Sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật, đặc biệt là tại Pháp và Việt Nam
... moreShare Tạp chí văn hóa
Share to email
Share to Facebook
Share to X
Trong những năm gần đây, sự quan tâm của công chúng đối với dòng phim tiểu sử (biopic) vẫn chưa suy giảm. Phía nghệ sĩ quốc tế có Freddie Mercury, Bob Marley hay Amy Winehouse, còn trong làng nhạc Pháp, sau hai thần tượng Édith Piaf và Dalida, nay đến phiên « Monsieur Aznavour » ra mắt khán giả cuối tháng 10 năm 2024. Bộ phim kể lại hành trình của ông Aznavour trong những năm tháng đầu đời, đồng thời cũng đánh dấu 100 năm ngày sinh của danh ca người Pháp gốc Armenia.
Bộ phim « Monsieur Aznavour » trước hết là câu chuyện của một kẻ gan lì bướng bĩnh, không chịu nghe lời ai. Mọi người đều nói rằng, trước sau gì ông cũng gặp thất bại, vì vào thời bấy giờ để hát nhạc tình, ca sĩ phải có ngoại hình, khuôn mặt phải điển trai. Người duy nhất thấy được tài năng của Aznavour, có lẽ vẫn là Édith Piaf, bởi vì cả hai nghệ sĩ này đều có ý chí vươn lên, thoát khỏi cảnh cơ cực nghèo đói, từ cái thuở đi hát rong ở ngoài đường phố. Ngay từ lúc mới vào nghề, nghệ sĩ Aznavour đã bị giới phê bình chỉ trích nặng nề, họ chê ông xấu ở ngoại hình cũng như ở chất giọng, khuyên ông nên làm nghề kế toán hơn là ca sĩ. Thậm tệ hơn nữa, nhiều nhà phê bình đã tỏ ra kỳ thị, khi coi thường nguồn gốc của gia đình ông.
Tại Pháp, anh Fabien Marsaud nổi tiếng là một nghệ sĩ slam với nghệ danh ''Grand Corps Malade''. Lần này, anh cùng thực hiện với Medhi Idir bộ phim kể lại cuộc đời và sự nghiệp của nam danh ca Aznavour, một dự án có từ gần một thập niên qua, ngay từ thời ông còn sống. Nghệ sĩ Grand Corps Malade cho biết quá trình hình thành bộ phim « Monsieur Aznavour » :
« Aznavour trước hết là một huyền thoại nhạc Pháp và xa hơn nữa ông là một biểu tượng của văn hóa Pháp ở nước ngoài. Về mặt quan hệ đời tư, tôi càng cảm thấy gần gũi gắn bó với ông. Sở dĩ tôi dành cho ông nhiều tình cảm quý mến là vì tôi có may mắn quen ông ở ngoài đời và quan trọng hơn nữa là tôi đã có dịp làm việc với ông, được ông chỉ bảo dìu dắt, nhờ vậy mà tôi hiểu ông Aznavour hơn, cả nghệ sĩ lẫn con người.
Sinh thời, nam danh ca Aznavour đã từng có ý định cho quay một bộ phim kể lại cuộc đời và sự nghiệp của mình. Lúc đầu, ông đã giao dự án này cho con rể của ông (chồng của Katia Aznavour), là nhà sản xuất Jean Rachid. Thế nhưng, dự án này lại bị gián đoạn vào năm 2018 khi ông Aznavour đột ngột qua đời. Một thời gian sau đó, nhà sản xuất mới khởi động lại quá trình làm phim tiểu sử và giao cho chúng tôi phần soạn kịch bản cũng như việc thực hiện dự án này ».
Thay vì phản ánh giai đoạn huy hoàng nhất trong sự nghiệp của Aznavour, ông có lẽ là nghệ sĩ Pháp đã thực hiện trong đời 5 vòng lưu diễn thế giới, bộ phim lại chủ yếu tập trung vào giai đoạn đầu đời, khi Aznavour còn đang chờ thời, người nghệ sĩ muốn phát huy tài năng, nhưng vì chưa có cơ hội, nên phải chịu khó làm đủ mọi nghề để kiếm sống, bữa no bữa đói. Nghệ sĩ Grand Corps Malade giải thích :
« Ông Aznavour muốn kịch bản phim nhấn mạnh đến thời ông mới vào nghề, chứ ông không quan tâm đến giai đoạn thành công, bước lên tột đỉnh danh vọng (ông thành danh khá muộn vào năm 37 tuổi). Thời thanh niên, ông đã phải trải qua những năm tháng cơ cực, làm cùng lúc nhiều công việc mới hy vọng đủ sống. Xuất thân từ một gia đình nghèo người nhập cư gốc Armenia, ông đi làm rất sớm để phụ giúp cha mẹ. Ông chọn nghề sân khấu cho dù không có nhiều lợi thế : không có quan hệ rộng rãi, quen biết nhiều người có thể giúp ông thăng tiến nhanh.
Nhiều nhà phê bình chê ông xấu cả về ngoại hình lẫn chất giọng. (Thực ra, giọng của Aznavour khá hay, khàn đục trong những vết gãy, nhưng lại không hợp với thời bấy giờ, đang có trào lưu của những giọng ca quyến rũ mượt mà, âm thanh trau chuốt bóng bẩy). Nhưng có lẽ nhờ có ý chí phấn đấu và sức chịu đựng bền bỉ mà người nghệ sĩ đã vượt qua được những trở ngại cũng như cạm bẫy, để rồi cuối cùng áp đặt tài năng của mình ».
Khi mới vào nghề, ông Aznavour từng bị phân biệt đối xử, thậm chí có nhiều lời phê bình mang tính kỳ thị khi nhắm vào nguồn gốc Armenia của ông thay vì đơn thuần bàn về tài năng soạn nhạc hay diễn đạt của Aznavour trên sân khấu. Thế nhưng giờ đây, không ai có thể phủ nhận được tầm ảnh hưởng của nghệ sĩ này, đại diện cho văn hóa Pháp ở nước ngoài và đó là ý nghĩa mà hai đạo diễn Medhi Idir và Grand Corps Malade đã muốn đề cao trong bộ phim :
« Câu chuyện của Aznavour là một biểu tượng tuyệt vời, và càng có tiếng vang trong thời buổi hiện nay. Vào lúc nhiều quốc gia đang co cụm lại, có tư tưởng sống khép kín và thậm chí muốn đóng cửa biên giới trước nỗi lo ngại của các làn sóng nhập cư. Ông Aznavour là trường hợp khá tiêu biểu của thế hệ sau của các gia đình dân nhập cư, cha mẹ họ không nói thạo tiếng Pháp, nhưng con cháu họ trong mắt người nước ngoài, lại trở thành những gương mặt tiêu biểu của văn hóa Pháp nói riêng, cho nước Pháp nói chung. Quá trình hội nhập thành công mang tính thời sự, và chúng tôi chọn đề tài này làm biểu tượng.
Xuất thân từ trường phái slam kết hợp giai điệu với thơ nói, nghệ sĩ Grand Corps Malade hơn ai hết biết rõ di sản mà ông Aznavour đã để lại cho các thế hệ sau, nhưng ngoài tiếng Pháp, tầm ảnh hưởng của nam danh ca Aznavour còn khá lớn đối với nhiều nghệ sĩ quốc tế. Anh cho biết đó là những nghệ sĩ nào và giải thích vì sao :
« Trong phim, chúng tôi có nhắc đến trường hợp của Dr Dre, nghệ sĩ hip hop rất nổi tiếng người Mỹ đã từng lấy lại một đoạn của bài hát « Parce que tu crois » rồi đưa vào trong giai điệu nhạc rap của mình. Về phần mình nghệ sĩ nhạc rap Benito Martínez Ocasio với nghệ danh Bad Bunny trong album « Nadie sabe lo que va a pasar manana » (Không ai biết ngày mai sẽ ra sao) đã thu hút hàng trăm triệu lượt truy cập trên mạng Spotify nhờ hội tụ thần tượng Al Pacino trong phim video clip với Aznavour qua giai điệu khi mượn lại bài hát « Hier encore » của ông hiểu theo nghĩa Tuổi trẻ cứ nghĩ rằng mình còn thời gian.
Xuất thân từ một gia đình nhập cư, và nhờ vậy mà có hai nền văn hóa, trải qua nhiều năm tháng cực khổ trước khi thành công, nhưng không phải vì giàu có hôm nay mà quên đi những buổi hàn vi thuở nào. Tất cả những yếu tố đó đều rất là con người, cộng thêm những giai điệu nghe đi nghe lại mà vẫn chưa lỗi thời, khiến cho hình tượng của Aznavour luôn hấp dẫn đối với các nghệ sĩ rap hay slammer mọi thời.
Bộ phim « Monsieur Aznavour » có sức thuyết phục, trước hết là nhờ vào tài năng diễn xuất của Tahar Rahim. Thành danh vào năm 2009 nhờ bộ phim « Un prophète » của đạo diễn Jacques Audiard, anh là một trong những gương mặt hiếm hoi đoạt cùng lúc hai giải César của Pháp dành cho nam diễn viên xuất sắc nhất và tài năng đầy hứa hẹn. Lần này, để vào vai nam danh ca người Pháp, Tahar Rahim không trông cậy vào các thủ thuật trang điểm để có nét mặt giống như Aznavour, mà lại luyện giọng trong vòng 6 tháng liền trước khi êkíp đạo diễn bấm máy quay phim. Kết quả là từ giọng nói cho tới giọng hát, Tahar giống Aznavour đến 8 phần 10. Ống kính của hai đạo diễn tập trung vào những góc quay tầm trung, cho thấy tướng mạo và điệu bộ nhiều hơn là nét mặt quay cận ảnh của nam diễn viên.
Cho dù bộ phim có vài khuyết điểm nhỏ trong các đoạn chuyển tiếp quá nhanh, không dành nhiều thời gian cho các vai phụ, dùng nhiều đoạn phim để minh họa thay vì đào sâu thêm khía cạnh tâm lý, giúp cho nhân vật thêm sắc sảo, nhưng nhìn chung Monsieur Aznavour vẫn có một ưu điểm lớn : đó là Tahar Rahim đã thu toàn bộ các bản nhạc phim với chính giọng ca của mình. Và khi nhắm mắt lại, người xem có cảm tưởng danh ca Aznavour đang hát nhạc tình. Đó thực sự là kỳ công của điện ảnh, trong ma lực tái tạo, trong phép lạ « hồi sinh ».
Không chỉ bây giờ, mà ngay từ thời Pháp thuộc, Đông Dương đã thu hút nhiều du khách Pháp và phương Tây nói chung. Chính quyền thuộc địa Pháp ngay từ đầu thế kỷ 20 đã tích cực quảng bá cho du lịch Đông Dương với nhiều cuốn sách được xuất bản vào thời ấy.
"Du lịch Đông Dương xưa" cũng chính là tựa đề của một cuốn sách vừa ra mắt độc giả Việt Nam đầu tháng 10 vừa qua, do nhà xuất bản Dân Trí phối hợp với Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 phát hành. Biên tập chính của nhóm biên tập cuốn sách này là ông Trần Hữu Phúc Tiến, tác giả của một số quyển sách về Sài Gòn xưa, cũng như về các di sản kiến trúc của Pháp ở Việt Nam.
Trả lời RFI Việt ngữ tại Paris ngày 28/09/2024, nhân dịp ông đến thủ đô Pháp để giới thiệu cuốn sách “Du lịch Đông Dương xưa”, tác giả Phúc Tiến cho biết:
“Tôi có thể nói là đến bây giờ, chữ Indochine, Indochina, Đông Dương đang trở lại, hay nói cách khác, đang có một hiện tượng là rất nhiều người, cả già lẫn trẻ, muốn tìm hiểu về thời kỳ trước 1945. Trong khoảng 5 năm trở lại đây, mỗi năm có đến 9, 10 quyển sách viết về Đông Dương, hoặc dịch, giới thiệu những hoạt động rất phong phú, không chỉ là về cuộc chiến, về kiến trúc, văn hóa, mà còn có những ký sự, những câu chuyện về những nhân vật người Pháp, cũng như người Việt.
Khi tham gia biên soạn sách để tìm hiểu về lịch sử, tôi thấy mảng du lịch là một mảng rất là hay. Khi viết quyển sách này, tôi có nói là chúng ta cùng “đi phượt” về miền quá khứ. Chúng ta đi thăm những điểm du lịch quen thuộc như Đà Lạt, Sapa, Đồ Sơn hay các thành phố lớn, chúng ta có biết rằng những nơi ấy được hình thành như thế nào không? Qua cuốn sách này, chúng tôi đưa bạn đọc tìm lại cội nguồn của những địa điểm du lịch đó, những nơi đó được hình thành ra sao, và trong đó có cả công sức của người Pháp lẫn người Việt.
Đây là một công trình tập thể, chúng tôi cộng tác với Trung tâm Lưu trữ Quốc gia 1 tại Hà Nội. Tôi là người biên soạn chính, cùng với hai bạn Bùi Hệ và Hoàng Hằng tham gia tìm kiếm tư liệu và dịch thuật. Cũng xin nói rõ là do khuôn khổ đầu tiên nên lần xuất bản này chỉ có tiếng Việt và tiếng Anh. Chúng tôi đã bàn là sẽ có một bản tiếng Pháp để phục vụ bạn đọc Pháp.
Theo lời ông Trần Hữu Phúc Tiến, ngay từ đầu người Pháp đã chú ý đến 3 địa điểm du lịch mà họ xem là hàng đầu ở Đông Dương:
“Tư liệu đầu tiên mà tôi rất vui khi tìm được, đó là một ấn phẩm giới thiệu về du lịch Đông Dương năm 1911, có nghĩa là đầu thế kỷ 20, của Hội Du lịch Pháp Touring Club de France, trong đó họ nêu ngay ba địa điểm mà họ coi là số một để du lịch khi đến Đông Dương:Vịnh Hạ Long, Angkor và Huế.
Như vậy là trong ba nước Đông Dương thì đã có hai địa điểm là ở Việt Nam, một là du lịch thiên nhiên. Cuối thế kỷ 20 Vịnh Hạ Long mới được UNESCO công nhận là di sản thế giới, nhưng ngay từ đầu, người Pháp đã quảng bá cho Vịnh Hạ Long tuyệt vời như thế nào.
Cũng như Angkor, trên thế giới ai cũng biết công sức của những nhà khảo cổ Pháp là những người đầu tiên khám phá ra Angkor. Đó là cung điện trong rừng, đã bị bỏ qua và khi người ta khám phá, thì người ta đã quảng bá nó, trân trọng nó, giữ gìn nó.
Thứ ba là Huế. Phải nói chúng ta rất tự hào là có một kinh thành và nhiều điểm du lịch khác.
Cuốn sách "Du lịch Đông Dương xưa" còn nêu bật công lao của người Pháp khai phá những địa điểm du lịch mà cho tới nay vẫn thu hút nhiều du khách trong vào ngoài nước, theo lời ông Trần Hữu Phúc Tiến:
"Trước nhất là về những địa điểm du lịch thiên nhiên. Phải nói là người Pháp có công mở đường để làm những địa điểm du lịch ở vùng sâu, vùng xa. Bây giờ chúng ta đi rất là dễ dàng, nhưng ngày xưa thì không có. Ngay cả hai nơi mà chúng ta tưởng đi rất dễ dàng là Đồ Sơn, Hải Phòng và Sầm Sơn, Thanh Hóa là hai bãi biển đẹp, thì cũng không phải là có đường đến dễ dàng như bây giờ. Hoặc là Cam Ranh. Cam Ranh là do một ông quý tộc đến đây, thấy nó hay và phát triển nó lên.
Cả Bà Nà cũng vậy, thâm sơn cùng cốc, có thể nói là dưới con mắt của một cường quốc công nghiệp, họ đã khám phá. Đầu tiên, người Pháp sử dụng những nơi này, ví dụ như sanatorium, những khu nghỉ dưỡng trên núi cao, cho người Pháp tại chỗ. Nhưng sau đó, họ thấy rằng người địa phương vẫn có thể tham gia.
Cuốn sách "Du lịch Đông Dương xưa" cũng cho thấy là sau khi đã khai phá những địa điểm du lịch ở Đông Dương, người Pháp đã tích cực quảng bá du lịch Đông Dương ra khắp thế giới và tổ chức các tour bằng đường hàng không, đường biển. Trong những nỗ lực còn có sự đóng góp của người Việt Nam thời ấy:
" Người Pháp đã thành lập Tổng cục Du lịch Đông Dương vào cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, trụ sở đầu tiên là đặt ở tòa nhà 213 đường Catina, Sài Gòn. Rất tiếc tòa nhà rất đẹp này đã bị “xóa sổ” rồi. Sau đó có một thời gian trụ sở được đặt ở khách sạn Majestic. Tổng cục đó quảng bá du lịch của toàn Đông Dương ra khắp thế giới.
Trên thế giới hồi đó đã có máy bay, nên đã có những tuyến hàng không dừng tại Sài Gòn, Hà Nội để đưa khách đi tham quan những địa điểm du lịch đó. Đặc biệt là đường biển thì Sài Gòn đã nối với Marseille, Le Havre từ năm 1862-63.
Giữa hai cuộc thế chiến thì Âu-Mỹ có một thời kỳ gọi là “vàng son”. Sau thảm họa chiến tranh thứ nhất, họ thấy cần phải an dưỡng, tránh những suy nghĩ căng thẳng, nên họ đi du lịch, mà lúc đó kinh tế Âu Mỹ đang phát triển và kinh tế Đông Dương cũng phát triển. Họ đã tổ chức các tour, kể cả đường bay. Đường bay Sài Gòn - Paris, nối với Hà Nội, với Batavia của Indonesia, đã có từ thập niên 1930. Trong tour hàng hải đã có một tour gọi là grand tour, đi du thuyền qua các thành phố, các cảng thị châu Á-Thái Bình Dương, trong đó có dừng chân ở Sài Gòn.
Ngay từ năm 1929, người Pháp đã tổ chức một tour thủy phi cơ từ Sài Gòn ngay ở Bến Bạch Đằng, bay sang Angkor, Siem Reap, Cam Bốt, sau đó tham quan Angkor, rồi bay về chỉ trong một ngày.
Trong cuốn sách này chúng tôi chưa có thời gian, chưa đủ chương, để trình bày về công nghiệp du lịch mà người Pháp đã bắt đầu xây dựng ở Đông Dương trước 1945. Chúng tôi chỉ mới giới thiệu một số địa điểm du lịch thì đã thấy Pháp là một đất nước công nghiệp, là một chính quyền điều hành nền kinh tế thị trường phong phú và đa dạng, cũng như có sự đóng góp của Việt Nam.
Đặc biệt tôi muốn nhấn mạnh công sức của người Việt Nam rất là cảm động. Tôi tìm thấy những hình ảnh, đọc được những dòng viết về những con đường lên đến những vùng sâu, vùng xa, như Sapa, Sầm Sơn, Đồ Sơn, Bà Nà, lúc đó chưa có đường cho xe chạy; họ phải làm từng bước. Trước khi có những con đường để xe hơi chạy, đã có những porteur là những phụ nữ Việt Nam khiêng kiệu vận chuyển du khách lên đó .
Hoặc là Côn Đảo, là một nhà tù, nhưng tuyệt đẹp và cầu tàu, cũng như những con đường ngày nay chúng ta hưởng thụ, đó chính là xương máu của những người tù”.
Theo lời ông Trần Hữu Phúc Tiến, mong muốn của nhóm biên tập "Du lịch Đông Dương xưa" là khuyến khích các hãng lữ hành khai thác hướng du lịch này:
“Chúng tôi đưa ra khái niệm “ Du lịch Đông Dương xưa” và chúng tôi hy vọng là các hãng lữ hành Việt Nam có thể dùng những tư liệu về Đông Dương xưa, để không những quảng bá cho du khách các nước Francophonie ( khối Pháp ngữ ) cũng như cho thế giới nói tiếng Anh, mà cho cả du khách Việt Nam. Chúng ta đến chỉ thấy Đà Lạt, Sapa đẹp, nhưng không biết quá khứ của những địa điểm đó là như thế nào thì thật là uổng.
Hồi đó có một ông địa chủ Nam Kỳ gốc Bạc Liêu, sau khi đi xe lửa từ Sài Gòn ra Hà Nội và đi chơi khắp miền bắc, đã viết một quyển hồi ký và tự xuất bản. Ông viết rằng, nhờ có con đường xe lửa Sài Gòn - Hà Nội mà bây giờ chúng ta mới hiểu biết quê hương nhiều hơn.
Cũng như cụ Phạm Quỳnh, là nhà báo, năm 1918 lần đầu tiên lên Sài Gòn, lúc chỉ mới 26 tuổi, đã thấy kinh ngạc về sự phát triển của Sài Gòn, về những cái mới mẻ so với miền bắc. Ông đã viết một câu cảm động: Chính người Việt Nam phải hiểu biết về quê hương mình hơn.
Bước qua thế kỷ 21 này, chúng ta có 100 triệu dân, chứ không còn là một nước nhỏ bé chỉ có 20 triệu dân như ngày xưa, nhu cầu tìm hiểu về đất nước, con người, văn hóa là một nhu cầu rất lớn."
Nếu bạn có dịp đi du lịch Ấn Độ và ghé qua một quán ăn ở New Delhi, thì bạn đừng bao giờ gọi món cà ri. Chủ yếu cũng vì trên thực đơn các nhà hàng Ấn Độ, không có bán món nào được gọi là ''cà ri''. Trong mắt người nước ngoài, cà ri là một trong những biểu tượng nổi tiếng nhất của ẩm thực Ấn Độ. Trên thực tế, món hầm có nước sốt "cà ri" là do người Anh sáng chế, gợi hứng từ các công thức nấu ăn của người Ấn.
Loại bột cà ri đầu tiên được bày bán ở Luân Đôn vào cuối thế kỷ XVIII, ban đầu chỉ có hạt rau mùi và tiêu đen, sau đó kết hợp thêm với bột nghệ, lá cà ri, hạt thì là. Những người bán bột cà ri thường có những công thức chế biến riêng, thêm bớt những loại gia vị quen thuộc để tạo thêm hương vị khác biệt. Nhìn chung, thành phần bột cà ri chủ yếu bao gồm đại hồi, đinh hương, thảo quả, hạt mùi khô, bột nghệ, quế chi, hoa tiêu và nhiều khi có thêm ớt khô. Một số thành phần thường được rang cho thơm rồi nghiền thành bột mịn, một số khác như hạt mùi chỉ giã nhuyễn chứ không rang nóng, rồi tất cả được trộn chung với nhau.
Tại châu Âu, sốt cà ri thường được chế biến với bột gia vị làm sẵn, trong khi tại Ấn Độ, các bà nội trợ có thể sử dụng tới 30 loại gia vị khác nhau để làm ra nước sốt, nhưng họ không gọi đó là món cà ri. Tại Pháp, đầu bếp gốc Ấn Beena Paradin là tác giả của hai quyển sách ''Inde Gourmande'' và nhất là ''Spice Up'' nói về các loại gia vị do nhà xuất bản Flammarion phát hành. Trả lời phỏng vấn RFI Pháp ngữ, cô Beena Paradin cho biết công thức bột cà ri (để nấu các món hầm) ban đầu là một sản phẩm ''sáng chế'' để phục vụ người Anh, chứ không được phổ biến rộng rãi ở Ấn Độ :
Khi nhắc đến cà ri, điều nghịch lý hiển nhiên nhất vẫn là loại gia vị hỗn hợp này đã trở thành biểu tượng của ẩm thực Ấn Độ trên toàn thế giới, thế nhưng cà ri ban đầu lại được sáng chế để đáp ứng nhu cầu của kiều dân Anh. Các gia đình người Anh khi trở về thăm ''mẫu quốc'' đều muốn mang theo một chút quà từ Ấn Độ, vào thời bấy giờ còn là thuộc địa của Anh.
Dựa vào truyền thống nấu ăn của người Ấn, nhất là cách kết hợp nhiều gia vị để tạo thêm mùi hương tinh tế cho các món ăn, người Anh đã chế biến ra loại bột cà ri. Trên lãnh thổ Ấn Độ, các loại gia vị trộn sẵn với nhau thường được gọi là ''garam masala'', trong khi chữ ''cà ri'' (kari) trong tiếng Tamil chỉ có nghĩa là món hầm với gia vị. Nếu bạn nói rằng hôm nay bạn nấu món ''cà ri'', thì người Ấn không hiểu rõ là bạn sẽ nấu món gì.
Ngược lại, người Ấn sẽ hiều ngay khi bạn nói rằng hôm nay tôi nấu món cà tím korma, tức là cà tím hầm với sốt cà ri trộn với rau dền, lá mù tạt, hạt điều và bột hạnh nhân. Món vindaloo là sốt cà ri có tỏi và gừng. Món tikka masala hay tandoori, còn được gọi là món ''cà ri khô'', do thịt cá được tẩm gia vị rồi đem nướng lò, chứ không có nhiều nước sốt. Nói tóm lại, người Ấn sẽ phân biệt từng món ăn trong cách gọi, trong khi cà ri là cách đặt tên Âu hóa để gọi chung các món ăn hầm với nhiều gia vị. Nhưng có một điều chắc chắn: bột cà ri là một ''phát minh'' của người Anh.
Chữ cà ri (kari) lần đầu tiên xuất hiện trong các quan hệ buôn bán giữa Công ty Đông Ấn của Anh với các thương nhân Ấn Độ (gốc Tamil) ở vùng đông nam, đặc biệt là tại thành phố Madras. Họ đã sáng chế ra một loại gia vị hỗn hợp gọi là bột cà ri (kari podi) được sử dụng trong các món hầm. Kể từ đầu thế kỷ XX, các món nấu với bột cà ri, một khi đã du nhập sang nhiều nước khác, đương nhiên trở thành một phần của nền ẩm thực thế giới. Đầu bếp Beena Paradin giải thích :
Bột cà ri đã được phổ biến từ thế kỷ XIX, và đến đầu thế kỷ XX, loại bột gia vị này đã lan rộng ra châu Âu rồi sang khắp thế giới. Bằng chứng là tại hầu hết các cửa hàng bách hóa ở Anh, người tiêu dùng có thể mua các loại bột cà ri theo kiểu Bombay hay theo kiểu Madras để nấu các món thịt hầm ở nhà. Lối tiếp cận này của người Tây phương khác hẳn với truyền thống nấu ăn của người Ấn. Trong công thức nấu ăn, người Ấn sử dụng gia vị trong nhiều công đoạn khác nhau. Đầu tiên là các thành phần chính được ướp với gia vị, đến khi nấu có thể trộn thêm với gia vị dưới dạng bột hoặc nguyên chất (như quế, gừng, hạt ngò, thảo quả ….) Đến khi món ăn đã chín, đầu bếp có thể nêm thêm hoặc chỉnh lại mùi hương bằng cách cho gia vị vào chảo dầu, đảo qua vài lần khi chảo thật nóng rồi đổ vào nồi cà ri để tăng thêm hương sắc cho món ăn. Nói tóm lại, cách dùng gia vị của người Ấn khá công phu tinh tế, trong khi người Âu chỉ trộn gia vị một lần khi nấu với bột cà ri làm sẵn và như vậy các món ăn bất kể là thịt gà, tôm cá hay là rau đều có một mùi như nhau.
Cũng như các quán ăn Việt Nam tại Pháp chủ yếu bán những món phổ biến nhất ở nước ngoài như phở bò, bún chả hay chả giò (nem rán), thì các quán ăn Ấn Độ cũng thường bán những món quen thuộc nhất đối với người nước ngoài. Điều đó tạo cảm tưởng ''đồng bộ'' thuần nhất nơi thực khách Tây Âu, trong khi ẩm thực Việt Nam cũng như Ấn Độ lại thiên hình vạn trạng. Đầu bếp người Pháp gốc Ấn Beena Paradin giải thích đôi nét khác biệt trong ẩm thực giữa các vùng miền :
Chúng ta hay quên rằng Ấn Độ là một đất nước rộng lớn, do vậy có khá nhiều khác biệt giữa phương bắc và phương nam : để cho bạn có thể hình dung dễ hơn thì sự khác biệt này giống như hai nền văn hóa Thụy Điển (Bắc Âu) và Tây Ban Nha (Nam Âu).
Tùy theo phong quán tập tục, mỗi vùng dĩ nhiên sẽ có những đặc sản khác nhau. Nhìn từ bên ngoài, ẩm thực Ấn Độ thường có nhiều món sốt, nhưng ta lại chóng quên rằng Ấn Độ cùng có nhiều món gọi nôm na là ''cà ri khô''. Cà ri Ấn thường được xem như là món cay, nhưng thực ra cũng có nhiều loại sốt bùi không cay như korma, dopyaza là thịt nấu với sốt hành, tikka là một loại nước sốt chua ngọt với me trộn đường, murgh makhani là gà cay ngọt, trộn cùng với sốt bơ béo ngậy thơm lừng. Các món chay thường có các món cà hấp baingan bharta hay cơm « thập cẩm » biryani. Các món này thường được ăn kèm với cơm basmati, bánh mì chapati hay naan, loại bánh mì nướng cán mỏng.
Ở đây có thể nói sự khác biệt lớn nhất giữa hai miền vẫn là ăn cơm hay bánh mì. Tại các tỉnh miền nam Ấn Độ, bữa ăn nào cũng phải có cơm. Trong khi ở miền bắc, người Ấn chủ yếu ăn bánh mì chapati (loại bánh không có bột nổi khác với bánh mì naan), trong khi cơm lại được xem là một món ăn khi có tiệc tùng lễ hội, thường được dọn trên mâm cỗ.
Trường hợp của bột cà ri Ấn Độ làm cho ta liên tưởng đến cách đặt tên « bò bún » cho món Việt tại các quán ăn ở Pháp. Bột cà ri do người Anh sáng chế để tái tạo hương vị của một vài món ăn Ấn tại trời Âu, nhưng rốt cuộc lại trở nên tiêu biểu cho ẩm thực Ấn Độ trong mắt người nước ngoài. Loại bánh mì naan có phô mai ăn kèm với các món hầm là hoàn toàn do một gia đình người Ấn nhập cư sáng chế ở Paris vào năm 1976, chứ không hề được phổ biến tại Ấn Độ.
Một cách tương tự, thực đơn các quán ăn Việt ở Pháp thường có bán món « bò bún » mà thực ra lại giống như món « bún thịt nướng » hay « bún thịt bò xào » của dân Nam Bộ. Thực khách Tây một khi đã quen ăn quán Việt ở Pháp, đến khi ghé thăm Việt Nam, lại không thể nào hiểu nổi tại sao không hề có món « bò bún » trên thực đơn các nhà hàng, cho dù họ có đi tìm ở khắp nơi, từ 16 quận Sài Gòn cho đến 36 phố phường Hà Nội.
Khoảng 150 tác phẩm của ba danh họa Việt : Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm được trưng bày tại một triển lãm của bảo tàng nghệ thuật châu Á Cernuschi tại Paris, từ ngày 11/10/2024-09/03/2025. Đây là dịp để du khách có thể tìm hiểu sự tiến triển trong phong cách nghệ thuật Đông Tây kết hợp của tam kiệt trời Âu.
Triển lãm với tên gọi “Những nhà tiên phong về nghệ thuật Việt Nam hiện đại tại Pháp”, diễn ra trùng với dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trường Mỹ Thuật Đông Dương (1925), cái nôi của nhiều nghệ sĩ Việt thành danh.
Bảo tàng nghệ thuật châu Á Cernuschi giới thiệu các bức hoạ của Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, đến từ 25 bộ sưu tập khác nhau, cùng sự trợ giúp từ gia đình của các nghệ sĩ. Triển lãm phác họa lại con đường nghệ thuật của ba họa sĩ, yêu quê hương nhưng cũng gắn bó với Pháp, và những thay đổi trong phong cách sáng tác giữa dòng lịch sử nhiều biến động.
Trước tiên là giai đoạn từ trường Cao đẳng Nghệ thuật Đông Dương đến năm 1930. Vai trò của vị hiệu trưởng đầu tiên Victor Tardieu được nhấn mạnh, đặc biệt là mối quan hệ với các học trò Việt. Tiếp theo là giai đoạn 1931-1937, “Các họa sĩ bị nghệ thuật Paris quyến rũ”, và những xáo động của chiến tranh”. Cuối cùng là “Thời kỳ ở Pháp: Cuộc cách mạng của ba nghệ sĩ” với những sáng tác được lấy cảm hứng từ những vần thơ Kiều, của Nguyễn Du.
Sinh ra trong một gia đình ở miền bắc Việt Nam, có cha là thống đốc vùng, Lê Phổ được tiếp nhận các giáo lý của Khổng Tử từ khi còn nhỏ, thạo chữ Hán Nôm. Lê Phổ học cấp 3 tại trường Bưởi (Trường trung học Bảo hộ thời Pháp thuộc) và cũng chính tại đây ông gặp Mai Thứ. Vào năm 1925, cả hai cùng thi đậu vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, theo học khoá đầu tiên ngay sau khi thành lập, dưới sự dẫn dắt của Victor Tardieu, và cả hai đã kết bạn với Vũ Cao Đàm, gia nhập trường một năm sau đó.
Đọc thêm : Danh họa Mai Thứ và duyên nợ với Mâcon
Kể từ sau năm 1937, cả ba đều đến Paris và định cư tại Pháp. Trong thời gian đầu ở Paris, ba danh họa có quan hệ khá mật thiết, không chỉ là hàng xóm, tương trợ nhau những lúc khó khăn, mà còn chia sẻ thị trường. Phong cách nghệ thuật của Lê – Mai – Vũ có những điểm tương đồng. Họ đều có "chiến lược" sáng tác tranh lụa, có tầm nhìn về một Việt Nam "thơ mộng", phi thời gian, tại những không gian mà những cô gái trẻ uống trà, hay đi dạo trong các khu vườn yên bình, bất chấp bối cảnh chính trị nhiều xáo trộn.
Sự dung hòa giữa nghệ thuật Đông – Tây trong các họa sĩ tạo ra nét đặc trưng riêng, là những cánh chim đầu đàn của nghệ thuật hiện đại Việt Nam tại Pháp. Các tác phẩm của ba danh họa được nhiều người mến mộ, nhiều lần phá kỷ lục về giá trong thị trường nghệ Đông Dương gần đây.
RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn giám tuyển Anne Fort, phụ trách về triển lãm để hiểu thêm về ba danh họa Việt, Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm.
Tại sao lại lựa chọn ba cái tên Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, thông điệp mà triển lãm muốn truyền tải qua các tác phẩm của 3 danh họa là gì ?
Anne Fort : Sau cuộc hợp tác thành công với gia đình của Mai Thứ, trong một triển lãm được tổ chức ở thành phố Macon, miền nam nước Pháp vào năm 2022, chúng tôi tiếp tục làm việc cùng họ và gia đình của hai họa sĩ khác, để mở ra cuộc triển lãm về các tác phẩm của ba người bạn, đã có quan hệ mật thiết từ khi theo học tại trường Cao đẳng Nghệ Thuật Đông Dương ở Hà Nội. Còn một điều thú vị nữa là vô tình mà triển lãm cũng diễn ra trùng với thời điểm kỷ niệm 100 năm thành lập trường, với khóa đầu tiên được mở ra mà Lê Phổ, Mai Thứ, Vũ Cao Đàm, có mặt và cùng học cho đến khi tốt nghiệp vào năm 1931.
Triển lãm có tên là “những người tiên phong về nghệ thuật Việt Nam ở Pháp” không phải là triển lãm về mỹ thuật Hà Nội, cũng không phải là triển lãm về các họa sĩ tiên phong của riêng Việt Nam. Chúng tôi chọn ba họa sĩ này, vì họ có điểm chung là đã chọn phát triển sự nghiệp của mình tại Pháp, và đã trải qua những biến động do quan hệ Pháp-Việt trong suốt thế kỷ 20. Tôi cho rằng rất quan trọng để nêu bật những cột mốc lịch sử khác nhau, không chỉ giai đoạn thuộc địa, mà cả Đệ Nhị Thế Chiến, và sau đó là giai đoạn Việt Nam giành độc lập cũng như các cuộc chiến nối tiếp sau đó (dẫn đến thống nhất hai miền). Bởi vì các sự kiện này tác động đến lựa chọn nghệ thuật, và đôi khi các họa sĩ không có lựa chọn, nhưng có thể thấy là họ đã biết cách thích ứng ra sao với những hoàn cảnh lịch sử.
Trong triển lãm, người xem có thể thấy rằng bảo tàng giới thiệu những sự kiện lịch sử, những thay đổi trong phong cách nghệ thuật của từng người trong các giai đoạn khác nhau. Ví dụ như hội nghị tại Fontainebleau vào năm 1946 do Hồ Chí Minh chủ trì, với sự hiện diện của Mai Thứ, Lê Phổ và Vũ Cao Đàm. Lập trường chính trị của các nghệ sĩ này như thế nào, có gì thay đổi hay không ?
Anne Fort : Phải nói rằng rất khó có thể hiểu rõ quan điểm chính trị của các nghệ sĩ này vì đơn giản là họ rất kín đáo. Trong tư liệu về Victor Tardieu, hiệu trường trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, cụ thể là trong các bức thư, ông ấy đã nói rõ với các sinh viên của mình rằng “họ là nghệ sĩ trên tất cả, và không phải làm chính trị”. Do đó, ngay từ khi còn trẻ, các họa sĩ đã được cảnh báo.
Trong triển lãm này, chúng tôi giới thiệu các tác phẩm mà Vũ Cao Đàm. Cụ thể là bức tượng bán thân được điêu khắc bằng đồng của Bảo Đại, được các chính quyền thuộc địa lúc bấy giờ đặt mua và hiện được đặt ở bảo tàng Quai Branly. Vào năm 1946, Vũ Cao Đàm cũng điêu khắc một bức tượng chân dung của Hồ Chí Minh nhân cuộc gặp tại Fontainebleau.
Mọi người có thể thấy ông có hai lập trường chính trị không thể dung hòa, vì Bảo Đại là vị vua Việt Nam, theo Pháp, nhưng được giáo dục ở Pháp, và được chính quyền thuộc địa đưa lên ngôi vị. Trái lại, Hồ Chí Minh, dù hiểu rõ về văn hóa Pháp, nói tiếng Pháp nhưng lại ở phe khác, giành độc lập cho đất nước của mình. Cũng cần phải hiểu rằng các nghệ sĩ sống nhờ tác phẩm của mình nên họ phải thích ứng theo đơn hàng. Đó là điều rất quan trọng, nếu nhận được đơn thì họ sẽ làm việc, sáng tác một cách chân thật nhất, theo yêu cầu của bên đặt hàng.
Tại sao lại coi Lê – Mai – Vũ là những người tiên phong về nghệ thuật Việt Nam tại Pháp ?
Anne Fort : Thứ nhất, họ là những người tốt nghiệp khoá đầu tiên của trường Cao đẳng Nghệ thuật Đông Dương, và tất cả đều nhận được học bổng, đến Pháp làm việc trong vài năm, quay trở lại Việt Nam từ năm 1937 - 1938.
Nhưng, sau đó, cả ba đều đã có thời gian dài sống ở Pháp, phải nói rằng hơn nửa cuộc đời của họ. Tại sao lại lựa chọn ba họa sĩ này, bởi vì con cái họ vẫn còn sống, và chúng tôi có thể tiếp cận nguồn tư liệu từ gia đình. Họ đã chia sẻ rất hào phóng, giúp chúng tôi làm rõ những trình tự thời gian của cuộc đời, cũng như phong cách của những nghệ sĩ. Tôi cho rằng chưa bao giờ chúng tôi có đầy đủ thông tin về 3 vị họa sĩ Việt như trong triển lãm này. Họ không được biết đến rộng rãi bởi công chúng tại Pháp, nhưng lại rất nổi tiếng trong giới nghệ thuật ở Đông Dương, bởi một cộng đồng nhỏ.
Là các hoạ sĩ Việt, được Pháp đào tạo, Lê Phổ và Mai Thứ và Vũ Cao Đàm đều đã đến định cư ở Pháp từ năm 1937 cho đến cuối đời. Cả ba đều tạo ra những chiếc cầu nối Đông – Tây. Làm sao các họa sĩ giữ được bản sắc quê hương, kết nối với cội nguồn khi sinh sống ở nước ngoài ?
Anne Fort : Đó là vấn đề mà cả ba đều muốn giải quyết, làm sao để giữ linh hồn Việt, vẫn là người Việt, khi ở xa cách quê hương cả ngàn cây số. Khi họ đến Paris, cả ba đã phải đối mặt với cuộc cạnh tranh với các nghệ sĩ đã làm việc ở thủ đô Pháp. Trong những năm 1930, Paris là kinh đô nghệ thuật của thế giới, quy tụ các nghệ sĩ đến từ khắp nơi, từ cả châu Âu, và các họa sĩ Việt nam, đã tìm thấy một cách để tạo ra dấu ấn riêng, được mọi người chú ý.
Khi đến Pháp, họ nhanh chóng từ bỏ tranh sơn dầu, và chuyển sang vẽ tranh trên lụa. Bởi vì lụa là vật liệu mà công chúng phương tây coi là một sản phẩm đậm sắc Á châu, được nhiều người yêu thích. Trong một cuộc phỏng vấn, Mai Thứ đã đặt ra câu hỏi, “làm sao để tôi trở lên nổi bật giữa đám đông, thể hiện điểm riêng biệt. Có thể thấy đó là một chiến lược của danh họa.
Thế nhưng, Vũ Cao Đàm và Lê Phổ lại quyết định ngừng vẽ tranh lụa vào những năm 1950 và quay lại với tranh sơn dầu, hay tạc tượng. Tôi cho rằng họ muốn giữ những sở thích nho nhỏ, những dấu ấn rất Việt. Trong các tác phẩm của họ trong giai đoạn này, có rất nhiều bức chân dung phụ nữ, đặc trưng châu Á, họ vẫn giữ được phong cách lãng mạn, và thêm điểm nhấn riêng. Các phụ nữ trong tranh của Lê Phổ và Vũ Cao Đàm luôn mặc áo dài Việt. Yếu tố này cho thấy các họa sĩ muốn giữ nét văn hóa quê nhà, ngay cả khi họ sơn bằng dầu, một kỹ thuật thường ít được sử dụng trong các tác phẩm về châu Á.
Tại châu Âu, chuyện dùng hoa tươi để chế biến món ăn mặn cũng như ngọt đã trở nên thịnh hành từ hai thập niên nay. Từ các món bình dị, dân dã cho đến các bữa ăn cao sang đắt tiền, chuyện dùng hoa tươi không chỉ tạo điểm nhấn cho món ăn thêm đẹp mắt mà còn kết hợp thêm nhiều hương vị ngon và lạ. Tại Pháp, trào lưu này giúp phát triển các nông trại ở thành thị, trồng hoa tươi để đáp ứng nhu cầu các tiệm bánh và nhà hàng.
Trong phạm vi thủ đô Paris, đã có khá nhiều ''nông trại'' trồng rau quả hay nuôi gia súc để tạo thêm không gian xanh cho người dân thành thị. Chẳng hạn như trại trồng rau ở trong công viên Suzanne Lenglen ở quận 15 hay trại chăn nuôi ở công viên Kellerman ở quận 13. Còn theo ban tiếng Pháp RFI, có một nông trại vừa được thành lập ở quận 20, nằm cách 400m trạm xe điện ngầm Gambetta, ở phía đông Paris. Do hai ông Gérard Munier và Benoît Liotard đồng sáng lập, nông trại này được đặt tên là « Le Paysan Urbain » (Nông dân thành thị), nằm ở trên một hồ chứa nước. Lượng nước trữ ở trong bể nhân tạo dùng để chữa cháy hay để tưới cây công viên thành phố, chứ không phải là nước sạch dùng trong sinh hoạt thường ngày.
Xuất thân từ gia đình nhà nông, hai ông Gérard Munier và Benoît Liotard đã từng đoạt giải nhất cuộc thi của Tòa đô chính Paris, nhờ sáng kiến chuyển đổi một khu đất bỏ hoang ở quận 20 thành một khu vườn trồng rau sạch có ao hồ để nuôi cá, có đồng cỏ để nuôi thỏ và chuồng gỗ nuôi gà. Độc đáo hơn nữa là nông trại này còn gieo trồng khá nhiều loại hoa tươi, chủ yếu để phục vụ cho các tiệm bánh ngọt cũng như các nhà hàng nào có nhu cầu. Hoa tươi là một mặt hàng dễ bị hư mà cũng không dễ vận chuyển, cho nên việc lập nông trại trồng hoa giữa lòng thành phố là một giải pháp cho ngành nhà hàng thời nay, chuyên dùng các đặc sản địa phương hay nông phẩm sản xuất tại chỗ, thay vì phải nhập hàng từ xa.
Tại khu vườn « Le Paysan Urbain » (Nông dân thành thị), không phải chỉ có loài ong mới thích nhụy hoa, khách tham quan giờ đây cũng được hái hoa rồi nếm thử một số loài hoa tươi, theo lời hướng dẫn của chuyên viên phụ trách việc trồng hoa, anh Loïc Le Noan:
Nụ hoa này vừa chớm nở nhưng khi cho vào miệng nếm thử ta nhận thấy ngay mùi vị của tỏi chiên giòn. Loài hoa mà tôi vừa ăn là loài hoa tul-ba-gia, có nguồn gốc từ Nam Phi, và nay băt đầu trở nên phổ biến tại Pháp. Hoa có nụ nhỏ với nhiều cánh tím, còn khi ăn thử hương vị lại giống như tỏi, cho nên hoa tulbaghia thường được gọi nôm na là huệ tỏi. Đây là một trong những loài hoa được chúng tôi trồng nhiều nhất ở đây.
Một loại hoa khác cũng có mùi vị tương tự chính là « l'ail des ours » có nghĩa là tỏi gấu hay còn được gọi là tỏi rừng. Tại châu Âu, loài gấu sống trên núi vào mùa xuân thường hay ăn loại rau này có nhiều nụ hoa màu trắng, để dễ tiêu hóa. Ban đầu là một loài hoa dại có thể hái ở trong rừng, tỏi gấu giờ đây được trồng trong vườn hay ở những nơi có nhiều bóng râm, trước nhu cầu chế biến nhiều món ăn : đặc biệt là loại tỏi gấu ngâm dầu ô liu dùng để làm sốt trộn mì sợi, chẳng những thơm ngon mà còn bổ dưỡng.
Nhưng không phải chỉ có hoa tỏi, mà còn có nhiều loài hoa khác cũng được trồng luân phiên trên mảnh vườn rộng hơn 6.500 mét vuông, rồi được giao đến các nhà hàng ở thủ đô Pháp. Trên các luống hoa, có rất nhiều loại hoa bướm păng xê hai màu (pensée), các chùm hoa lưu ly (bourrache) trông như những ngôi sao năm cánh màu chàm, hoa capucine màu vàng cam đôi khi còn được gọi là ''sen cạn'' có một chút vị cay nồng, càng giữ lâu càng có thêm vị đắng như cải diếp xoăn (endive), hoa agastache màu tim tím, cùng một giống như rau húng, nhưng lại có vị thơm của cam thảo. Tuy nhiên, theo lưu ý của anh Loïc Le Noan, không phải loài hoa nào mọc tự nhiên ở trong vườn cũng có thể ăn được:
Đây là hoa anh thảo (primevère /primula) còn có tên gọi thông dụng là hoa báo xuân hoa anh thảo. Một số loại hoa anh thảo có thể ăn được (như loại màu vàng primula veris hay primula acaulis), một số khác lại rất độc hại như loài anh thảo primula obconica. Vì vậy các bạn phải hết sức cẩn thận, không nên phạm sai lầm, nếu không chắc thì đừng nên ăn. Riêng trong họ hoa tán, có rất nhiều loài ăn được như cây thì là (aneth), cần tây (celeri), diệp cần (cerfeuil), hồi xanh (anis vert), nhưngbên cạnh đó còn có loại cigue còn được gọi là độc cần, có thể gây tử vong dù chỉ ăn có một chút.
Chuyến tham quan theo hướng dẫn của Loic Le Noan tiêp tục với mãnh vườn trồng các giống hoa viola và păng xê. Theo anh, ngoài việc trồng hoa tùy theo mùa, một số giống hoa còn được chọn tùy theo nhu cầu của ngành nhà hàng cũng như các tiệm bánh:
Vào mùa thu, chúng tôi chủ yếu trồng các loại hoa viola, hoặc những nụ hoa cỡ nhỏ có nhiều cánh, càng nhiều màu càng tốt. Điều đó phần lớn cũng vì cho đến nay các nhà đầu bếp, các chủ nhà hàng vẫn luôn quan tâm đến những loại hoa nhỏ, vì theo họ, hoa nhỏ dễ sử dụng hơn để chế biến hay trang trí các món ăn. Đó là trào lưu hiện thời và về sau này biết đâu chừng sẽ thay đổi …. Hoa viola hay păng xê không phải là những loài hoa có nhiều hương vị đậm đà nhưng lại mềm mại mượt mà, tạo ra cảm giác dễ chịu cho thực khách. Chẳng những thế hoa păng xê rất đẹp nhờ có đầy đủ màu sắc : vàng, xanh, tím, đỏ, hồng tựa như một bức tranh nằm ở trên bàn ăn.
Còn theo ông Gérard Munier, nhà đồng sáng lập trại « Nông dân thành thị » (Le Paysan Urbain), ngay từ đầu, việc chọn lựa trồng hoa tươi và một số rau quả là một quyết định sáng suốt. Ông Gérard Munier giải thích:
Nếu bạn nghĩ rằng các nông trại vườn rau ở chốn đô thị có thể thay thế cho các đồng ruộng và ngành nông nghiệp thực thụ, thì đó là một điều sai lầm lớn. Dù có làm gì đi nữa, các nông trại ở thành phố vẫn không thể nào trồng khoai tây hay cà rốt để có đủ thức ăn và trở nên tự chủ về mặt lương thực. Theo tôi, các nông trại đô thị phù hợp với các kiểu trồng trọt không đòi hỏi quá nhiều đất canh tác : trồng hoa hay trồng rau là thích hợp hơn cả.
Các nông nghiệp thành thị trước hết là tạo thêm không gian xanh thoáng mát tự nhiên cho người dân Paris. Bạn có thể đến đây để giúp làm vườn, gieo trồng hay tự tay làm những bó hoa vừa hái. Nông trại thành thị cũng có mục đích giáo dục, tổ chức các lớp làm vườn ngoài trời cho giới học sinh và các em nhỏ. Về mặt cơ cấu, nông trại giống như một doanh nghiệp cỡ nhỏ, tuyển dụng một số nhân viên đang gặp khó khăn để tạo cơ hội cho họ hòa nhập xã hội dễ dàng hơn. Trong số 35 nhân viên làm việc tại « Le Paysan Urbain », có 23 người ở trong diện này.
Cũng nhằm mục đích phát triển và đa dạng hóa các hoạt động, bên cạnh việc trồng hoa, trại « Nông dân thành thị » giờ đây còn khai thác thêm việc trồng nấm, sản xuất chồi cây và hạt nẩy mầm, vốn là một trong những nhu cầu thịnh hành tròng ngành nhà hàng hiện nay. Công việc này do chuyên viên Michel Bruneau điều hành, trong một nhà kính rộng khoảng 600 mét vuông. Công việc sản xuất chồi no đồi khi còn phức tạp hơn cả việc trồng hoa. Theo ông, ngay cả việc tưới nước cho các chồi cây xanh cũng cần phải làm một cách nhẹ nhàng để tránh làm hỏng các nhánh lá non.
Chồi cây còn được gọi là « lá mầm » là hai nhánh lá non đầu tiên mọc từ hạt giống. Chúng tôi gieo hạt và khi hai chiếc lá non đầu tiên trỗ ran thì nên hái ngay. Công việc thu hoạch lá non được thực hiện với một chiếc tông đơ nho nhỏ, giống như loại dùng để cắt tóc …. Chồi non thường được trồng trên một lớp đất dày không quá 10 cm và có thể thu hoạch được ngay sau 8 ngày gieo hạt. Sàn đất của nhà kính thường có màu trắng để phản chiếu ánh nắng, trong khi các hạt giống được đặt bân cạnh những viên gạch có gắn ống dẫn nước nóng, làm như vậy để giữ nhiệt độ sưởi ấm những thứ cần thiết trong mùa đông, và tránh thất thoát hay phung phí năng lượng.
Củ cải tím đỏ (radis pourpre), rau dền non (amarante), rau me chua (oxalis), sen cạn (capucines), hiện giờ nông trại trồng nhiều loại chồi non và hạt nẩy mầm để bổ sung cho các loại hoa ăn được, kể cả hoa mù tạt (mourtarde). Nông trại này đã nhận được sự bảo trợ ''đỡ đầu'' của đầu bếp hai sao Michelin Thierry Marx, người đang điều hành nhà hàng Madale Brasserie trên tầng một Tháp Eiffel. Các chồi non có rất nhiều chất dinh dưỡng, cao từ gấp 4 đến 20 lần so với giống cây trưởng thành. Vì vậy cho nên các đầu bếp trứ danh thường hay đưa màu sắc của hoa và hàm lượng sinh tố của lá non vào trong thực đơn. Nói cách khác, lá non và hoa tươi không những bổ dưỡng mà còn có nhiều mùi thơm ngon.
Nếu chuyện dùng hoa trong ẩm thực đã trở nên thịnh hành từ những năm 2000 thì thực ra truyền thống chế biến món ăn với các loại hoa tươi đã có từ thời xa xưa. Trong quyển sách « De Re Coquinaria » biên soạn vào thế kỷ IV của tác giả Apicius, ghi chép bằng tiếng La Tinhcác công thức nấu ăn thời cổ đại, người La Mã đã có thói quen chế biến món ăn với hoa hồng, cẩm quỳ hay nhụy hoa nghệ tây ….. Trào lưu ở trời Tây tưởng chừng là mới, nào ngờ đã có từ rất lâu : ướp mùi hương ngát hoa ngâu, dịu thơm nồng thắm sắc màu.
Để bảo đảm an ninh năng lượng và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn thực hiện được cam kết về chống biến đổi khí hậu, Việt Nam đang muốn quay trở lại với các dự án điện hạt nhân đã bị bỏ dở trước đây.
Vào giữa tháng 9 vừa qua, chính phủ Hà Nội đã giao cho bộ Công Thương nghiên cứu việc phát triển điện hạt nhân của các nước, “để đề xuất phát triển loại năng lượng này tại Việt Nam trong thời gian tới”. Trên cơ sở đó, chính phủ “sẽ báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định”.
Trên thế giới hiện nay, nhiều nước đang quay lại điện hạt nhân để chống biến đổi khí hậu vì hạt nhân là nguồn điện hầu như không phát thải CO2.
Vào năm 2009, Quốc Hội Việt Nam đã phê duyệt kế hoạch xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuân, với tổng cộng 4 lò phản ứng hạt nhân với tổng công suất 4.000 MW. Các hợp đồng được giao cho tập đoàn Nhật Bản Japan Atomic Power Co và tập đoàn Nga Rosatom thực hiện, với tổng chi phí khoảng 8,9 tỷ đô la.
Nhưng một phần do những quan ngại từ tai nạn hạt nhân Fukushima năm 2011 và một phần do khó khăn về ngân sách vào thời gian đó, dự án này đã dừng lại vào năm 2016 theo quyết định trong Nghị quyết 31 năm 2016 của Quốc Hội. Đến năm 2022, khi giám sát về việc thực hiện nghị quyết này của Quốc Hội, Ủy ban Kinh tế đã đề xuất nên xem xét phát triển năng lượng hạt nhân “trên cơ sở đánh giá đầy đủ, khoa học, chính xác thực trạng và dự báo cung cầu năng lượng”.
Nay nhu cầu phát triển điện hạt nhân càng trở nên cấp thiết do Việt Nam đang gặp nhiều trở ngại trong chiến lược phát triển các nguồn năng lượng sạch, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và khí đốt thiên nhiên, do các vấn đề về quy định và giá cả.
Trả lời RFI Việt ngữ ngày 27/09/2024, giáo sư Phạm Duy Hiển, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt, cũng cho rằng đã đến lúc phải xem xét trở lại khả năng phát triển điện hạt nhân:
“Trong bối cảnh chung , rõ ràng là khi kiểm tra lại các phương án, chúng ta có thể xem xét trở lại vấn đề hạt nhân, vì năng lượng này có thể đóng góp phần lớn và tạo thêm bức tranh chung, tức là tiến đến thực hiện cho được cam kết netzero cũng như các phương án điện khác.
Trước đây chúng ta gác việc ấy lại, nhưng bây giờ thấy cần thiết phải xem xét, nhưng đấy chỉ mới là xem xét thôi, chứ còn điện hạt nhân thì có nhiều loại lắm, vấn đề là xem xét loại nào.
Bây giờ tình trạng chung các nước đều như thế cả, cho nên nước nào cũng sẽ xem xét phát triển điện hạt nhân, nhưng mỗi nước có một điều kiện riêng. Khi xem xét Việt Nam cũng phải dựa trên điều kiện của Việt Nam để đề ra những phương án cụ thể, chứ thực chất là các loại năng lượng tái tạo vẫn tốt, nhưng bao giờ cũng có những khó khăn”.
Thật ra, theo hãng tin Anh Reuters, từ nhiều năm qua, Việt Nam đã vẫn tiếp tục thăm dò khả năng phát triển điện hạt nhân và đã thảo luận với những nước như Nga, Hàn Quốc và Canada về việc hỗ trợ phát triển các lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ.
Việc phát triển điện hạt nhân hiện không được đề cập trong Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia đến 2030 ( Quy hoạch điện VIII ), nhưng trong báo cáo gửi các bộ ngành đề nghị góp ý cho dự thảo sửa quy hoạch này, bộ Công Thương có nhắc đến phát triển các nhà máy điện hạt nhân cỡ nhỏ (SMR) ở Việt Nam.
Theo Bộ này, các lò phản ứng module nhỏ có công suất khoảng 300 MW mỗi tổ máy, bằng một phần ba công suất của các lò truyền thống. Các nhà máy này sản xuất lượng điện có hàm lượng carbon thấp, thời gian xây dựng ngắn (khoảng 24-36 tháng).
Giáo sư Phạm Duy Hiển cũng đồng tình với việc phát triển các lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ phù hợp với điều kiện của Việt Nam:
“Bây giờ nếu nói trở lại điện hạt nhân, ý kiến dứt khoát của tôi là không dùng điện hạt nhân như trước đây đã từng dự định làm ở Phan Rang theo mô hình các nhà máy thế hệ 3+, dùng công nghệ của Nga và của Nhật, rất là tốn kém, giải pháp về an toàn thì rất tốt, nhưng không cần thiết. Ví dụ như họ tính là nhà lò kiên cố đến mức mà máy bay có rơi thẳng xuống thì không sao cả. Để làm gì? Xác suất mà máy bay rơi xuống rơi xuống nhà lò thì cực kỳ thấp. Công nghệ đó có thể thích hợp với các nước tiên tiến. Bây giờ các nước đó xây những lò phản ứng cùng một lúc có thể cho ra hàng ngàn MW.
Còn bây giờ theo điện hạt nhân thì phải theo option mới, mà một trong những option đó là lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ. Lò phản ứng này rất thích hợp vì không đòi hỏi nhiều về cơ sở hạ tầng về pháp lý, về xây dựng…, nhưng công suất tối đa chỉ 100, 200 MW, nên tất nhiên là phải cần nhiều lò.”
Nhưng giáo sư Phạm Duy Hiển nhấn mạnh, hiện trên thế giới chưa có lò phản ứng hạt nhân cỡ nhỏ nào sẵn sàng để được thương mại hóa:
"Nước nào cũng nói như vậy nhưng đâu đã có ai bán lò công suất thấp với giá tương đối phải chăng. Bộ Công Thương nếu có trình dự án cho Bộ Chính trị thì cũng để đấy, vì phải có thêm thời gian nghiên cứu và cũng chờ cho đến khi nào các lò công suất thấp đó được thương mại hóa, chắc chắn là phải sau năm 2030".
Nếu quyết định trở lại với các dự án phát triển điện hạt nhân, Việt Nam sẽ có thể trông chờ vào sự trợ giúp của nước nào? Trước mắt, có vẻ như Nga đang chiếm ưu thế trong số các đối tác tương lai của Việt Nam.
Theo báo chí trong nước, trong chuyến thăm cấp nhà nước của tổng thống Nga Vladimir Putin ở Việt Nam vào tháng 6/2024, hai bên đã khẳng định "phát triển năng lượng nguyên tử vì mục đích hoà bình là lĩnh vực hứa hẹn trong mở rộng hợp tác song phương giữa Việt Nam và Liên bang Nga."
Nhân dịp đó, Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Quốc gia Liên bang Nga (Rosatom) và Bộ Khoa Học và Công Nghệ Việt Nam đã ký bản ghi nhớ về lộ trình thực hiện Dự án Trung tâm Nghiên cứu khoa học công nghệ hạt nhân tại Việt Nam. Dự án này bao gồm lò phản ứng hạt nhân với công suất 10 MW sẽ được xây dựng tại thành phố Long Khánh (Đồng Nai).
Thật ra thì ba nhiệm vụ quan trọng của lò phản ứng tại Long Khánh chỉ là sản xuất đồng vị phóng xạ, dược chất phóng xạ để chẩn đoán, điều trị ung thư; chiếu xạ silic tạo vật liệu bán dẫn; triển khai các nghiên cứu về ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và đồng vị phóng xạ. Nhưng đây được coi là cơ sở để "giúp nâng cao tiềm lực năng lượng nguyên tử cho Việt Nam trong giai đoạn tới", theo đánh giá của chính phủ Việt Nam.
Hàn Quốc, một trong những quốc gia cũng có thế mạnh về năng lượng nguyên tử, cũng đã tỏ vẻ rất quan tâm đến khả năng phát triển loại năng lượng này ở Việt Nam. Theo báo chí trong nước, khi hội kiến chủ tịch nước Tô Lâm ngày 02/08, đại sứ Hàn Quốc Choi Young Sam bày tỏ mong muốn của Seoul tăng cường hợp tác với Hà Nội trong việc phát triển nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam.
Trước đó, Công ty Thủy điện và Điện hạt nhân Hàn Quốc (KHNP) thuộc Công ty Điện lực Hàn Quốc (KEPCO) ngày 22/6/2023 tại Hà Nội đã ký kết biên bản ghi nhớ với Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam (VINATOM) về hợp tác nghiên cứu trong lĩnh vực điện nguyên tử và lò phản ứng module nhỏ (SMR).
Việc phát triển điện hạt nhân ở Việt Nam như đã nói ở trên phải cần nhiều năm, cho nên trước mắt, do nhu cầu tiêu thụ điện năng ngày càng lớn, Việt Nam phải cố gắng tiết kiệm điện, điều mà giáo sư Phạm Duy Hiển đã kêu gọi từ lâu:
"Tôi thấy rất mừng là nước đã nhận ra rằng mức tiêu thụ điện năng của mình là quá cao so với nhiều nước khác. Do đó ngay cả EVN ( Tập đoàn Điện lực Việt Nam ) cũng đã đề nghị nhà nước phải có một chính sách tiết kiệm điện một cách triệt để, thậm chí đề ra mục tiêu là hàng năm phải tiết kiệm 2% điện năng. Đấy là một chủ trương rất tích cực, góp phần vào mục tiêu chung, chứ không chỉ có việc phát triển các năng lượng tái tạo và những vấn đề khác."
"Seventies'' (Thập niên 1970) là tựa đề album mới của Dany Brillant, được phát hành vào mùa thu năm 2024. Đây là album phòng thu thứ 12 của ca sĩ người Pháp, bao gồm nhiều sáng tác mới, cộng thêm vài bản cover như ''Delilah'' của Tom Jones.
Dany Brillant còn nổi tiếng nhờ hát lại nhạc của Aznavour hay Dalida : từ giai điệu "La Bohème" (Kiếp phóng lãng) cho đến "Bambino" (Mối tình đầu) hay "Histoire d’un amour" (Chuyện tình yêu), nhiều bài cover của anh đều từng có phiên bản tiếng Việt.
Album mới của Dany Brillant lần này giống như một hành trình âm nhạc tìm lại thập niên 1970, với nhiều nhịp điệu sôi động vui tươi, nhưng đằng sau không khí lễ hội, vẫn thấp thoáng những nỗi buồn le lói. Kể từ khi thành danh vào đầu những năm 1990, Dany Brillant đã chọn cho mình thể loại nhạc khiêu vũ, anh trở thành một trong những nghệ sĩ hiếm hoi chuyên biểu diễn các loại nhạc xưa, thịnh hành từ nhiều thập niên trước. Từ những ảnh hưởng của nhạc swing, nhịp điệu bebop, cho đến những bài hát lãng mạn trữ tình, nhất là những giai điệu La Tinh, Dany Brillant đã tạo ra cho mình một phong cách, một chỗ đứng riêng trong làng nhạc Pháp.
Sinh năm 1965 tại Tunisie, Dany Brillant lớn lên trong một gia đình khiêm tốn trước khi theo bố mẹ đến Paris lập nghiệp. Từ thời niên thiếu, anh đã mê nghe nhạc jazz, điệu swing và các giọng ca crooner người Mỹ thời hoàng kim của các sòng bài Las Vegas như Frank Sinatra hay Dean Martin, những nghệ sĩ trong nhóm Ratpack luôn là thần tượng của anh.
Sự nghiệp của Dany Brillant thực sự bắt đầu vào năm 1991. Album đầu tiên của anh (C'est ça qui est bon) giúp phổ biến các điệu nhảy xưa như cha cha, bebop hay madison. Trong những album kế tiếp, Dany Brillant đã mở rộng thế giới âm nhạc của mình bằng cách thử hát nhiều loại nhạc khác nhau, nhưng vẫn duy trì nhịp điệu, trung thành với hình ảnh lịch lãm của một ca sĩ crooner tân thời. Cách đây hai năm, Dany Brillant đã trình làng hai album để tưởng niệm đồng thời vinh danh ngòi bút sáng tác của Charles Aznavour.
Với album "Seventies", Dany Brillant tìm lại thời thơ ấu của mình. Album này ra đời trong lúc gia dình anh đang có nhiều chuyện buồn. Em trai của Dany (tên là Steve) qua đời vì bệnh ung thư. Chính trong giai đoạn này, album "Seventies "đã thành hình, Dany Brillant nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ, những giai đoạn hạnh phúc trong đời. Vào những năm 1970, hai anh em Dany & Steve chỉ mới khoảng 10 tuổi. Gia đình anh không mấy dư dã nhưng bù lại họ luôn đùm bọc lẫn nhau.
Về mặt âm nhạc, Dany Brillant lấy cảm hứng từ những âm thanh dịu dàng tươi mát của nhạc pop, disco và soul, dùng những nhịp điệu nhẹ nhàng ấm áp để nói những chuyện nghiêm túc nặng nề hon, ''hóa giải'' những nỗi buồn khi thấy gia đình mình bị thiệt thòi mất mát. Về mặt nội dung, đây có lẽ là album có khá nhiều bài hát nói về đời tư của nam ca sĩ. Dany Brillant viết nhiều ca khúc cho gia đình anh. Nhạc phẩm "À mon frère" là bài ca tặng người em trai quá cố. ''Mon amour, tu vis toujours en moi'' (Tình yêu sống mãi trong ta) anh viết cho vợ. Còn nhạc phẩm "Merci Maman" là lời cảm ơn mà Dany gửi tặng thân mẫu.
Album ''Seventies'' cũng đánh dấu 30 năm sự nghiệp ca hát của Dany Brillant. Có thể nói là trong làng nhạc Pháp, anh vẫn có một chỗ đứng khá riêng biệt, chuyên hát sáng tác mới nhưng lại soạn theo các nhịp điệu xưa như paso, tango hay rumba. Dù mở rộng sang nhiều thể loại khác, nhưng sở trường của Dany Brillant vẫn là các điệu nhạc khiêu vũ (ballroom) cũng như dòng nhạc pop La Tinh.
Có một điều rất lạ là từ khi vào nghề cách đây ba thập niên, Dany Brillant thường bị chê là hát nhạc xưa, nhưng rốt cuộc anh lại không lỗi thời. Thành danh ở độ tuổi 20, Dany bắt đầu hát những loại nhạc thịnh hành vào thời của bố mẹ anh. Nhưng với thời gian, anh lại trở thành người đi đầu trước khi có những trào lưu làm sống lại các dòng nhạc hoài cổ, có từ thời xa xua (những năm 1940-1950).
Về điểm này, nam ca sĩ luôn tìm cách làm mới nhịp điệu bài hát, đặc biệt nhất là khi anh tái tạo các bản nhạc kinh điển như ''Bambino'' hay ''Besame Mucho'' trong tiếng Pháp của Dalida. Còn nhạc phẩm ''Historia de un Amor'' (bản phóng tác tiếng Việt là ''Chuyện tình yêu'' đôi ta ngày ấy đẹp như mơ của tác giả Anh Bằng), Dany Brillant luôn biểu diễn bài hát này trên sân khấu, đồng thời ghi âm nhiều phiên bản phối theo nhiều kiểu khác nhau như bolero, tango hay cha cha. Bản nhạc này cũng là một trong những giai điệu yêu thích nhất của anh, thường được hát trong gia đình : Muôn thưở một chuyện tình, tưởng chừng rất xa mình. Đâu ngờ lại giấu kín, chôn vùi tận đáy tim.
Nên suốt đời ta đi kiếm, nhưng ngay bên cạnh lại quên tìm.
Sau khi chinh phục hơn một triệu lượt khán giả tại Pháp, ''Emilia Pérez'' đã được Trung tâm Điện ảnh Quốc gia CNC chọn làm phim đại diện cho nước Pháp đi tranh giải Oscar 2025, trong hạng mục phim nước ngoài hay nhất. Đây là tác phẩm thứ 11 của Jacques Audiard, người từng đoạt giải Cành cọ vàng năm 2015 với phim ''Dheepan''. Lần này, đạo diễn Pháp trở lại với bộ phim ''Emilia Pérez'', kể lại giấc mơ đổi đời táo bạo của một kẻ từng có bàn tay nhuốm máu.
Bộ phim bắt đầu với vụ bắt cóc nữ luật sư Rita Moro (do Zoe Saldana thủ vai), ngay sau một phiên tòa. Kẻ ra lệnh bắt cóc cô không ai khác ngoài ông trùm băng đảng Manitas Del Monte (diễn viên Karla Sofía Gascón), người điều hành mạng lưới buôn ma túy tổng hợp lớn nhất Mexico. Tưởng chừng mình sẽ bị thủ tiêu, cô Rita rốt cuộc lại nhận được một đề nghị hết sức bất ngờ. Đó là cô giúp ông trùm mafia thực hiện giấc mơ chuyển đổi giới tính của mình, từ đàn ông thành một người đàn bà.
Trùm ma túy Mexico thừa hiểu rằng ông phải từ bỏ mọi thứ, kể cả vợ con, để làm lại từ đầu. Ông trả cho Rita thật nhiều tiền để lo mọi chuyện : đi tìm từ Thái Lan sang Israel một chuyên gia giải phẫu hàng đầu, lén đưa gia đình ra nước ngoài, chuyển khối tài sản kếch xù của gia đình vào ngân hàng Thụy Sĩ và tất nhiên là làm hộ chiếu mới một khi đã thay đổi danh tính. Như ông nói, đó là hy vọng duy nhất để cho ông trùm ma túy bắt đầu ''sống thật với chính mình''.
Để cho câu chuyện giống như thật, nữ luật sư Rita Moro tung ra nhiều tin giả về việc ông trùm ma túy bị các băng đảng mafia thù địch, gài bẫy rồi sát hại. Một khi báo chí cũng như truyền thông đại chúng đã chấp nhận sự kiện trùm băng đảng Manitas del Monte đã đột ngột qua đời, thì lúc ấy nhân vật này có thể bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới với tên gọi ''Emila Pérez''.
Bốn năm sau, Rita quay lại với công việc thường ngày của mình ở Luân Đôn. Trong một bữa ăn tối, cô tình cờ làm quen với một phụ nữ mà cô chưa hề biết mặt. Đến khi nắm tay nhau, Rita mới chợt hiểu ngay rằng người ngồi bên cạnh mình không ai khác ngoài ông trùm Manitas nay đã chuyển giới. Trong vai một nữ doanh nhân giàu có, Emilia Pérez yêu cầu Rita giúp mình một lần nữa, khi đưa hai đứa con từ Thụy Sĩ về sống với mình. Emilia tự xưng là chị họ của ông trùm Manitas.
Kể từ khi bắt đầu cuộc sống mới, Emilia Pérez dùng tiền (của việc buôn ma túy) để làm chuyện từ thiện. Cùng với Rita, Emilia lập tổ chức phi chính phủ giúp đỡ các gia đình từng là nạn nhân của các băng đảng mafia. Thế nhưng, điều đó dường như vẫn chưa đủ. Rốt cuộc, người muốn làm lại từ đầu, sống một cuộc đời khác, lại không đành từ bỏ mọi thứ. Nhưng cũng từ quyết định tìm lại hai đứa con mình, mà Emilia lại tạo ra nghịch cảnh, tự chuốc họa vào thân. Đơn giản bởi vì người vợ cũ của Manitas (do Selena Gomez thủ vai) nay lại có người yêu mới và chưa chắc gì đã chấp nhận tình huống ''lạ đời''. Cô bị vướng vào một mớ rắc rối mà bản thân cô không thể nào hiểu nổi.
Quay phim xuyên nhiều thể loại để nói về đề tài chuyển giới
Kịch bản phim ''Emilia Pérez'' khá phức tạp như tâm lý của những người chuyển giới. Trả lời phỏng vấn RFI Pháp ngữ, đạo diễn Jacques Audiard cho biết cảm hứng làm phim đã đến với ông một cách thật tình cờ ngẫu nhiên, ban đầu chỉ là một mẫu chuyện nhỏ ghi chép trong một quyển sách, sau đó lại được phóng tác thành một kịch bản phim trinh thám pha với một chút tâm lý xã hội, với nhiều tình tiết ly kỳ hấp dẫn :
« Ý tưởng viết câu chuyện này đến với tôi nhân đợt phong tỏa đầu tiên tại Pháp trong thời đang có dịch Covid, vào đầu năm 2020. Lúc đầu, tôi soạn cốt truyện dưới dạng một bản phác thảo của một tác phẩm opera. Tôi thực sự không nhớ rõ là từ lúc nào dự án này lại trở thành một kịch bản phim. Tôi nghĩ là người có thể trả lời tường tận hơn câu hỏi này là nhạc sĩ Clément Ducol. Chúng tôi đã nhiều lần trao đổi với nhau về đề tài này, và rốt cuộc dự án này trở thành một bộ phim mà trong đó, âm nhạc chiếm một phần quan trọng.
Mùa xuân năm ấy, tôi tình cờ đọc được một quyển tiểu thuyết của Boris Razon : tác phẩm ''Écoute'' (Nghe lén) do nhà xuất bản Stock phát hành năm 2018. Trong quyển sách này, có một chương ngắn kể lại câu chuyện của một trùm ma túy muốn chuyển đổi giới tính để trở thành một người đàn bà. Do cảm thấy thích thú với đề tài này, nên tôi lật ngay các trang sách để đọc tiếp. Nhưng rốt cuộc nhà văn Boris Razon chỉ nói thoáng qua, chứ không đi sâu vào chi tiết.
Lúc bấy giờ, tôi có cảm tưởng người ta giao cho tôi một chiếc chìa khóa xe hơi rồi bảo tôi muốn làm gì thì làm. Từ phần đầu câu chuyện này, tôi bắt đầu nghĩ ngợi, thử hình dung ra các phần tiếp theo. Số phận của trùm ma túy sẽ ra sao, một khi nhân vật này trở thành một ngưởi đàn bà. Liệu điều đó có ảnh hưởng như thế nào đến gia đình, có thay đổi được phần nào hay chăng thế giới xung quanh, nhất là khi nhân vật Emilia Pérez sống trong một môi trường bất ổn, một xã hội đầy bao lực. Có lẽ cũng vì thế mà tôi lồng câu chuyện vào bối cảnh của Mêhicô thời nay.
Điều quan trọng đầu tiên trong một dự án phim chính là kịch bản. Nếu không có một kịch bản hoàn chỉnh trong tay, thì dù có tài ba cách mấy, đạo diễn cũng khó mà thực hiện được một bộ phim hay. Trong trường hợp của một bộ phim ca nhạc như ''Emilia Perez'', còn có sự đóng góp hàng đầu của nhóm sáng tác. Theo lời ông Jacques Audiard, hai vợ chồng nhạc sĩ Camille (Dalmais) và Clément Ducol trở thành ''tác giả'' thứ ba trong nhóm thực hiện, vai trò của họ quan trọng không kém gì người viết kịch bản cũng như nhà đạo diễn :
« Dĩ nhiên là trong quá trình viết kịch bản cho bộ phim ca nhạc này, tôi cần có sự góp ý của các nhà soạn nhạc. Ca sĩ Camille luôn hỏi tôi về các phần đối đáp, những câu nói đầu tiên giữa các nhân vật, để rồi từ đó chọn chủ đề trọng tâm, phác họa bối cảnh. Điều khó nhất ở đây là làm sao chuyển từ câu thoại sang lời hát mà không bị khập khiễng, vô duyên.
Cái tài của các nhạc sĩ là tìm ra những đoạn phim thích hợp để cài đặt bài hát : nhân vật ở trong phim bắt đầu bằng lời thoại, rồi tiếp nối câu sau bằng lời hát, mà vẫn có được nét tự nhiên, trọng tâm không bị lệch, cốt truyện vẫn giữ nguyên. Càng khó hơn nữa là cả hai nhạc sĩ Camille và Clément Ducol là nghệ sĩ Pháp nhưng phải sáng tác các bài hát bằng tiếng Tây Ban Nha. Rốt cuộc thì đến khi hoàn thành bộ phim, ca sĩ Camille do không ngừng sáng tác, trao dồi ngoại ngữ, cho nên cô lại nói thạo tiếng Tây Ban Nha, không như tôi chỉ biết vài câu xã giao mà thôi ».
Gọi là phim ca nhạc, nhưng thật ra rất khó thể nào mà xác định tác phẩm mới của đạo diễn Jacques Audiard thuộc vào thể loại nào. Bộ phim ''Emilia Pérez'' dung hòa mạch tâm lý xã hội với phim hành động trinh thám, pha thêm nhiều tình tiết hấp dẫn ly kỳ như trong phim nhiều tập (telenovelas) của các kênh truyền hình châu Mỹ La Tinh. Về điểm này, đạo diễn Pháp Jacques Audiard cho biết vì sao :
Khi chọn làm phim về chủ đề chuyển đổi giới tính, tôi toi không biết dùng từ sao cho thật đúng, điều mà tôi quan tâm trước hết là làm cách nào để nói được cùng lúc nhiều khía cạnh của một vấn đề. Về mặt hình thức, tôi muốn phản ánh tính phức tạp của đề tài này qua một tác phẩm xuyên qua nhiều thể loại, nói cách khác không thuộc hẳn vào một thể loại nào cả. Đây là điều mà tôi cảm nhận được từ Mêhicô, một đất nước mà theo tôi có nền văn hóa baroque, phong phú nhờ dung hòa cùng lúc nhiều luồng ảnh hưởng khác nhau.
Chuyển đổi giới tính đối với tôi vẫn là một đề tài mới, tôi không nghĩ rằng mình có thể hiểu được toàn bộ vấn đề. Cũng may cho tôi là vai chính bộ phim được giao cho diễn viên Karla Sofía Gascón. Ngoài đời, anh từng là một nam diễn viên tài ba, thời còn trẻ đã lấy vợ và có con. Sau khi chuyển đổi giới tính thành đàn bà với tên gọi mới, cô Karla Sofía vẫn tiếp tục làm diễn viên. Có thể nói là quá trình trong đời tư của diễn viên thật Karla Sofía có nhiều nét gần giống với nhân vật hư cấu (Manitas) trên màn ảnh lớn. Và yếu tố này khá quan trọng giúp cho việc quay phim trở nên dễ dàng, phần chỉ đạo diễn xuất cũng tự nhiên hơn rất nhiều.
Nhìn chung, ''Emilia Pérez'' có nội dung khác hẳn với những tác phẩm mà đạo diễn Jacques Audiard đã từng làm trước đây. Về mặt hình thức, phim ca nhạc là phương thức hữu hiệu nhất để cho đạo diễn Pháp thay đổi hẳn ngôn ngữ hình ảnh và lối tiếp cận của mình, điểm cộng lớn nhất là các bào hát thực sự dẫn dắt câu chuyện, tạo ra những màn cảm động, nhất là trong đoạn điệu hát ru con, đứa bé nhìn cô (Emilia) mà cứ thấy giống như bố ruột (Manitas).
Tuy nhiên, phim vẫn có một vài điểm trừ : dung hòa quá nhiều thể loại đôi khi làm trật nhịp điệu, mạch phim cũng như chủ đề chuyển giới cần tính uyển chuyển, linh hoạt. Đặc biệt là trong đoạn cuối, phim tình cảm xã hội biến thành phim hành động rượt đuổi, chạm súng ''cao bồi''. Trong đoạn này, kịch bản thắt nút hơi nhiều, nhưng lại tháo nút hơi nhanh. Dù vậy, Emilia Pérez vẫn là một bộ phim đáng xem. Đó là câu chuyện của một kẻ đổi đời với giấc mơ chuộc lỗi. Nhưng phải chăng có những sai lầm không thể nào sửa đổi, nên ông trời buộc có ngày phải đền tội ngay cả đối với những người biết ăn năn, sám hối.
Trái ngược năm 2023, thị trường âm nhạc biểu diễn trở nên bão hòa và phân cực rõ nét trong năm 2024. Hãy cùng điểm lại các nguyên nhân phía sau bức tranh ảm đạm các tour lưu diễn năm 2024.
Bức tranh live concert tương phản rõ nétTheo thống kê của Live Nation, công ty sở hữu kênh bán vé điện tử Ticketmaster, năm 2023 ghi nhận kết quả kinh doanh xuất sắc : Hơn 145 triệu fan hâm mộ tham dự 50.000 sự kiện âm nhạc trực tiếp. Sang 2024, doanh thu Live Nation trong quý I/2024 đạt 3,8 tỷ đô la Mỹ, tăng 21% so với cùng kỳ năm ngoái và thu hút 23 triệu người hâm mộ. Tuy nhiên, không phải nghệ sỹ nào cũng thành công, có khá nhiều concert phải hủy bỏ. Thị trường biểu diễn âm nhạc đã phân hóa rõ nét năm 2024. Về mặt tích cực, Taylor Swift hay Beyonce vẫn là “cơn lốc xoáy” khổng lồ thu hút fan trên khắp toàn cầu tới concert. Ở góc độ đối lập, Jennifer Lopez và nhóm rock Black Keys trầy trật bán vé và phải hủy tour diễn phút chót.
Thực tế, đã xuất hiện sự lệch pha nổi tiếng trên nền tảng số và ca sỹ trình diễn thực thụ. Nói một cách khác, nghệ sỹ có một vài bản hit thành công trên nền tảng số như Spotify, YouTube không có nghĩa thu hút lượng khán giả đến sân vận động để xem trực tiếp. Thị hiếu khán giả sẵn sàng bỏ tiền xem concert cũng thay đổi. Trường hợp công chúa nhạc pop Taylor Swift thành công không chỉ nhờ cỗ máy sản xuất các bản hit. Ca sỹ sinh năm 1989 có thể lực sung mãn có thể hát, nhảy, trò chuyện xuyên suốt hai giờ liên tục. Kỹ năng trình diễn và giọng hát có độ bền màu mới thực sự là yếu tố chủ chốt thu hút lượng fan hùng hậu xem tour lưu diễn. Kinh doanh biểu diễn âm nhạc ngày càng rủi ro vì nghệ sỹ phải đặc cược vào yếu tố chủ quan và khách quan.
Giá vé concert đã quá cao ?Phần lớn khán giả đều cho rằng giá vé nghe concert đang ở mức quá cao khi cơn sốt giải trí hậu Covid bắt đầu hạ nhiệt. Theo thống kê của Pollstar, giá vé bình quân của 100 tour diễn quý I/2024 là 123 đô la Mỹ. Ngược lại, giá vé trung bình các tour diễn của siêu sao pop, hip hop gấp đôi con số đó, cụ thể Justin Timberlake bán với giá 216 đô la, Bad Bunny là 290 đô la.
Phần lớn khán giả phải móc hầu bao chi tiêu quá nhiều trong thời buổi lạm phát, nhất là phục vụ giải trí. Theo chia sẻ của David Norman 5-1, chuyên gia tổ chức tour cho các nghệ sỹ danh tiếng như Prince, Greenday, Alicia Keys, “nếu cả gia đình đi xem hòa nhạc, họ cần ở qua đêm, chi phí đi lại, tiền ăn uống. Lạm phát cao ở Mỹ khiến cho các gia đình thắt chặt chi tiêu hơn. Do đó, giá vé xem concert phải rất hợp lý thì người hâm mộ quyết định xuống tiền”.
Ở bình diện rộng hơn, quá nhiều nghệ sỹ công bố chương trình concert trong năm 2024 nên khán giả có vô vàn lựa chọn, trái ngược hẳn với năm 2023. Do vậy, khán giả không mặn mà với việc xem một nghệ sỹ ưa thích nhiều lần. Hơn thế, với ngân sách có hạn, khán giả sẽ chọn một, chứ không phải tất cả các concert để thưởng thức.
Chất lượng sản phẩmTrong số các nghệ sỹ hủy tour, Jennifer Lopez (JLo) sẽ khiến các nghệ sỹ phải suy nghĩ thận trọng trước khi lên kế hoạch. Tour lưu diễn của Jennifer nhằm quảng bá album mới This is me…now(Đây là tôi hiện tại) sau gần 10 năm vắng bóng tại phòng thu. Tuy nhiên, album này không mấy thành công về thương mại, chỉ đứng hạng 38 trên bảng xếp hạng Billboard 200. Đây có thể là nguyên nhân chính khiến doanh số bán vé concert thê thảm. Jennifer buộc phải hủy tour một số địa điểm trên toàn nước Mỹ.
Nữ ca sỹ vẫn quyết tâm vực dậy tour diễn bằng việc đổi tên thành This is me.. now Greatest hits. Nỗ lực níu kéo khán giả đến với concert gồm tuyển tập bài hát đa dạng hơn, gồm cả cũ và mới. Cuối tháng 5, kết quả thương mại không cải thiện khiến nữ ca sỹ Latinh quyết định hủy toàn bộ tour diễn với lý do cá nhân, dành thời gian cho gia đình sau tin đồn trục trặc chuyện tình cảm với chồng, tài tử Ben Affleck. Trường hợp JLo cho thấy khán giả khắt khe hơn với chất lượng sản phẩm, nhất là thị hiếu nghe nhìn, lượng fan liên tục thay đổi.
Yếu tố mới lạỞ góc độ đối lập, bà hoàng nhạc pop Madonna gặt hái thành công thương mại xuất sắc với tour lưu diễn Celebration mà không có sản phẩm thu âm mới. Thành công của Madonna dựa trên nhiều yếu tố. Thứ nhất, sự nghiệp Madonna trải dài hơn bốn thập niên với số lượng và chất lượng sản phẩm vượt trội. Khác với Jennifer Lopez, độ phủ âm nhạc của Madonna dày đặc nhờ tần suất ra album 2-3 năm/lần cùng nhiều ý tưởng táo bạo. Thứ hai, lịch diễn của Madonna được dịch chuyển từ tháng 6 tới cuối tháng 10 năm 2023 do biến cố sức khỏe nghiêm trọng. Do vậy, kết quả thương mại năm 2024 có thể coi là thừa hưởng của năm 2023 do nắm bắt kịp thời xu thế. Thứ ba, Madonna biết cách tạo yếu tố mới cho những sản phẩm tên tuổi bằng các khách mời danh tiếng như Kylie Minogue, Ricky Martin, Jean-Paul Gaultier, Donatella Versace, Stella McCartney. Đây là yếu tố gây bất ngờ cho khán giả tới xem concert tại mỗi địa điểm khác nhau.
Vị trí địa lý và mật độ của lượng người hâm mộJarred Arfa, chủ tịch âm nhạc toàn cầu của Independent Artist Group, chia sẻ “kinh doanh concert là nghề cá cược. Không phải lúc nào bạn là người thắng cuộc, bạn phải trở nên khiêm nhường hơn”. Arfa đã phục vụ khách hàng tiếng tăm như nhóm metal rock Metallica, 50 Cent hay Billy Joel. Thực tế, quyết định tổ chức tour lưu diễn là trò chơi “cá cược” dựa trên nhiều yếu tố như lịch sử bản vé, số lượt nghe trực tuyến, số lượng email trực tuyến, mức độ thu hút trên phương tiện digital. Sở hữu các bản hit trên Tiktok hay Spotify chưa chắc là họ sẽ bán được vé xem concert tại các sân vận động. Chính vì thế, các nghệ sỹ và quản lý quan tâm tới vị trí địa lý, mật độ của lượng fan trung thành.
Ví dụ Bad Bunny rất khó khăn bán vé concert giá cao tại bang Minneapolis nhưng lại tiêu thụ hết lượng vé đắt đỏ tại các bang khác. Thú vị hơn, các nhóm rock kết hợp cùng nhau để cộng dồn lượng fan phân bổ rải rác tới xem concert, tỏ ra khá thuận lợi. Nhóm rock lừng lẫy Def Leppard là trường hợp điển hình. Năm 2023, họ đi tour cùng nhóm hard rock Motley Crue, năm 2024 họ lại song hành cùng nhóm rock cựu trào Journey. Đây là chiến lược thông minh, vừa tạo yếu tố mới lạ, vừa khắc phục được sự phân mảnh của fan hâm mộ về địa lý.
Đối mặt với nhu cầu sụt giảm, Live Nation đã tung ra sản phẩm vé xem concert theo tuần, trị giá 25 đô la Mỹ. Nhờ sản phẩm mới này, công ty hy vọng sẽ kích thích số lượng khán giả xem biểu diễn tại những địa điểm thưa thớt hay doanh thu kém. Ngoài ra, Live Nation cũng bắt tay với các Tiktoker để khuếch trương và marketing cho các tour diễn.
Sự bão hòa của thị trường concert hậu Covid khiến các nghệ sỹ và quản lý phải đau đầu hơn. Để giành được lượng fan, nghệ sỹ phải thật xuất sắc. Để thành công thương mại, họ không thể bỏ qua mạng xã hội.
(Theo Live Nation, Business Insider, Variety, Billboard, Bloomberg Business)
''L'art Sucré'' hiểu theo nghĩa Nghệ thuật các món ngọt, là tựa đề một hồ sơ đặc biệt nói về các ngôi sao ẩm thực hàng đầu của Pháp, do tuần báo Le Point đăng vào cuối tháng 09/2024. Phía nam có anh Bastien Blanc-Tailleur, từng được trao tặng giải thưởng Nhà làm bánh ngọt số 1 của Pháp hồi mùa hè vừa qua. Về phía nữ, cô Nina Métayer thực hiện '''cú đúp'' ngoạn mục. Thật vậy trong hai năm liền : 2023 và 2024, cô đoạt danh hiệu Nhà làm bánh ngọt Pháp tài ba nhất thế giới.
Tuy chỉ vào nghề cách đây một thập niên, nhưng Nina Métayer đã tạo được nhiều tiếng vang trong vài năm liền. Cô trở thành phụ nữ đầu tiên được vinh danh hai lần với những giải thưởng quốc tế cao quý nhất. Vào mùa hè năm 2024, cô được trao tặng danh hiệu Nhà làm bánh giỏi nhất (Best Pastry Chef) tại thành phố Las Vegas, nhân lễ trao giải ''World's 50 Best Restaurant'' dành cho các quán ăn nổi tiếng hàng đầu thế giới.
Chưa đầy một năm trước, vào mùa thu năm 2023, Liên đoàn Quốc tế các nhà làm Bánh mì và Bánh ngọt (gọi tắt là UIBC) cũng từng trao tặng danh hiệu ''Nhà làm bánh giỏi nhất'' cho Nina Métayer. Được thành lập vào năm 1931, Liên đoàn này bao gồm gần 40 nghiệp đoàn quốc tế, một mạng lưới với hơn 300.000 công ty làm bánh và tuyển dụng hơn 4 triệu nhân viên trên toàn cầu. Giải thưởng của Liên đoàn UIBC thường được xem là một trong những giải có uy tín hàng đầu.
Năm nay 36 tuổi, Nina Métayer sinh trưởng tại thành phố La Rochelle, thuộc vùng Nouvelle-Aquitaine. Thời niên thiếu, Nina bắt đầu học nghề làm bánh mì trước khi chuyển qua nghề bánh ngọt. Khi vừa mới tốt nghiệp trường dạy nghề, Nina Métayer đã bắt đầu làm việc tại Paris dưới sự chỉ bảo của đầu bếp Yannick Alléno (hai sao Michelin) tại khách sạn Le Meurice. Vài năm sau, cô tiếp tục ''tầm sư học đạo'' với đầu bếp Jean-François Piège (cũng hai sao Michelin) tại nhà hàng Le Grand Restaurant.
Hiện nay, Nina Méteyer đang điều hành công ty ''Delicatisserie'' một cửa hàng chuyên bán bánh ngọt trực tuyến. Để thưởng thức các kiểu bánh của cô, khách hàng có thể tìm thấy ở hai điểm bán hàng tại Paris và vùng phụ cận. Địa điểm quen thuộc nhất vẫn là quán cà phê sân thượng có bán bánh ngọt, trên tầng cao nhất của cửa hàng lớn Printemps (du Goût) nằm trên đại lộ Haussmann. Điểm bán hàng thứ nhì nằm trong ngôi chợ Biltoki, Halles d’Issy.
Trả lời phỏng vấn RFI Pháp ngữ sau khi ra mắt quyển sách mang tựa đề ''La délicate pâtisserie'' (Bánh ngọt tinh tế) do nhà xuất bản La Martinière phát hành, Nina Métayer cho biết nghề làm bánh mì cũng như bánh ngọt đã đến với cô một cách thật tình cờ nhân dịp cô đi sang nước ngoài. Từ thời còn nhỏ, Nina rất thích ăn bánh nhưng lại chưa bao giờ nghĩ tới chuyện học nghề làm bánh :
‘‘Năm 16 tuổi, tôi đã có dịp đi Mêhicô và sống một thời gian ở nước này. Thời còn trẻ, niềm khao khát sống tự lập khiến cho tôi thích mạo hiểm, phiêu lưu, tự nghĩ rằng chuyện gì cũng có thể làm được, cho nên tôi đâm ra hơi liều lĩnh, không lường được hết sức mình. Ban đầu, tôi có ý định ở lại Mêhicô nhưng nếu muốn lập nghiệp thì trước hết phải học một nghề nào đó, rồi mới có thể đi làm kiếm tiền, có đủ thu nhập để ổn định cuộc sống. Lúc bấy giờ, nghề làm bánh mì đối với tôi có lẽ là chọn lựa đơn giản nhất. Tại Mêhicô, tôi có dịp gặp một cặp vợ chồng người Pháp mở tiệm bán bánh mì. Tuy họ không giàu, nhưng công việc vẫn đủ sống và quan trọng hơn nữa, họ cảm thấy hạnh phúc trong cuộc sống mà họ đã chọn lựa. Sau đó tôi trở về Pháp để học nghề làm bánh mì, cuộc sống đẩy đưa khiến tôi khởi nghiệp ở Paris, nhưng có thể nói, một cách tình cờ ngẫu nhiên, ý tưởng chọn nghề làm bánh đã nảy sinh tại Mêhicô ’’.
Từ nghề làm bánh mì chuyển sang làm bánh ngọt, chỉ có một bước. Và chỉ trong vòng chưa đầy một thập niên, Nina Métayer lại có thêm nhiều cơ hội phát huy tài năng, để rồi vươn lên đỉnh cao trở thành Nhà làm bánh ngọt giỏi nhất thế giới. Cô cho biết cảm tưởng của mình :
‘‘Khi đến Paris lập nghiệp, tôi quyết định học thêm cách làm bánh ngọt, để có thêm nhiều kỹ năng và tay nghề. Tôi theo học các khóa đào tạo tại trường dạy nghề nấu ăn Ferrandi. Sau khi tốt nghiệp, tôi đã có nhiều may mắn khi được tuyển vào các êkíp làm việc với các đầu bếp được Michelin vinh danh, như Camille Lesecq tại khách sạn Meurice hay Amandine Chaignot tại nhà hàng Raphaël. Thế nhưng, phần thưởng cao quý nhất đối với tôi vẫn là những lời chúc mừng, những tin nhắn đến từ những thiếu nữ, đôi khi còn rất nhỏ tuổi. Các em thường nói với tôi rằng : nhờ cô mà các em muốn học làm bánh, chọn nghề này để chia sẻ đam mê của mình, cho dù công việc làm bánh đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Đó là điều mà tôi cảm thấy tự hào nhất’’.
Trong làng ẩm thực, người Pháp thường so sánh chuyện làm bánh ngọt như một nghệ thuật, nhưng trong mắt cô Nina Métayer, nghề này lại giống với các bộ môn thể thao hơn, đòi hỏi nơi người tập luyện sức chịu đựng và một trình độ cao. Cô giải thích :
‘‘Trái với những gì mà nhiều người Pháp thường nghĩ, công việc làm bánh, theo tôi, gần giống với thể thao hơn là nghệ thuật. Dĩ nhiên là khi làm bánh, người thợ cần có tính sáng tạo và về điểm này, có thể dùng chữ ''nghệ thuật làm bánh''. Tuy nhiên, phần lớn thời gian của một thợ làm bánh vẫn là lặp đi lặp lại cùng một động tác, sao cho thật thuần thục, không cần đo mà vẫn chính xác. Cũng như trong lĩnh vực thể thao, nghề làm bánh đòi hỏi kỷ luật, nhịp độ tập luyện đều đặn thường xuyên, các đợt thi đấu quốc tế lại giống như các cuộc tranh tài Thế Vận Hội. Giống như một vận động viên tìm cách phá kỷ lục, nhà làm bánh cũng luôn muốn vượt qua những giới hạn của chính mình, suy nghĩ tìm tòi để tạo ra những công thức mới. Đó là phương châm làm việc của tôi và ở vai trò đội trưởng tôi luôn khuyến khích toàn bộ êkíp theo đuổi cùng một mục tiêu, luôn tôn trọng tinh thần đồng đội’’.
Theo tuần báo Le Point, anh Bastien Blanc-Tailleur nổi tiếng trong làng ẩm thực quốc tế nhờ nghệ thuật làm những chiếc bánh cưới khổng lồ, lộng lẫy chạm trổ như những tác phẩm điêu khắc, còn Nina Métayer nổi tiếng nhờ những kiểu bánh bûche thơm ngon và công phu. Mỗi người một nét, nhưng theo tuần báo Le Point, cả hai gương mặt này đều là biểu tượng hàng đầu của làng ẩm thực Pháp cao cấp.
Ngoài loại bánh khúc gỗ, Nina Métayer còn có sở trường làm ''galette des rois'' (bánh Ba Vua) một truyền thống lâu đời của Pháp. Bánh galette được chuẩn bị từ mùa Giáng Sinh cho đến đầu tháng Giêng, nhân dịp Lễ Hiển Linh, theo phong tục của các gia đình theo đạo Chúa. Nhờ được đào tạo bài bản qua trường lớp, Nina Métayer đã rèn luyện tay nghề để nâng công thức làm bánh Ba Vua ''galette des rois'' lên hàng nghệ thuật, vỏ bánh lúc nào cũng được chạm trổ khéo léo với nhiều họa tiết công phu.
The podcast currently has 242 episodes available.
37 Listeners
2 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners