạo đảng Cộng Hòa sử dụng luật cấm phá thai để chống phụ nữ.
Theo nhận định chung từ nhiều thành viên đảng Dân chủ, Kamala Harris là một chọn lựa hợp lý nhất. Ông Bob Vallier, phát ngôn viên của đảng Dân Chủ ở hải ngoại tại Pháp, trên làn sóng RFI tiếng Pháp nhắc lại những ưu thế của bà Kamala Harris:
« Trước hết, bà ấy từng là chưởng lý của bang California. Tiếp đến, bà ấy là thượng nghị sĩ Mỹ tại bang California trong vòng bốn năm. Rồi trong vòng từ ba đến ba năm rưỡi qua, bà là phó tổng thống Mỹ. Trong khoảng thời gian này, bà đảm trách nhiều hồ sơ lớn, dẫn đầu nhiều phái đoàn Mỹ dự các hội nghị quốc tế quan trọng như về khí hậu, trao đổi thương mại, tấn công mạng, chống khủng bố. Do vậy, bà có khá nhiều kinh nghiệm quý báu và hữu ích đối với một ai tìm kiếm vị trí tổng thống ».
Kamala Harris làm đảo lộn thế cờ của Donald TrumpMột điều chắc chắn là sự xuất hiện của Kamala Harris đang làm đảo lộn mọi kế hoạch "tác chiến" do phe Cộng Hòa vạch ra từ nhiều tháng qua. Nhà nghiên cứu về lịch sử nước Mỹ, Romain Huret, trên L’Express nhấn mạnh, « hiện tại các cuộc đả kích nhằm vào tuổi tác của Joe Biden đang xoay lại chống Trump ».
Một quan sát cũng được nhà sử học Ludivine Gilli, chuyên gia về nước Mỹ, trên kênh truyền hình quốc tế TV5 Monde, đồng chia sẻ, khi cho rằng quyết định của Joe Biden đã gây rắc rối cho chiến dịch vận động tranh cử của Donald Trump :
« Đúng là đối với Đảng Cộng hòa, không cần phải nói, vụ mưu sát là một điều tốt vì điều đó lẽ ra không thể xảy ra nhưng xét về tác động đối với chiến dịch tranh cử, vụ ám sát hụt Trump đã thực sự tiếp thêm động lực cho đảng Cộng hòa, nhất là ngay sau đó là đại hội đảng ở Milwaukee.
Nhưng thông báo rút lui của Joe Biden một mặt đã phá vỡ thế chủ động này, mặt khác hiện ngăn cản đảng Cộng hòa tiếp tục chiến dịch tranh cử với chủ đề về sự yếu kém của ứng viên đối thủ, về khả năng nhận thức yếu của Joe Biden khi đối mặt với Trump. Vì vậy, đảng Cộng hòa buộc phải điều chỉnh lại hoàn toàn chiến lược của mình để chống đảng Dân chủ, vốn là một cái gai đối với họ. »
Theo tuần báo Pháp L’Express, một dấu hiệu cho thấy một sự lo lắng lan rộng : Donald Trump ngày 29/7 đả kích kịch liệt kênh truyền hình bảo thủ Fox News đã cho phát sóng các cuộc mit-tinh của đối thủ. Cùng ngày, Donald Trump tỏ ra hoài nghi về khả năng ông tham gia cuộc tranh luận thứ hai, dự kiến diễn ra vào ngày 10/09 sắp tới.
Đối mặt với một ứng cử viên kém mình gần 20 tuổi, nhà tỷ phú Mỹ giờ đây rơi vào vị thế ứng cử viên lớn tuổi nhất trên đường chinh phục Nhà Trắng. « Chú tôi đang hoảng sợ » Mary Trump, cháu gái của tỷ phú, người chỉ trích mạnh mẽ Donald Trump, trên blog Substack The Good in US ngày 24/07 còn ghi rằng, « ông ấy đang chống lại một phụ nữ da đen mạnh mẽ – cũng là một cựu công tố viên – người không ngại chỉ trích ông hoặc chế giễu ông. Toàn bộ chiến lược tranh cử của ông ấy đều dựa trên việc tấn công Joe Biden – về tuổi tác, tình trạng ốm yếu, suy nhược nhận thức của ông ta ».
Di dân, thiếu minh bạch : Điểm yếu của Kamala Harris ?Chỉ còn chưa đầy 100 ngày nữa là đến kỳ bỏ phiếu. Liệu chiến dịch tranh cử của Donald Trump có thể điều chỉnh để thích ứng với tình thế mới ? Bảng thành tích mờ nhạt của Kamala Harris trong ba năm rưỡi ở vị trí phó tổng thống có thể là điểm bất lợi cho bà để Donald Trump và phe Cộng Hòa công kích. Nhà sử học Ludivine Gilli, trên TV5 Monde giải thích :
« Ông ấy đã bắt đầu tấn công vào cá nhân và nguồn gốc của Kamala Harris, vì bà có cả nguồn gốc Jamaica và Ấn Độ. Những cuộc tấn công này, nếu ông tiếp tục, có thể sẽ phản tác dụng đối với ông vì chúng có nguy cơ làm mất đi sự ủng hộ của các cử tri ôn hòa hơn trong đảng Cộng Hòa hoặc các cử tri độc lập.
Một chủ đề khác mà ông ấy rất có thể sẽ tập trung tấn công là vấn đề nhập cư, mà ông Trump đã từng sử dụng để chống Joe Biden và có thể sẽ tiếp tục dùng đến, vì số lượng các vụ vượt biên và bắt giữ ở biên giới ngày nay vẫn còn cao, ngay cả khi các con số đưa ra cho thấy thấp hơn những số liệu vào thời điểm cuối nhiệm kỳ của D. Trump.
Đó cũng là thời điểm nước Mỹ vừa thoát khỏi đại dịch, và do đó đại dịch đã giải thích cho những con số thấp này, nhưng Donald Trump vẫn sử dụng chúng như một lập luận tranh cử ».
Ngoài vấn đề nhập cư, đảng Cộng hòa còn chỉ trích Kamala Harris « đồng lõa » che giấu về tình trạng suy nhược nhận thức của Joe Biden. Ông Randy Yaloz, chủ tịch hội Republicans Overseas tại Pháp, trong cuộc tranh luận trên đài RFI Pháp ngữ, đã cho rằng bà Kamala Harris phải chịu trách nhiệm với tư cách là phó tổng thống Mỹ về việc đã không minh bạch về tình trạng sức khỏe của Joe Biden.
Thắng hay bại trong cuộc đua vào Nhà Trắng sẽ do những bang chủ chốt (swing-states) định đoạt như Arizona, Pennsylvania, Wisconsin, Michigan và Georgia. Nhưng cũng theo ông Randy Yaloz, việc bà Kamala Harris không khai báo về năng lực tâm thần của ông Biden, theo nghĩa vụ được quy định trong điều luật số 25 của Hiến Pháp, sẽ gây khó khăn cho bà trong việc thay đổi lá phiếu của các đại cử tri tại ít nhất ba trong số bang này.
Người liên danh: Quân cờ chủ chốt cho Harris ?Cuối cùng, ai có thể là « phó tướng » cho Kamala Harris là một câu hỏi ớn hiện nay. Hãng tin Pháp AFP lưu ý, việc tuyển chọn người liên danh còn là cơ hội lý tưởng để mở rộng cơ sở cử tri, khi chọn ra người có thể thu hút ngoài cơ sở cử tri của bà. Trên nguyên tắc đó là một quá trình kéo dài nhiều tháng, nhưng việc ông Biden thoái lui bất ngờ đã khiến cho tiến trình này bị rút ngắn.
Từ đây đến ngày 7/8, bà Kamala Harris phải thông báo tên của đối tác. Nhiều nhà quan sát chính trị dường như đồng tình về việc « phó tướng » của Kamala Harris rất có thể sẽ là một người đàn ông da trắng. Joel Goldstein, giáo sư đại học Saint-Louis tại Mỹ giải thích : « Một trong số các đặc tính của việc tuyển chọn phó tổng thống là sự tìm kiếm một kiểu cân bằng ».
Hiện tại, ít nhất có năm tên tuổi được nhắc đến liên tục, trong đó có bốn vị thống đốc Josh Shapiro (Pennsylvania), Roy Cooper (North Carolina) Andy Beshear (Kentucky) và Tim Walz (Minnesota). Tuy nhiên, theo tin mới nhất thì thống đốc North Carolina đã thông báo rút khỏi cuộc đua.
Cũng theo AFP, tiến trình chọn « phó tướng » của Kamala Harris cũng đang được theo dõi sát sao vào lúc ông James David Vance, người được Donald Trump chọn đứng liên danh đang bị chỉ trích mạnh mẽ. Uy tín của vị dân biểu bang Ohio tuột dốc sau khi xuất hiện nhiều đoạn video trong đó ông chế giễu « những người phụ nữ độc thân bất hạnh », ám chỉ đến những người phụ nữ chọn lối sống không bạn đời hay không con. Nhiều đoạn video khác cho thấy ông đả kích Donald Trump, một ứng viên mà ông thề kể từ giờ sẽ trung thành tuyệt đối.
Đối với nhà nghiên cứu Joel Goldstein, vòng xoáy mà ông J.D. Vance đang vướng phải cho thấy tiến trình chọn ứng viên phó tổng thống nhạy cảm đến mức nào.
Dù vậy, tại Mỹ, chức vụ phó tổng thống Mỹ trước hết được tạo ra là nhằm để thay thế tổng thống trong trường hợp qua đời hay từ nhiệm. Tính đến hiện tại, tổng cộng có đến 9 phó tổng thống tiếp nhận vị trí tổng thống trong những điều kiện như trên. Ngoài ra, vai trò của phó tổng thống là cực kỳ hạn chế.
John Adams, phó tổng thống đầu tiên trong lịch sử Mỹ, từng cay đắng phàn nàn trong thư gởi vợ năm 1793 : « Đất nước của anh, với sự thông thái tuyệt vời, đã thiết kế cho anh một vị trí tầm thường nhất mà Con Người nghĩ ra ».
Ngày 19/06/2024, tổng thống Nga Vladimir Putin đã họp thượng đỉnh với lãnh đạo Bắc Triều Tiên Kim Jong Un tại Bình Nhưỡng. Nhân dịp này, hai bên đã ký kết thỏa thuận quan hệ đối tác. Phương Tây, kể cả Hàn Quốc và Nhật Bản, cho rằng chuyến thăm Bắc Triều Tiên của nguyên thủ Nga đặt Bắc Kinh vào thế khó xử, nhưng phần lớn giới học giả Trung Quốc nhận định việc Nga – Triều tái lập liên minh là có lợi cho mục tiêu lớn của Bắc Kinh : Chống thế bá quyền của Mỹ!
Nga – Bắc Triều Tiên nâng cấp quan hệ là cần thiếtTheo trang The Diplomat (03/07/2024), điều duy nhất mà một bên là Mỹ cùng các đồng minh và bên kia là Trung Quốc đều đồng tình đó là chuyến thăm Bình Nhưỡng của tổng thống Putin nhằm vực dậy mối « liên minh » bằng hữu xã hội chủ nghĩa có từ hàng thập kỷ giữa Bắc Triều Tiên và Nga (trước đó là Liên Xô) là cần thiết. Matxcơva hiện đang bị cô lập và suy yếu về mặt địa chính trị, hệ quả của cuộc chiến tổng lực mà Nga tiến hành tại Ukraina.
Về điểm này, David Teurtrie, tiến sĩ địa lý, Viện Nghiên cứu Cao học Công giáo, trả lời RFI Tiếng Việt, giải thích ít nhất có hai lý do để Nga và Bắc Triều Tiên thắt chặt hơn mối quan hệ đối tác.
David Teurtrie : « Như chúng ta đã biết, Bắc Triều Tiên là một quốc gia cực kỳ khép kín và đang hứng chịu các đòn trừng phạt quốc tế từ nhiều thập niên qua. Do vậy, nước này giờ hầu như trở nên "vô cảm" với các trừng phạt, nếu Bắc Triều Tiên có hợp tác với Nga thì điều đó cũng không làm thay đổi gì nhiều cho nước này. Bắc Triều Tiên chẳng còn sợ các biện pháp trừng phạt của phương Tây, bởi vì họ đã bị các đòn trừng phạt. Đây là điểm thứ nhất.
Điều thứ hai, Bắc Triều Tiên là một nước đã được quân sự hóa rất cao và có khả năng sản xuất số lượng lớn vũ khí, nhất là đạn pháo. Tuy nhiên, dù Nga sản xuất đạn pháo nhiều hơn của phương Tây, rõ ràng nước này muốn có thể sử dụng ngay một lượng lớn đạn pháo để giành lợi thế ở Ukraina và sau đó có lẽ cũng để tái lập kho dự trữ của mình.
Trong bối cảnh này, Nga đã xích lại gần Bắc Triều Tiên. Dĩ nhiên là các nước trong khu vực như Nhật Bản và Hàn Quốc theo dõi vụ việc với nỗi lo lắng, bởi vì họ sợ rằng đáp lại, Nga sẽ hỗ trợ Bắc Triều Tiên trong một số lĩnh vực. Vì vậy, sẽ có một sự tái cân bằng quân sự trong vùng, hệ quả gián tiếp của cuộc chiến ở Ukraina. »
Chỉ vài giờ sau khi Matxcơva và Bình Nhưỡng ký kết hiệp ước quốc phòng mới, ngoại trưởng Anthony Blinken khi trao đổi điện thoại với đồng cấp Hàn Quốc đã lên án mối hợp tác quân sự ngày càng được củng cố giữa Nga và Bắc Triều Tiên.
Trung Quốc « mềm mỏng »Giới phân tích phương Tây e ngại rằng quan hệ giữa Kim Jong Un và Vladimir Putin còn khuyến khích Bắc Triều Tiên thêm hung hăng. Trên tuần báo kinh tế Anh, The Economist, chuyên gia Ankit Panda, Quỹ Carnegie vì Hòa bình Thế giới, tóm lược « đây là một cơ hội chiến lược lớn nhất cho Bắc Triều Tiên từ khi Chiến Tranh Lạnh kết thúc. »
Nếu như phương Tây đặc biệt chú ý đến chuyến công du Bình Nhưỡng của nguyên thủ Nga, lo lắng về hợp tác quân sự giữa một nước Nga « hiếu chiến » và một Bắc Triều Tiên « bất hảo », thì ngược lại Trung Quốc có những phản ứng rất « mềm mỏng », không tỏ ra quan ngại, nhưng cũng không hoan nghênh hiệp ước quốc phòng Nga - Triều.
Bình luận chính thức từ Bắc Kinh là tuyên bố của thứ trưởng ngoại giao Tôn Vệ Đông, « Bắc Triều Tiên và Nga, hai quốc gia láng giềng thân thiện, có nhu cầu trao đổi và phát triển mối quan hệ bình thường và cuộc gặp cấp cao của họ là những thỏa thuận song phương giữa hai nước có chủ quyền. »
Làm thế nào giải thích cho phản ứng « yếu ớt » này của Trung Quốc trước việc Nga và Bắc Triều Tiên xích lại gần hơn với một hiệp ước quốc phòng mới, có nguy cơ làm nghiêng cán cân quyền lực giữa ba nước độc tài ?
Hãng tin Mỹ AP ngày 21/06/2024 dẫn phân tích của nhà nghiên cứu Victor Cha1 cho rằng đó có thể là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh chưa biết phải làm gì. Theo ông Cha, một số nhà phân tích ở Bắc Kinh có thể hoan nghênh quan hệ đối tác Nga - Triều, xem đấy như là cách để đẩy lùi thế thống trị của Mỹ, nhưng số khác lo lắng trước nguy cơ bất ổn do nước Nga gây ra, đưa xung đột ở châu Âu vào châu Á. Chính sách « hướng đông » của Nga buộc Trung Quốc phải cảnh giác rằng sự hiện diện ngày càng mạnh của Nga có khả năng gây ra bất ổn cho bán đảo Triều Tiên.
Thượng đỉnh Putin - Kim: Thời điểm thuận lợiNhưng nhà nghiên cứu Hemant Adlakha2 trên trang The Diplomat lưu ý, để hiểu được « thâm ý » của Bắc Kinh về sự kiện này, cần phải quan sát phản ứng của các nhà phân tích trên khắp cả nước cùng với nhiều tổ chức tư vấn, các khoa đại học ở Trung Quốc. Phần đông những người này đều có phản ứng về việc ông Putin ủng hộ Bắc Triều Tiên, ít nhất vì ba điểm.
Thứ nhất, thời điểm hoàn hảo của thượng đỉnh Kim - Putin. Dựa vào các nguồn tin được loan truyền trên diễn đàn sohu.com, nhà quan sát Adlakha nhận thấy ngày giờ chuyến thăm Bình Nhưỡng dường như đã được Matxcơva tính toán với sự tham vấn của Bắc Kinh. Tổng thống Nga Vladimir Putin đã rút ngắn thời gian chuyến thăm xuống còn một ngày, thay vì hai ngày, khi đến Bình Nhưỡng lúc ba giờ sáng mà không thông báo cho đồng nhiệm Bắc Triều Tiên.
Nhiều nhà phân tích Trung Quốc cho rằng, quyết định này của nguyên thủ Nga là nhằm tránh có những tác động bất lợi cho cuộc họp cấp cao ba bên Trung – Nhật – Hàn đang diễn ra và quan trọng hơn, theo quan điểm của Bắc Kinh, một vòng đàm phán song phương mới Seoul – Bắc Kinh, cuộc họp cấp thứ trưởng 2+2 đầu tiên về ngoại giao và an ninh đang diễn ra cùng lúc tại Seoul.
Do vậy, để « giữ thể diện cho Kim Jong Un », tổng thống Nga đã dừng chân đột xuất hơn 5 tiếng đồng hồ ở Yakutsk, thủ đô cộng hòa Sakha của Nga để thị sát và trao đổi với người dân địa phương. Và sự chậm trễ này cũng giúp Bắc Kinh tránh phải giải thích cho Seoul lý do Trung Quốc « im lặng » trước sự can dự của Nga (cùng với Bắc Triều Tiên) gây nguy hiểm cho tình hình an ninh bán đảo, vì ông Putin chỉ bắt đầu chuyến thăm sau khi hội nghị 2+2 kết thúc.
Cải thiện quan hệ Trung Quốc - Liên ÂuThứ hai,Bắc Kinh cho rằng việc Nga và Bắc Triều Tiên siết chặt quan hệ mang lại nhiều lợi thế. Đầu tiên hết, hiệp ước quân sự Nga – Triều khiến Mỹ lo ngại, thậm chí sợ hãi, và do vậy, đối với nhiều nhà phân tích, việc Putin và Kim xích lại gần hơn là « một sự lựa chọn hợp lý ».
Tiếp đến, việc Bình Nhưỡng cung cấp đạn dược cho Matxcơva có thể giúp Bắc Kinh giảm bớt một số hoạt động giao thương với Nga, và như vậy giúp cải thiện mối quan hệ Trung Quốc - Liên Hiệp Châu Âu, do các nước Liên Âu xem việc xuất khẩu hàng hóa lưỡng dụng sang Nga là mối đe dọa lớn.
Sau cùng, các nhà bình luận Trung Quốc đánh giá, việc Bình Nhưỡng xuất khẩu đạn pháo cho Nga có thể giúp cải thiện sự ổn định trên bán đảo Triều Tiên. Lý do là cuộc trao đổi này sẽ làm cạn kiệt kho vũ khí của Bắc Triều Tiên, giúp cho nỗ lực của Bắc Kinh duy trì hòa bình và ổn định Đông Bắc Á.
Cũng theo phân tích từ giới học thuật Trung Quốc, những áp lực quân sự, đà bành trướng chủ nghĩa đế quốc Mỹ và các đồng minh NATO, từ sự mở rộng liên minh quân sự ở châu Âu, cuộc xung đột Nga – Ukraina, cho đến các liên minh quân sự do Mỹ dẫn đầu ở Đông Bắc Á nhắm vào Bắc Triều Tiên đã thúc đẩy Nga – Bắc Triều Tiên nâng cấp quan hệ. Chiến lược lâu dài của Mỹ và các đồng minh nhằm cô lập, kềm chế Nga và Bắc Triều Tiên sẽ tự động thúc đẩy hai nước hợp tác để đối phó với mối đe dọa chung này.
Cầu Đồ Môn : Lời hứa của Putin với Tập Cận BìnhLý do thứ ba được nhiều nhà phân tích nhắc đến và cho rằng còn quan trọng hơn cả Hiệp ước Đối tác Chiến lược Toàn diện Nga – Triều : Thỏa thuận giữa Putin và Kim về việc sớm xây dựng cây cầu xuyên biên giới bắc qua sông Đồ Môn. Điều này cho thấy tổng thống Nga đã giữ lời hứa với đồng nhiệm Trung Quốc nhân cuộc gặp thượng đỉnh hôm 16/5 : Cam kết đàm phán với Bắc Triều Tiên về cửa sông Đồ Môn.
Trong quá khứ, Trung Quốc đã để mất khu vực đông bắc giáp với Nga, Bắc Triều Tiên và vùng biển Nhật Bản đã rơi vào tay đế quốc Nga sau Hiệp ước Bắc Kinh khi quân đội Anh và Pháp chiếm đóng Bắc Kinh năm 1860. Ngày nay phần lãnh thổ nhỏ này cản trở Trung Quốc tiếp cận biển Nhật Bản. Từ nhiều thập niên qua, Trung Quốc không ngừng tìm cách thúc đẩy dự án xây cầu, nối vùng Hồn Xuân (tỉnh Cát Lâm) của Trung Quốc với Sonbonguyok, Bắc Triều Tiên, nhưng bất thành.
Theo quan sát từ trang Nikkei Asia của Nhật Bản, các yếu tố như « Chiến tranh lạnh mới », nỗi khao khát vũ khí hạt nhân ngày càng lớn của Bình Nhưỡng, xích mích ngày một tăng giữa hai miền Triều Tiên và nỗi bất an của Nhật Bản trước đà gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc đều có tác dụng gây trở ngại cho mong muốn ấp ủ từ lâu của Bắc Kinh nhằm tiếp cận Biển Nhật Bản thông qua biên giới sông Nga – Triều.
Giới học giả Trung Quốc có vẻ hào hứng với thỏa thuận cầu vượt biên giới sông Đồ Môn ở Bình Nhưỡng, nhưng họ cũng không quên sự vỡ mộng đã tích tụ nhiều thập kỷ qua, khi hết thỏa thuận này đến thỏa thuận khác bị phớt lờ một cách lặng lẽ. Trong bối cảnh này, giới phân tích Trung Quốc theo dõi chặt chẽ mối quan hệ Nga – Triều trước khả năng đạt được ba mục tiêu của Trung Quốc : Cải thiện quan hệ với châu Âu, làm cạn kiệt kho vũ khí của Bắc Triều Tiên, và xây dựng cây cầu xuyên biên giới bắc qua sông Đồ Môn để ra biển Nhật Bản.
Do vậy, trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt, tiến sĩ địa lý David Teurtrie, Viện Nghiên cứu Cao học Công giáo nhận định, trái với nhiều phân tích cho rằng đối tác quốc phòng Nga - Triều khiến Trung Quốc khó chịu, việc Vladimir Putin và Kim Jong Un tăng cường quan hệ khó có thể làm tổn hại đến quan hệ Nga - Trung.
David Teurtrie : « Điều rõ ràng à Matxcơva rất chú ý đến quan điểm của Bắc Kinh, bởi vì dẫu sao đi chăng nữa, đây còn là một đối tác lớn, một đối tác chính của Nga và hiển nhiên Nga không thể xa lánh Trung Quốc vào lúc này, đây không hoàn toàn là ý định của Matxcơva. Vì vậy, Nga sẽ phải tỏ ra cẩn trọng và chú ý đến những gì có thể khiến Trung Quốc e ngại là sự việc đã đi quá xa. Tôi nghĩ là họ vẫn sẽ khá cẩn thận.
Bây giờ điều chúng ta cần ghi nhớ là mối quan hệ giữa Trung Quốc và Phương Tây đang xấu đi. Đối với Bắc Kinh, mối quan hệ hợp tác này không hoàn toàn là một vấn đề. Thậm chí cách nay 5 hay 6 năm, điều đó có lẽ sẽ gây phiền phức, bởi vì chúng có nguy cơ gây ra những căng thẳng mà Trung Quốc không mong muốn với phương Tây. Giờ chúng ta không còn trong giai đoạn đó nữa. »
**********
Ghi chú :
1 – Victor Cha, phó chủ tịch cấp cao phụ trách châu Á và Hàn Quốc, Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế CSIS.
2 – Hemant Adlakha, giảng viên tiếng Hoa tại đại học Jawaharlal Nehru ở New Delhi. Ông cũng là phó Chủ tịch và là thành viên danh dự của Viện Nghiên cứu Trung Quốc (ICS), New Delhi.
Mùa thu này, Vatican và Trung Quốc sẽ ký lại thỏa thuận về những hoạt động của Giáo hội Công Giáo tại Trung Quốc. Thỏa thuận giữa Toà Thánh và Trung Quốc, có giá trị 2 năm, liên quan đến nhiều vấn đề trong đó có việc truyền chức và bổ nhiệm các giám mục.
Việc tái ký thỏa thuận đã gây nhiều đồn đoán ngay từ đầu năm nay, với những dấu hiệu đơn phương từ Hồng Y Pietro Parolin, Quốc Vụ khanh Toà Thánh, vốn là kiến trúc sư của thỏa thuận khi còn là ngoại trưởng Toà Thánh. Điều này đã trở nên rõ ràng khi ngài phát biểu trong một tham luận tại một hội thảo nhân dịp kỷ niệm 100 năm Công Đồng Thượng Hải, được tổ chức bởi Đại học Urbaniana ngày 21/05/2024. Linh mục Phạm Hoàng Dũng, từ Liège, Bỉ, trước hếtgiải thích bối cảnh ra đời và ý nghĩa của Công đồng Trung Quốc.
Hội thảo “100 năm kể từ Công đồng Trung Quốc: Giữa lịch sử và hiện tại”Hội thảo này có tên gọi “100 anni dal Concilium Sinense: tra storia e presente”, được tổ chức tại đại học Urbania (Pontificia Università Urbaniana) với sự hợp tác của Cơ quan thông tấn Fides (Agenza Fides) và Ủy Ban Mục Vụ Trung Quốc (Commissione Pastorale per la Cina). Đây là một hội thảo khoa học có sự tham dự và tham luận của Hồng Y Pietro Parolin, Quốc vụ khanh Toà Thánh, Hồng Y Luis Antonio Tagle, Quyền Bộ trưởng Bộ Truyền Giáo và Giám mục Thượng Hải Giuse Thẩm Bân (Joseph Shen Bin), Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Trung Quốc.
Công đồng Trung Hoa (tên chính thức), hay Công đồng Thượng Hải theo tên gọi phổ biến, là cuộc họp chính thức đầu tiên tổ chức tại Thượng Hải vào năm 1924 quy tụ các giám mục, những người đứng đầu công việc truyền bá Ki-tô giáo ở Trung Quốc vào thời điểm đó nhằm thống nhất và đề ra những đường hướng cho một hàng giáo sỹ người bản xứ. Nói nôm na là những bước đầu tiên của Giáo hội Công giáo Trung Quốc.
Chúng ta cũng cần biết lúc đó, công việc truyền đạo là do người ngoại quốc, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ý v.v… thực hiện một cách riêng rẽ. Thế nên một cuộc họp của những người có trách nhiệm này là hết sức quan trọng không chỉ đối với việc thành lập hàng giáo sỹ tại Trung Quốc, mà cả việc đào tạo nguồn nhân lực cho việc tự chủ và phát triển của Giáo hội tại Trung Quốc.
Sự hiện diện nhiều ý nghĩa của giám mục Thượng HảiTại hội thảo này, sự có mặt và đóng góp tham luận của giám mục Thượng Hải Giuse Thẩm Bân có nhiều ý nghĩa khác nhau. Không chỉ ngài đại diện cho giáo phận nơi đã diễn ra công đồng lịch sử của Giáo hội Trung Quốc, mà ngài đang là Chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Trung Quốc, nhưng không được Toà Thánh công nhận vì cơ quan này do Nhà nước Trung Quốc chi phối. Chính ngài đã là nhân vật gây tranh cãi khi được bổ nhiệm làm Giám Mục Thượng Hải hồi năm 2023 trước khi được Tòa Thánh chuẩn nhận.
Việc công nhận này chỉ được thực hiện 3 tháng sau. Chính Đức Hồng Y Parolin cho biết ngài chỉ biết được vụ việc qua báo chí. Điều này cho thấy Nhà nước Trung Quốc một mặt vẫn ký kết những thỏa thuận với Toà Thánh, mặt khác vẫn thực hiện chính sách tôn giáo của riêng họ. Và nhiều lúc đặt đối tác trước “việc đã rồi” để buộc phải giải quyết.
Người đứng đầu cơ quan của Nhà nước sẽ tận dụng cơ hội để trình bày chính sách của Trung Quốc?Đức Giám mục Thượng Hải đã có bài tham luận dài 15 phút bằng tiếng Quan Thoại. Trong bài đó, ngài đã nói về di sản của Công đồng Thượng Hải năm 1924, vốn đã khuyến khích Giáo hội ở Trung Quốc, do các nhà truyền giáo ngoại quốc điều hành vào thời điểm đó, phát triển hàng giáo sỹ địa phương và tránh xa khỏi chế độ thuộc địa của các cường quốc Tây Phương, vốn ủng hộ một tôn giáo không còn bị coi là ngoại lai nữa.
Ngài nói rằng ngày nay, Giáo hội ở Trung Quốc nên tuân theo chính sách “Hán hoá – sinicization”, để làm cho Công giáo trở nên mang tính Trung Quốc hơn, như áp dụng các hình thức nghệ thuật, kiến trúc và âm nhạc tôn giáo truyền thống của địa phương.
“Hán hoá – sinicization” cũng là tên của một chiến dịch do nhà lãnh đạo Tập Cận Bình phát động nhằm biến đổi và kiểm soát toàn bộ đất nước, bao gồm cả tôn giáo, bằng cách điều chỉnh chính sách văn hóa Trung Quốc theo hệ tư tưởng của Đảng Cộng Sản Trung Quốc.
Theo trang mạng National Catholic Register, chính Đức cha Thẩm Bân đã thừa nhận điều này. Trả lời phỏng vấn một hãng thông tấn Nhà nước hồi năm ngoái, ngài nói rằng việc Hán hoá Ki-tô giáo ở Trung Quốc tức là dùng "các giá trị xã hội chủ nghĩa cốt yếu để đưa ra một cách giải thích thần học và các học thuyết của giáo hội phù hợp với Trung Quốc."
Trong bài tham luận tại hội thảo, ngài lưu ý, quy chế của hội đồng giám mục (Trung Quốc) nêu rõ rằng sứ mệnh của cơ quan này là “bảo vệ đức tin, rao giảng Tin Mừng và quảng bá một Giáo hội thánh thiện dựa trên Kinh Thánh và Truyền thống, tuân thủ theo tinh thần của Giáo hội Công giáo phổ quát và tông truyền và Công đồng Vatican II.”
Tuy nhiên, đây chỉ là phần trích dẫn của tài liệu với câu tiếp theo nói rằng hội đồng giám mục “ủng hộ sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc, hệ thống xã hội chủ nghĩa và tuân thủ các nguyên tắc độc lập và tự chủ trong các vấn đề chính trị, kinh tế và Giáo Hội.”
Đức Cha Thẩm Bân cũng bào chữa cho chính sách tôn giáo và gián tiếp nói đến sự độc lập của “Giáo Hội Trung Quốc”: “Chính sách tự do tôn giáo do chính phủ Trung Quốc thực hiện không có mục đích thay đổi đức tin Công giáo, mà chỉ hy vọng rằng các giáo sĩ và tín hữu Công giáo sẽ bảo vệ lợi ích của người dân Trung Quốc và thoát khỏi sự kiểm soát của các thế lực nước ngoài.”
Hán hoá ở Trung Quốc, hay hội nhập văn hoá của Ki-tô giáo nói chung là quá trình tất yếu khi Ki-tô giáo đi vào một nên văn hoá hay xã hội qua dòng lịch sử. Nhưng Hán hoá theo đường lối xã hội chủ nghĩa thì không còn mang nghĩa của Tin Mừng của Chúa Ki-tô. Có lẽ đây là câu trả lời cho những gì đã xảy ra một năm trước qua vụ bổ nhiệm giám mục Thượng Hải, trong văn thư thông báo việc chấp nhận của Tòa Thánh, Đức Hồng Y Parolin đã kêu gọi tổ chức một hội đồng giám mục Trung Quốc với “các quy chế phù hợp với bản chất của Giáo hội và sứ mệnh mục vụ của hội đồng này”.
Đức Cha Thẩm Bân dùng Kinh Thánh để nói lên mối tương quan: “Khi giải quyết mối quan hệ giữa Giáo hội và Nhà nước, tôn giáo và chính trị, chúng ta phải quay lại với những gì Kinh Thánh nói: “Hãy trả cho Ceasar những gì của Ceasar và cho Thiên Chúa những gì của Thiên Chúa”.
Như vậy, Trung Quốc đã có các chính sách tôn giáo của riêng mình bất chấp mọi thỏa thuận với các đối tác dù có những văn bản ký kết.
Vậy tại sao Tòa Thánh lại tiếp tục đơn phương ký tái kết ?Trong tham luận tại cuộc hội thảo này, Đức Hồng Y Pietro Parolin đã mượn hình ảnh của vị giám mục Celso Costantini, người đã triệu tập Công đồng Thượng Hải này để nói về chính sách ngoại giao giữa Tòa Thánh và Trung Quốc hiện tại.
Theo Hồng Y Parolin, chìa khoá cho một Giáo hội hưng thịnh ở Trung Quốc là làm cho Giáo hội địa phương trở thành “truyền giáo” nhưng không phải do người nước ngoài và sự tham gia của Toà Thánh với chính phủ ở cấp độ các vấn đề giáo hội mà thôi. Tức là một đại diện của Toà Thánh hiện diện ở Trung Quốc thuần tuý mang tính chất mục vụ và bỏ qua những yếu tố mang tính chất ngoại giao của các sứ giả đến từ Vatican.
Nỗ lực ngoại giao “không ngoại giao này” có hiệu quả hay là nhượng bộ chính phủ Trung Quốc?Trong bài thuyết trình, Đức Parolin cho biết : Đức giám mục Costantini đã có “một cái nhìn sâu sắc khác thường” về tình hình và những thách thức của Giáo hội ở Trung Quốc, từ đó ngài đã định hình “chiến lược truyền giáo và ngoại giao” để dẫn tới Công đồng đầu tiên của Giáo hội ở Trung Quốc vào năm 1924.
Một vấn đề quan trọng được xác định bởi người đại diện của Giáo Hoàng vừa mới được bổ nhiệm, đó là Giáo hội “ở Trung Quốc - in China” chứ không phải là người Trung Quốc, với “sự phụ thuộc dai dẳng và sau đó quá mức vào thành phần nước ngoài của sứ mệnh truyền giáo”, “được biểu hiện bằng cả hai cách qua sự hiện diện gần như độc quyền của các giáo sĩ nước ngoài và sự ưu tiên độc quyền của một số nhóm truyền giáo, với sự bảo trợ từ các cường quốc phương Tây và phương pháp mục vụ cũng có kết quả từ đó”.
Parolin trích lời của nhà truyền giáo đầu thế kỷ XX, “chúng tôi đã ở Trung Quốc hơn ba thế kỷ. Toàn bộ hệ thống phẩm trật giáo hội vẫn còn xa lạ. Đây có phải giáo hội mà Chúa Kitô mong muốn hay không ? Giáo hội phải hội nhập và không thể mãi mãi là những người khách xa lạ.” Hồng Y cũng nêu lên mối lo ngại của Costantini rằng “viện trợ nhân lực” từ nước ngoài có thể có hiệu quả cho việc mở rộng việc truyền giáo trong một thời gian. Nhưng nó “cũng có sức nặng về mặt tinh thần đối với công cuộc truyền giáo”.
Hồng Y Parolin nói: “Niềm tin này đi kèm với nhận thức rằng để khôi phục sức mạnh cho công cuộc truyền giáo trong nước, Giáo hội Công giáo sẽ phải tự giải thoát khỏi các sự kiện chính trị và lợi ích thuộc địa, sẽ phải đứng tách biệt bên ngoài và ở trên chúng”. Để thấy được sự chuyển đổi cần thiết của Giáo Hội ở Trung Quốc từ “các sứ mệnh truyền giáo ngoại quốc” sang một Giáo Hội “hội nhập văn hóa đích thực” ở Trung Quốc, Đức Hồng Y Parolin nhấn mạnh phải có cuộc đối thoại trực tiếp giữa Giáo Hội và chính quyền Nhà nước.
“Chúng tôi từ lâu đã hy vọng có được sự hiện diện ổn định ở Trung Quốc” đó là niềm hy vọng của Quốc vụ khanh Tòa Thánh hiện tại và sứ thần Toà Thánh trong quá khứ. Sự hiện diện đó “ban đầu có thể không mang hình thức đại diện giáo hoàng của một sứ thần Toà Thánh”, mà là một vị đại diện mục vụ thuần tuý.
Cả Costantini và Parolin đều đồng ý rằng cuộc đối thoại phải được củng cố bởi “mối hiệp thông với Người kế vị Thánh Phê-rô. Sự hiệp thông này chính xác là sự bảo đảm tốt nhất cho một đức tin xa rời các lợi ích chính trị bên ngoài và gắn chặt với văn hoá và xã hội địa phương.” Parolin trích dẫn Costantinni: “Giáo hoàng là nhà lãnh đạo tinh thần của tất cả các tín hữu Công giáo trên toàn thế giới, dù họ ở bất cứ nước nào, nhưng sự vâng phục giáo hoàng không làm tổn hại đến tình yêu mà mỗi người dành cho đất nước mình.”
Bài thuyết trình của Đức Hồng Y Parolin đã đưa ra một bài học có vẻ đơn giản từ lịch sử về cách ứng xử của Giáo hội với Trung Quốc: một Giáo hội địa phương do các giám mục Trung Quốc lãnh đạo cùng với giáo hoàng, được hỗ trợ bằng cuộc đối thoại trực tiếp giữa Roma và Bắc Kinh, chỉ giới hạn trong các vấn đề riêng của Giáo hội.
Tuy nhiên, bất kỳ ai theo dõi mối quan hệ Vatican - Trung Quốc trong sáu năm qua đều biết tình hình không hề đơn giản và trong mắt nhiều người, Parolin đang vạch ra một con đường không tưởng.
Bài học lịch sử không thể áp dụng cho hoàn cảnh hiện tại ?Bài học lịch sử mà đức Hồng Y Parolin rút ra dường như không thể áp dụng vào trường hợp Trung Quốc hiện tại. Vatican dường như không thể tạo dựng bất kỳ mối quan hệ có ý nghĩa nào với Trung Quốc, mà hoàn toàn tách biệt khỏi các vấn đề ngoại giao. Đài Loan sẽ luôn là điều kiện mà Trung Quốc đặt lên bàn đàm phám một khi Vatican muốn thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ.
Trong khi Đức Hồng Y Parolin có thể nói một cách nồng nhiệt về việc loại bỏ các vấn đề ngoại giao ra khỏi chính sách ngoại giao với Trung Quốc, thì trên thực tế, Trung Quốc có chính sách rõ ràng về việc yêu cầu hủy bỏ công nhận Đài Loan như một điều kiện tiên quyết để tiến tới quan hệ với Bắc Kinh. Vatican là một trong số ít các quốc gia vẫn công nhận và duy trì quan hệ ngoại giao đầy đủ với Đài Loan. Với những ai theo dõi tình hình ngoại giao, Trung Quốc luôn dùng Đài Loan như một điều kiện, vì đối với Bắc Kinh, hòn đảo này vẫn là một tỉnh nổi loạn.
Sau bài phát biểu của Đức Hồng Y Parolin tại hội thảo, bộ Ngoại giao Đài Loan đã đưa ra một tuyên bố: “Chúng tôi hiểu là Tòa Thánh hy vọng thúc đẩy quyền tự do tín ngưỡng và quyền của người Công giáo Trung Quốc và đã nhiều lần công khai bày tỏ mong muốn cử đại diện đến Trung Quốc”.
Thật không may cho Vatican, ngoại giao không thể được thực hiện trong môi trường chân không và ngày càng rõ ràng rằng các trao đổi ngoại giao giữa Vatican với Trung Quốc là một trò chơi có giá phải trả.
Vatican có thể tái ký thỏa thuận với Trung Quốc và công nhận hội đồng giám mục do Nhà nước kiểm soát. Nhưng để tiến xa hơn trong mối quan hệ ngoại giao với Nhà nước Trung Quốc, có lẽ Toà Thánh không thể quên rằng luôn còn đó một nước Đài Loan và một “Giáo Hội Trung Quốc khác” mà những nhà lãnh đạo Trung Quốc sẽ sẵn sàng đặt lên bàn thương lượng.
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Linh mục Phạm Hoàng Dũng từ Liège, Bỉ.
The podcast currently has 267 episodes available.
41 Listeners
27 Listeners
37 Listeners
4 Listeners
6 Listeners
13 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
7 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners