Nói đến Marc Riboud – nhiếp ảnh gia người Pháp, qua đời năm 2016 – giới yêu thích nhiếp ảnh đều nhớ đến bức ảnh huyền thoại « Cô gái và cành hoa ». Bức ảnh chụp năm 1967 trở thành biểu tượng của phong trào phản chiến Mỹ, chống chiến tranh Việt Nam. Trong suốt 10 năm, 1966 – 1976, Marc Riboud cùng với chiếc máy ảnh Leica, rong ruổi từ Bắc vô Nam, ghi lại những « khoảnh khắc » của cuộc chiến tàn khốc.
Đó là những hình ảnh nam nữ công nhân làm việc trong nhà xưởng ở miền bắc, những nam – nữ quân dân du kích, những góa phụ khóc thương người thân bị mất hay những đứa trẻ trên đường đi học. Rồi từ những cuộc biểu tình chống chiến tranh tại Mỹ cho đến những vùng đất ở Bắc Việt Nam, đi qua những cảnh tan hoang ở Huế.
Những « khoảnh khắc » đôi khi dung dị, bình yên, nhưng cũng có lúc đau thương, kinh hoàng, đã được nhà nhiếp ảnh người Pháp ghi lại qua những tấm ảnh trắng đen, biến ông thành một nhân chứng độc đáo và khác thường cho một cuộc chiến khốc liệt bị toàn cầu hóa.
Những âm bản này được ông thực hiện trong vòng 10 năm, 1966 – 1976 sau hơn một chục chuyến đi đến Việt Nam. Đó cũng là thời điểm tại Pháp và nhiều nơi khác, đặc biệt là Mỹ, giới văn hóa, trí thức cũng như một số nghệ sĩ, nhiếp ảnh gia phản đối mạnh mẽ chiến tranh. Marc Riboud còn chịu ảnh hưởng từ người vợ đầu tiên là Barbara Chase, là một nghệ sĩ Mỹ, và do vậy ông đã có được một mối liên hệ với Mỹ, với chính sách của Mỹ.
Là một người rất ủng hộ độc lập, từng tham gia kháng chiến trong Đệ Nhị Thế Chiến, Marc Riboud có niềm tin sâu sắc là những dân tộc đấu tranh cho nền độc lập vào thời điểm đó sẽ giành được thắng lợi và do vậy, đối với cuộc chiến tranh tại Việt Nam, ông cảm thấy như « bị thôi thúc » phải làm chứng. Phản đối chiến tranh, nhưng ông cũng lên án cả chế độ chuyên chế độc tài thời kỳ hậu chiến.
2025 đánh dấu 50 năm chiến tranh Việt Nam kết thúc. Nhân dịp này, bảo tàng Nghệ thuật châu Á – Guimet tại Paris và hiệp hội Những người bạn của Marc Riboud có cuộc triển lãm « Marc Riboud – tập ảnh Việt Nam 1966 – 1976 » kéo dài đến ngày 12/05/2025.
Bà Lorène Durret, đồng phụ trách triển lãm Marc Riboud, đã dành cho RFI Tiếng Việt một cuộc phỏng vấn, hồi tưởng lại những suy nghĩ, tâm tư và cách thức làm việc của Marc Riboud, một trong những nhiếp ảnh gia bậc thầy trong thế kỷ XX.
RFI Tiếng Việt : Thân chào Lorène Durret. Trước hết, bà có thể cho biết vì sao Marc Riboud đã chọn đến Việt Nam giai đoạn 1966 – 1976 ?
Lorène Durret : Ông ấy biết rõ những gì đang xảy ra, đúng là trong suốt thời gian này ông ấy rất chú ý và quan tâm. Vì vậy, từ tiếng Anh chính xác hơn nhiều, người ta nói « concerned và concerned photographer ». Ông là một nhiếp ảnh gia quan tâm, có nghĩa là ông cảm thấy lo lắng về những gì đang xảy ra. Vì vậy, rõ ràng là ông đã có thông tin về Chiến tranh Việt Nam. Hơn nữa, Việt Nam cũng có mối quan hệ với Pháp trong suốt chiều dài lịch sử (…)
Marc Riboud luôn là một người cực kỳ độc lập. Khi còn trẻ, ông đã tham gia kháng chiến trong Thế chiến thứ hai tại Lyon từ năm 1942. Khi đó ông 19 tuổi, đang học trung học và cho đến năm 1944, ông đã tham gia chiến đấu với nhóm du kích quân Vercors. Vì vậy, ông tin chắc rằng những người dân đang đấu tranh giành độc lập vào thời điểm đó sẽ giành được độc lập (…)
Vào thời điểm đó, rõ ràng là họ không biết chuyện gì sẽ xảy ra, nhưng dù sao đi nữa, ông vẫn theo dõi tin tức và cảm thấy cần phải chia sẻ trải nghiệm của mình. Tất nhiên, vào thời điểm đó, vẫn còn rất ít nhà dân có vô tuyến truyền hình. Thông tin được đưa qua báo chí, tạp chí và nhiệm vụ của ông với tư cách là một nhiếp ảnh gia và phóng viên ảnh là đến đó để ghi lại những gì đang diễn ra và làm chứng.
Khi xem ảnh của Marc Riboud, người ta có cảm giác ông như người ngoài cuộc, lặng lẽ đứng nhìn, quan sát, và cũng không quan điểm chính trị ?
Lorène Durret : Đúng, chúng ta có thể cảm nhận được sự đồng cảm của ông, nhưng trước hết và quan trọng nhất là sự đồng cảm với những người ông chụp ảnh và những người trên đường phố : Đó là những thường dân, người dân, công dân. Ông là người rất khiêm tốn trong cách chụp ảnh mọi người và luôn giữ khoảng cách để có thể thể hiện và quan sát.
Và ông là người luôn tin tưởng vào những quan sát của mình do ông không bao giờ là một nhà đấu tranh không giống như những người khác xung quanh ông (…) Marc Riboud có một ý thức chính trị tốt, ông sáng suốt và không bị thu hút bởi nguy hiểm. Nhất là khi nhắc đến Việt Nam, hiển nhiên khi nghĩ đến những bức ảnh về Chiến tranh Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay đến những bức ảnh chiến đấu.
Chúng tôi có rất nhiều ảnh về quân đội Mỹ và quả thật đó không phải là những bức ảnh về cuộc sống thường ngày của người dân, không phải lúc nào cũng vậy. Tuy nhiên, trong những bức ảnh này, điều tôi thấy thú vị là chúng ta cảm nhận được độ dài của thời gian dài. Chúng ta cũng nhận thấy thời gian cuộc xung đột là rất dài.
Trong khi ở những tác phẩm khác có đôi chút khác biệt, chúng ta chỉ thấy cao trào và bạo lực nhưng ở một thời điểm chứ không phải trong khoảng thời gian dài như thế này. Và những gì tác phẩm của ông thể hiện và ở đó ông hơi lạc lõng, tôi nghĩ so với các nhiếp ảnh gia và nhà báo khác mà ông đã trao đổi ở nơi khác, thì đó là một thế giới thu nhỏ bị thay đổi từ những luồng thông tin hạn hẹp. Thế nên, công việc của ông thực sự là cuộc sống của người dân trong thời chiến.
Ông lên án chiến tranh nhưng không bao giờ phơi bày cảnh chết chóc cũng như các chiến tuyến ?
Lorene Durret : Như tôi có nói về quá khứ của ông như một kháng chiến quân vì ông gần kề với chiến tranh, nên ông hiểu chiến tranh. Ông mất bạn bè, nên ông biết chiến tranh là như thế nào trong một bối cảnh khác. Nhưng ông đã cận kề với bạo lực và ông không muốn trở thành nhiếp ảnh gia ghi lại cảnh đó. Một người cháu họ của Marc Riboud, nhà văn Camille de Toledo, đã nói về điều này và về việc, ông đã từng chứng kiến cái chết và do vậy ông hướng tới sự sống.
Và trong những bức ảnh của ông, chúng ta thấy được sự sống. Đó là điều ấn tượng nhất, và ngay cả trong những bức ảnh về đống đổ nát và hoang tàn, những bức ảnh về Huế trong đống đổ nát của ông cũng đặc biệt ấn tượng, nhưng những gì chúng ta thấy là sự sống đang trở lại và một nỗi đau nào đó nhưng cũng có một niềm hy vọng.
Ông thích gặp người dân, nhưng không chỉ ở một phía. Người xem có thể thấy cả cuộc sống thường nhật ở cả hai phía vĩ tuyến 17 cũng như là những hoạt động thường nhật của quân đội Mỹ ?
Lorene Durret : Vâng, bởi vì ông ấy thích đi và chứng kiến cả hai phía, và ông ấy nghĩ điều đó quan trọng, đó cũng là vị trí của ông với tư cách là một nhà báo. Chúng ta có thể nói là nhà báo vào thời điểm Chiến tranh Việt Nam vì ông cũng đã viết bài và chúng tôi trưng bày trong triển lãm hai bài báo mà ông viết cho tờ Le Monde, từng là tờ báo lớn nhất của Pháp, và vẫn chưa xuất bản ảnh vào thời điểm đó.
Tôi tin rằng ông ấy luôn phân biệt giữa những người ra quyết định, những người có quyền lực và những người dân thường, bất kể là ở miền nam, miền bắc hay và đó là những binh sĩ Mỹ trẻ tuổi mà ông lên án « sự nhồi sọ » trong bài báo, những người lính đã tin chắc vào những gì họ đang làm và những gì họ đang làm là cần thiết. Marc Riboud có một sự đồng cảm nào đó với những người ông chụp ảnh. Ông không coi tất cả mọi người là người ủng hộ hay là binh sĩ.
Nhắc đến Marc Riboud là phải nhắc đến bức ảnh « Cô gái và cành hoa ». Bức ảnh nổi tiếng phản chiến này đã cho phép ông có được tấm giấy thông hành để đến miền bắc, gặp và phỏng vấn ông Hồ Chí Minh, để rồi cho ra đời một bức ảnh khác không kém phần nổi tiếng, được đăng lại trên trang nhất nhiều tuần san quốc tế thời đó là Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng bên bàn trà. Dù vậy, điều thú vị là Marc Riboud, cũng không ngần ngại lên án chế độ chuyên chế độc tài với những bức ảnh về trại cải tạo năm 1976 ?
Lorene Durret : Đúng vậy, đây là những bức ảnh đã được báo chí công bố vào thời điểm đó và có tầm quan trọng ngày nay vì chúng là dấu vết của những gì đã tồn tại và trong mọi trường hợp, điều quan trọng đối với ông là phải có khoảng cách và sự quan sát này, một lần nữa, đó là vì ông không phải là một nhà hoạt động nên điều này cho phép ông quan sát với thái độ trung lập hơn.
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Lorène Durret, đồng phụ trách triển lãm ảnh « Marc Riboud, Việt Nam 1966-1976 », bảo tàng Guimet, Paris.