Sinh hoạt văn hóa, nghệ thuật, đặc biệt là tại Pháp và Việt Nam
... moreShare Tạp chí văn hóa
Share to email
Share to Facebook
Share to X
Le Bon Marché, Printemps, BHV, Lafayette, La Samaritaine là những địa điểm không thể không đến khi tới Paris. Dù không mua sắm, riêng kiến trúc và nội thất của những cửa hàng bách hóa này cũng đã là một tác phẩm nghệ thuật. Được hình thành từ cuối thế kỷ XIX, câu chuyện của những cửa hàng này (grand magasin) được kể lại trong triển lãm La naissance des Grands Magasins (Sự ra đời của các cửa hàng bách hóa) tại Bảo tàng Nghệ thuật trang trí từ ngày 10/04-13/10/2024.
Những “ngôi đền của hiện đại và xã hội tiêu dùng” - theo lời giới thiệu triển lãm - đã làm cuộc cách mạng triệt để trong rất nhiều lĩnh vực, từ nghiên cứu thói quen mua sắm, chăm sóc khách hàng, nghiên cứu thị trường, tiếp thị đến khích lệ nhân viên theo cách bán hàng hưởng thêm hoa hồng, điều kiện làm việc, mối quan hệ lao động. Rất nhiều phương pháp vẫn còn được áp dụng cho đến ngày nay, đặc biệt là phương châm “khách hàng là thượng đế”.
Kinh tế thịnh vượng thúc đẩy xã hội tiêu dùngDưới thời Đế Chế II (1852-1870), xã hội Pháp thịnh vượng nhờ chính sách của hoàng đế Napoléon III cổ vũ ngành công nghiệp, tự do hóa nền kinh tế. Tầng lớp tư sản không ngừng gia tăng. Họ là thương nhân, chủ doanh nghiệp, ngân hàng. Paris cũng chuyển mình theo quy hoạch đô thị của tỉnh trưởng Georges Haussmann. Diện tích thủ đô được tăng lên gấp đôi, 20.000 ngôi nhà bị phá và 43.000 tòa nhà được xây theo phong cách kiến trúc mang tên ông, rất đặc trưng Paris cho đến ngày nay.
Tầng lớp giàu có mới trở thành những khách hàng quan trọng với nhu cầu khắt khe hơn. Các cửa hàng nhỏ, chỉ chuyên một mặt hàng lúc bấy giờ không còn đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn, theo giải thích của Claire Doutriaux trong chương trình Karambolage của đài Arte năm 2020 : “Vào thời kỳ đó, các tiểu thương vẫn hoạt động theo mô hình truyền thống. Các cửa hàng chuyên về một mặt hàng hoặc bán rất ít mặt hàng. Người mua phải hỏi người bán, giá không được niêm yết mà phải hỏi người bán hàng, nên cứ phải mặc cả liên miên, cuối cùng thường thì giá sẽ được rao theo mặt khách. Các cửa hàng bán sản phẩm mới dần dần xuất hiện : tủ kính trưng bày hấp dẫn hơn, vào cửa tự do, niêm yết giá”.
Aristide Boucicaut, chàng thanh niên vùng Normandie đến Paris lập nghiệp năm 1829, lúc mới 19 tuổi, làm việc trong một cửa hàng như vậy tại phố Bac, tả ngạn sông Seine. Đến năm 1852, nhờ tiền tiết kiệm, ông hùn vốn hợp tác với Paul Videau, chủ cửa hàng Le Bon Marché ở góc phố Sèvres và phố Bac, để thực hiện hoài bão của mình. Doanh nhân trẻ đầy ý tưởng cho bán những sản phẩm ít lời để quay vòng kho. Doanh thu từ 450.000 franc tăng vọt lên thành 7 triệu franc vài năm sau, đến mức Paul Videau sợ và nhượng hết cổ phần cho cộng sự mà theo ông, có quá nhiều tham vọng.
Le Bon Marché : Thánh đường mua sắm đầu tiên ở ParisMột mình Boucicaut lèo lái và biến Le Bon Marché thành "thánh đường thương mại hiện đại” trong tòa nhà mới được khởi công xây dựng ngày 09/09/1869, thử nghiệm nhiều kỹ thuật bán hàng, vẫn có hiệu quả sau gần hai thế kỷ. Le Bon Marché “làm cuộc cách mạng bán lẻ và đưa bán lẻ vào kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt”, vẫn theo giải thích của Claire Doutriaux :
“Ông đã nghĩ ra khái niệm cửa hàng bách hóa, nơi có thể tìm thấy mọi thứ chứ không chỉ quần áo, vải vóc. Vì thế, cần phải có một công trình kiến trúc mang tính cách mạng. Đằng sau vẻ bề ngoài cổ điển, đằng sau những viên đá, là kết cấu thép cho phép dựng những cửa kính lớn và tạo những không gian rộng lớn, thông thoáng bên trong.
Thành công rực rỡ. Từ đồ lót đến đồ gỗ hay giấy, đồ chơi, bát đĩa… tất cả đều có thể tìm thấy ở Le Bon Marché. Boucicaut đổi mới mọi thứ : tạo các mùa thời trang, như “Tháng đồ trắng”, áp dụng các loại hình quảng cáo mới, bán hàng qua thư, giao hàng miễn phí đến tận nhà khách hàng và nhất là phương châm đến bây giờ vẫn nổi tiếng : “Hài lòng hoặc được hoàn tiền”.
Trong suốt quá trình phát triển của Le Bon Marché, còn phải kể đến công lao lớn của người vợ Marguerite Boucicaut. Từ cô gái tỉnh lẻ nghèo khó, làm trong tiệm giặt ở Paris, bà đã giúp chồng gây dựng lên “Đế chế” riêng, tác động để cải thiện điều kiện làm việc của nhân viên : giảm giờ làm (từ 16 xuống còn 12 tiếng/ngày), chế độ bảo hiểm, hưu trí… Khi bà qua đời và không có người thừa kế, bà để lại toàn bộ tài sản cho nhân viên, những người đã giúp vợ chồng bà gây dựng lên Le Bon Marché.
Mô hình kinh doanh của Le Bon Marché được sao chép, các cửa hàng bách hóa lớn lần lượt ra đời : Les Grands Magasins du Louvre (1855), le Bazar de l’Hôtel de Ville (BHV, 1856), Au Printemps (1865), La Samaritaine (1870)… tất cả đều được xây trên những trục đường rộng rãi trong quy hoạch của Haussmann, thuận tiện cho di chuyển. Những tòa nhà làm cửa hàng cũng là những kiệt tác kiến trúc hiện đại lúc bấy giờ, chủ yếu dùng thép vì đây là giai đoạn đỉnh cao của ngành này, rất sang trọng vì còn nhằm đề cao đẳng cấp của khách hàng. Mặt tiền của tòa nhà lịch sử Printemps là một ví dụ độc đáo, theo giải thích của Xavier Gaudemet, người quản lý dự án tiếp thị của Printemps Haussmann, trong chương trình Visites privées của đài truyền hình France 2 :
“Mặt tiền của tòa nhà có rất nhiều chuyện để kể. Trước tiên đó là sự tiến bộ về kỹ thuật. Lần đầu tiên có một mặt tiền phủ được cấu trúc thép đằng sau. Thứ hai, đó chính là bí mật về tên Au Printemps được khắc ở mặt tiền, lần đầu tiên được làm theo đúng kiểu quảng cáo, óng ánh dưới ánh mắt trời và thu hút mọi ánh mắt nhờ được mạ vàng...
Tên gọi Au Printemps được đặt nhằm mục đích tiếp thị. Các cửa hàng lớn thường lấy tên theo địa chỉ như Bazar de l’Hôtel de Ville đối diện tòa thị chính Paris (BHV ngày nay) hoặc theo giá cả như Au Bon Marché hay theo tên của nhà sáng lập như Harrods ở Luân Đôn. Ý tưởng Au Printemps mang đúng ý nghĩa thương hiệu, mùa xuân là mùa mang lại điều mới, tươi tắn và xinh đẹp”.
“Khách hàng là thượng đế”Công thức thành công của các cửa hàng bách hóa dựa vào hai nguyên tắc : bán hàng loạt và đẩy nhanh các mặt hàng. Lợi nhuận dựa vào khối lượng bán sản phẩm hàng loạt cho nên luôn có các đợt giảm giá để nhanh quay vòng kho và đa dạng hóa mặt hàng. Lịch các mùa giảm giá được tính toán vào các mùa thấp điểm hoặc tháng vắng khách, như bán phụ kiện mùa hè vào tháng 5 hoặc đồ chơi và lì xì vào tháng 12. Trước những đợt hạ giá này là cả chiến dịch quảng cáo bên ngoài cửa hàng, trên báo chí và áp phích, gửi catalogue, phát tờ rơi ghi ngày hạ giá.
Khách hàng ở xa có thể đặt mua qua thư. Các cuốn catalogue theo mùa hoặc sản phẩm mới được gửi miễn phí để họ lựa chọn. Cách bán này vẫn rất phổ biến hiện nay. Hình thức đặt hàng qua thư nở rộ và giao hàng miễn phí còn nhờ vào sự phát triển mạng lưới đường sắt, đường thủy rất thuận lợi cho vận chuyển hàng hóa. Mạng lưới đường sắt từ 3.558 km tăng lên thành 16.994 km vào năm 1869, vận chuyển 113 triệu hành khách và 44 triệu tấn hàng hóa.
Trong chương trình Visites privées, ông Pierre Pelarrey, tổng giám đốc Printemps Haussmann, nhấn mạnh ngoài “kiến trúc có một không hai”, danh tiếng của các cửa hàng bách hóa còn là “câu chuyện về dịch vụ, tập trung vào cá nhân khách hàng”. “Khách hàng là thượng đế” cũng chính là tôn chỉ được nhà Boucicaut áp dụng ngay những ngày đầu hoạt động của Le Bon Marché, theo giải thích trong chương trình Karambolage của đài Arte :
“Đối với những khách hàng từ xa đến, họ chỉ cần băng qua Vườn hoa Boucicaut để đến khách sạn nổi tiếng Palace Le Lutécia được xây kiến trúc Art Deco mà bà Boucicaut đã xây riêng cho họ. Để cửa hàng khổng lồ này hoạt động được, cần rất nhiều nhân viên, trưởng bộ phận, trợ lý, và rất nhiều nhân viên bán hàng, thường là những cô gái trẻ từ tỉnh lẻ đến và sống trong những căn phòng nhỏ ngay ở tầng trên cùng của Le Bon Marché”.
Tuyển phụ nữ bán hàng cũng là bước đột phá được chính bà Marguerite Boucicaut khởi xướng để thu hút khách hàng nữ, thường ở nhà nội trợ, chăm con và có nhiều thời gian. Vào cuối thế kỷ XIX, vai trò của trẻ em đã được thay đổi đáng kể trong xã hội nhờ chính sách khuyến khích tăng dân số, đầu tư vào giáo dục và thành công của mô hình gia đình quý tộc. Trẻ em trở thành mục tiêu của các cửa hàng để các gia đình nán lại lâu hơn. Họ liên tục tặng đồ chơi cho trẻ em hoặc tặng kèm với quảng cáo. Các gian đồ chơi dần được hình thành trong thập niên 1870, ban đầu theo thời vụ, sau đó được cố định quanh năm. Ngành công nghiệp đồ chơi phát triển, sản xuất đại trà bằng những vật liệu ít tốn kém hơn.
Ngày nay, các cửa hàng bách hóa nổi tiếng đó vẫn tiếp tục tìm những cách thức mới để thu hút du khách từ khắp thế giới. Vào dịp Giáng Sinh, tủ kính của các cửa hàng được trang hoàng lộng lẫy, như bước ra từ thế giới cổ tích. Cửa hàng BHV tổ chức các triển lãm giới thiệu một nghệ sĩ, một nhà thiết kế ; sân thượng của Printemps, Lafayette trở thành nơi check-in ngắm toàn cảnh Paris. Không chỉ thuần túy là nơi bán hàng, tại đây còn có những quán cà phê, nhà hàng với không gian đẹp, tầm nhìn thoáng. Dù vẫn tuân theo nguyên tắc bán đủ mọi mặt hàng nhưng những cửa hàng bách hóa này hiện giờ tập trung vào các mặt hàng cao cấp và vào một bộ phận nhỏ khách hàng khá giả.
Tháng 7 hàng năm, với Quốc Khánh Pháp và Hoa Kỳ là dịp nhắc lại lịch sử mối quan hệ dài lâu của hai nước. Dù với con đường tìm đến Tự do khác nhau, đôi khi rất khác biệt, hai nước luôn chia sẻ những giá trị chung. Một biểu tượng còn mãi minh chứng cho điều này, chính là bức tượng Nữ Thần Tự Do - món quà mà những người Pháp gửi tặng nước Mỹ nhân dịp quốc khánh.
Món quà độc nhất vô nhị đã trở thành biểu tượng của nước Mỹ tự do cho đến ngày nay, nhưng lịch sử hình thành đầy thăng trầm của nó thì có lẽ ít được biết đến hơn.
Ý tưởng từ sự chia sẻ giá trị tự doÝ tưởng thiết kế bức tượng này của nhà điêu khắc Fédéric Auguste Bartholdi mang ý nghĩa sâu sắc về sự chia sẻ giá trị tự do của hai nước Pháp - Hoa Kỳ. Theo thuyết minh của tác giả, ý tưởng được bắt nguồn từ câu nói của chính trị gia và luật sư Edouard René de Laboulaye năm 1865, trong buổi tối ăn với bạn hữu. Họ là những chính trị gia phái Tự do, ủng hộ phe Liên Bang Mỹ. Laboulaye là một chuyên gia về chính trị Mỹ, ông cũng là thành viên Hiệp hội bãi bỏ chế độ nô lệ trên toàn thế giới : "Nếu một tượng đài cần được dựng lên tại Hoa Kỳ để làm đài kỷ niệm đánh dấu nền độc lập của họ, tôi thiết nghĩ lẽ tự nhiên duy nhất là nếu nó được xây dựng bằng sự hợp lực - một việc làm chung của cả hai quốc gia chúng ta".
Ban đầu, bức tượng được dự kiến hoàn thành và gửi tặng nước Mỹ vào năm 1876. Tại thời điểm đó, bối cảnh chính trị Pháp lại không tạo điều kiện để biến ý tưởng đó thành hiện thực, khi chính quyền Đế chế thứ 2 của Napoleon III độc tài chuyên chế ủng hộ phe Miền Nam trong nội chiến Mỹ. Sau đó, những thăng trầm của quan hệ ngoại giao Pháp - Mỹ cũng cản trở cho việc hiện thực hóa món quà này.
Vì vậy, nhà điêu khắc Bartholdi đưa ý tưởng Nữ thần tự do vào một dự án dựng một bức tượng khổng lồ tại lối vào kênh đào Suez tại Ai Cập thời gian nó được xây dựng. Hình dáng và tư thế của bản vẽ này khá tương đồng với bức tượng hiện nay tại Mỹ, nhưng với khuân mặt của một phụ nữ Ai Cập. Tuy nhiên, dự án này đã không được thành hiện thực.
« Món quà » thành quả của 20 năm miệt mài theo đuổi của hai « cha đẻ » tâm huyếtNếu tên tuổi của bức tượng đã quá nổi tiếng, thì tiểu sử của hai « cha đẻ » của bức tượng lại ít được biết đến hơn. Laboulaye là giáo sư trường Collège de France danh tiếng - ngôi trường từ lúc ra đời đến nay mang sứ mạng giảng dạy miễn phí những kiến thúc bậc cao trên nhiều lĩnh vực và mở cửa tự do cho mọi đối tượng. Ông là giáo sư luật đầu tiên đưa nghiên cứu lịch sử hiến pháp Hoa Kỳ vào giảng dạy tại Pháp.
Bằng bài giảng và những sách xuất bản sau đó, ông ghi dấu như một nhà Hoa Kỳ học chuyên sâu của thế kỷ 19, là cầu nối quan trọng đưa lịch sử Hoa Kỳ, đặc biệt là lịch sử hiến pháp Hoa Kỳ đến với người Pháp. Ông đóng góp tích cực vào phe ủng hộ dân chủ đang lớn mạnh, với mong muốn sẽ xây dựng nền dân chủ Pháp sau này theo hình mẫu dân chủ Hoa Kỳ.
Thống nhất với tư tưởng này, Laboulaye kiên trì nhiều năm vận động không ngừng nghỉ trên khắp các diễn đàn chính giới Pháp hay vận động các nhà đầu tư, tầng lớp trí thức, để kêu gọi sự ủng hộ và tài trợ cho dự án dựng tượng đài tặng nước Mỹ này.
Người thứ hai đóng góp cho việc tượng Nữ Thần Tự Do sừng sững dựng lên trên cửa ngõ vào New York không ai khác chính là nhà điêu khắc Bartholdi. Là một điêu khắc gia tài năng sớm nổi tiếng và nhận được đơn đặt hàng dựng tượng khắp nơi tại Pháp, ông nuôi hoài bão dựng những bức tượng lớn hơn, có tầm ảnh hưởng cao tầm quốc tế. Tâm đắc với những tư tưởng của Laboulaye, ông nung nấu dựng bức tượng giàu ý nghĩa về ngọn đuốc sáng của tự do soi đường nhân loại.
Sau khi ý tưởng ban đầu không thể thực hiện, rồi dự án tại kênh đào Suez cũng bất thành, Bartholdi nhập ngũ nhiều năm, nhưng vẫn không nguôi thiết tha với dự án lớn này. Giải ngũ, nhờ sự giới thiệu của Laboulaye, ông thực hiện một chuyến vượt Đại Tây Dương để quảng bá cho dự án của mình. Ông những mong lôi kéo được thêm những nhà tài trợ từ phía Mỹ, đồng thời tìm kiếm một khu đất phù hợp để dựng bức tượng. Tuy vậy, suốt 5 tháng trời đi khắp các bang của Hoa Kỳ để vận động, ông thất bại trở về Pháp mà không thu lượm được sự ủng hộ tài chính nào đáng kể.
Thất bại đó không khiến hai người chùn bước, thay vì có thể thực hiện nhanh chóng, bức tượng dần thành hình từng phần nhỏ. Phải đợi 20 năm sau, với sự cố gắng không ngơi nghỉ của hai « cha đẻ » của bức tượng - nhà điêu khắc và luật gia - từ bản vẽ, bức tượng mới được dựng lên trên đảo Bedloe, sau đổi tên thành đảo Tự Do.
Những tên tuổi lớn tham gia thiết kế tượng - từ Violet Le Duc đến Gustave EiffelBức tượng có tầm vóc lớn như một tòa nhà 15 tầng (46m). Ý tưởng điêu khắc của Barhtholdi cần phải có sự đóng góp thiết kế kỹ thuật của những chuyên gia hàng đầu Pháp thời bấy giờ. Ban đầu, phần cấu trúc tượng được thiết kế với lõi cấu trúc xây gạch thành những khoang chứa đầy cát lớn để tạo ổn định cho tượng.
Ý tưởng này do kiến trúc sư danh tiếng Violet Le Duc đề xuất. Ông được biết đến với việc cải tạo lại Nhà thờ Đức Bà Paris và tham gia xây dựng nhiều cung điện, công trình kiến trúc lớn thế kỷ 18-19. Tuy vậy, do công trình phải đợi hàng chục năm để thực hiện, Violet le Duc ốm nặng và qua đời.
Một kỹ sư khác được mời thay thế, không ai khác chính là Gustave Eiffel, đã rất thành công với nhiều công trình cầu đường bằng kết cấu kim loại, và sau này là tòa tháp mang tên ông - biểu tượng của nước Pháp. Eiffel đã thuyết phục Bartholdi thay đổi hoàn toàn kết cấu chịu lực của tượng bằng khung thép vững chắc như một mố cầu. Một lớp khung kim loại thứ hai tạo một lớp vỏ 3 chiều theo dáng khung tượng để cố định các tấm đồng, lớp vỏ này cũng đủ kiên cố để tự chịu lực chống rung với biên độ 8cm trước tốc độ gió 80 km/h.
Nhờ thiết kế với kỹ thuật mới này, kỹ sư kết cấu Gustave Eiffel đã đóng góp quan trọng dựng nên hai công trình biểu tượng của hai cường quốc Hoa Kỳ - Pháp, vẫn vươn cao vững chãi với thời gian hơn một thế kỷ sau.
Phần vỏ bọc của tượng được xưởng đúc Gaget-Gauthier et Cie làm từ 300 tấm đồng kích cỡ 3m², dày 2.5mm. 64 tấn đồng do nhà công nghiệp Pierre-Eugène Secrétan tài trợ. Công xưởng dựng tượng được thuê tại quận 17 Paris, phố Chazelles.
Có một giai thoại liên quan đến cái tên xưởng đúc Gaget này. Trong quá trình xây dựng tượng, để tiếp tục quyên góp và thu thập kinh phí xây tượng, vào năm 1876-100 năm, dịp Quốc Khánh Hoa kỳ, những hình đồ lưu niệm bức tượng tỉ lệ nhỏ được bán để gây quỹ. Trên đế tượng khắc tên xưởng đúc đồng « Gaget ». Người Mỹ đã gọi tên những món đồ chơi nhỏ này phát âm chệch đi thành « gadget » - và từ đó trở thành từ tiếng Anh gọi tên những món đồ chơi nhỏ.
Quyên góp kinh phí : sức mạnh ủng hô từ tầng lớp bình dânRiêng việc tìm kiếm kinh phí dựng bức tượng này có thể viết thành một câu chuyện dài kỳ trải suốt 2 thập kỷ được khởi xướng từ những cá nhân và hiệp hội hữu ái Pháp-Mỹ (Comité de l’Union Franco-Americaine). Nhiều giai đoạn không được chính quyền cả hai nước hậu thuẫn, nên việc kêu gọi kinh phí cũng rất chật vật.
Không vì thế mà nhà điêu khắc và sử gia mất hi vọng. Vượt qua nhiều gián đoạn, chậm trễ, họ vẫn kiên trì tranh thủ từng cơ hội quyên góp từ vô vàn hình thức khác nhau, qua những buổi tổ chức sự kiện, hòa nhạc, nhuận bút các bài viết, xổ số, triển lãm quốc tế, đến bán đồ lưu niệm, xin tài trợ của các cá nhân và chính quyền địa phương, suốt 5 năm trời. Bên kia bờ Đại Tây Dương, phần xây đế tượng cũng phải tìm kiếm kinh phí bằng những buổi nhạc kịch, thi đấu đấm box, bán đấu giá, trích thuế địa phương.
Bị giới thượng lưu tinh hoa và chính trị gia thời bấy giờ thờ ơ, không mấy mặn mà, việc quyên góp tại Mỹ đã diễn ra chậm chạp, bức tượng có nguy cơ không thể hoàn thành. Nhiều lý do được đưa ra giải thích : suy nghĩ nghi ngờ mục đích đằng sau của món quà, nỗi e dè biểu tượng « tự do » theo kiểu « Cách Mạng Pháp », sự mơ hồ không đoán được hiệu ứng mang lại từ một bức tượng khổng lồ sẽ ra sao …
Phải nhờ đến chiến dịch kêu gọi quyên góp từ độc giả bình dân, trên tạp chí New York World, của ông chủ tòa soạn danh tiếng Joseph Pulitzer (tên của giải thưởng báo chí nổi tiếng ngày nay) thì phần kinh phí cuối cùng mới được hoàn tất. Pulitzer cho đăng hàng loạt bài báo giải thích ý nghĩa, giá trị tự do của bức tượng, nhiều nhà báo khác viết bài chỉ trích, mai mỉa giới thượng lưu đã quay lưng không ủng hộ … Dần dần, bức tượng ngày càng được yêu thích trong tầng lớp bình dân. Đặc biệt, đi kèm với chiến dịch truyền thông bài bản, Pulitzer giữ lời hứa đăng trên mặt báo tên của tất cả cá nhân quyên góp, bất kể khoản tiền chỉ vài xu.
Nhờ vào 100.000 đô la quyên góp của 121.000 bạn đọc báo New York World trong vài tháng đó, mà nước Mỹ cuối cùng cũng có được biểu tượng cho giá trị Tự do soi đường của mình, vẫn sừng sững hơn 1 thế kỷ sau.
Qua nhiều mốc Quốc Khánh Mỹ 04/07 bị lỡ hẹn, bức tượng được dựng trọn vẹn tại Pháp đón khách thăm quan vào ngày 04/07/1884, rồi lại gỡ ra đóng trong hơn 200 kiện, trải qua hành trình dài cập bến Hoa Kỳ vào cuối tháng 06/1885 rồi được dựng lên trên đảo Bedloe, sau được đổi tên thành Liberty, và được khánh thành vào cuối năm 1986. Cuối cùng, món quà vĩ đại đến từ nước Pháp chào mừng Quốc Khánh thứ 100 của Hoa Kỳ đã được thành hiện thực, dù muộn tròn 1 thập kỷ.
Nhìn lại, chính việc biểu tượng Tự Do của xứ Cờ Hoa được xây dựng bởi ý tưởng của những cá nhân yêu chuộng tự do và dân chủ, sau bao chông gai thử thách, nhờ vào những đồng quyên góp nhỏ bé của những dân thường, đã làm cho nó mang đậm ý nghĩa của một Tự Do đích thực. Tự do và nền tảng dân chủ, được đắp xây bởi từng cá nhân yêu chuộng và góp sức, chứ không phải một tặng vật được ban phát thụ hưởng dễ dàng. Bức tượng trở thành biểu trưng của Tự do - giá trị cốt lõi mà các nền dân chủ gìn giữ, như ngọn đuốc thắp sáng mãi vươn cao soi đường qua mọi bước thăng trầm của lịch sử.
Vichy - được xếp hạng Di sản UNESCO - nổi tiếng với những nguồn nước khoáng, những sản phẩm mang thương hiệu “Vichy”, và được mệnh danh là “Nữ hoàng của những thành phố spa” (Reine des villes d’eaux). Thế nhưng, đó cũng là một thành phố quốc tế được vinh danh năm 2024 trong triển lãm cùng tên (từ 04/05-11/11). Và trong hai thế kỷ hướng ra nước ngoài đó, có dấu ấn của Việt Nam, của những người Việt đến sống trong khu vực.
Sáng 04/05/2024, Vichy nhộn nhịp với bốn triển lãm lần lượt được khai mạc. Bốn triển lãm, với những chủ đề khác nhau, trong đó có L’Art en exil. Hàm Nghi, Prince d’Annam (tạm dịch : Nghệ thuật lưu đày. Hàm Nghi, Vương tử An Nam), nhưng đều chung sợi dây liên kết về một Vichy, l’Internationale (Vichy, Thành phố quốc tế) hấp dẫn về thương mại, cởi mở và hiếu khách.
Những mạch nước kết nối Vichy với thế giớiÔng Jacques Alder, chủ tịch hiệp hội Nhà truyền giáo (Maison du Missionnaire), nơi vẫn tiếp đón chủng sinh từ nhiều nước trên thế giới, trong đó có một người Việt Nam, đến học tiếng Pháp và là chủ quản của Bảo tàng Nghệ thuật châu Phi và châu Á (Musée des Arts d’Afrique et d’Asie, AAA), nơi tổ chức triển lãm về vua Hàm Nghi, giải thích với RFI Tiếng Việt :
“Chúng tôi phối hợp với thị chính và tham gia triển lãm Vichy l’Internationale, hai thế kỷ lịch sử quốc tế, bởi vì Vichy là một thành phố lớn dưới thời Napoléon III, đó là “Nữ hoàng của các thành phố spa”. Nhiều đời vua và hoàng hậu vẫn đến Vichy để điều trị nước khoáng. Vì thế, thành phố muốn tổ chức một sự kiện lớn nhân dịp 200 năm tại bốn bảo tàng. Chỉ trong sáng thứ Bẩy 04/05, cả bốn triển lãm được khai trương và triển lãm lớn nhất - Vichy, l’Internationale - được tổ chức ở tòa nhà, nơi mà trước đây là Khách sạn International nổi tiếng, hiện giờ được chuyển thành căn hộ”.
Bảo tàng Nghệ thuật châu Phi và châu Á là nơi tổ chức triển lãm về vua Hàm Nghi, dựa trên công trình nghiên cứu của Amandine Dabat, hậu duệ của vua Hàm Nghi, và cũng là người giám sát. Mối nhân duyên giữa vua Hàm Nghi và thành phố Vichy kéo dài hơn bốn thập niên, theo giải thích của Amandine Dabat :
“Ở Vichy, vua Hàm Nghi rất nổi tiếng. Ông đến đó thường xuyên, tận 25 lần từ 1893 đến 1938. Cho nên ông kết bạn với rất nhiều nhân vật nổi tiếng của thành phố Vichy. Có thể thấy điểm này trong Triển lãm Vichy - thành phố Quốc tế, triển lãm cũng nhắc đến Hàm Nghi ở Vichy. Có rất nhiều thư từ trao đổi, những bộ phim ngắn và hình ảnh về Hàm Nghi với nhiều nhân vật nổi tiếng ở Vichy được trưng bày trong triển làm Hàm Nghi - Vương tử An Nam ở bảo tàng Nghệ Thuật châu Phi và châu Á này”.
Bản thân tòa nhà cũng là một công trình cổ trăm năm, chứa đầy lịch sử. Năm 1922, Henri Watthé, một nhà truyền giáo dòng Thánh Lazarus, đến Vichy điều trị nước khoáng. Một năm sau, ông lập hội Maison du Missionnaire (Nhà truyền giáo) để tiếp đón các tu sĩ đến điều trị. Họ đến từ những vùng thuộc địa thời kỳ đó, hoặc có liên hệ với Pháp. Họ mang tặng những đồ vật đặc trưng của quê hương và làm nên bộ sưu tập của Nhà truyền giáo. Đến năm 1935, hiệp hội Nhà truyền giáo tặng bộ sưu tập châu Á cho bảo tàng. Giám đốc bảo tàng Marie-Line Therre cho biết :
“Điều thú vị ở đây, đó là lịch sử của bảo tàng được gắn với lịch sử của thành phố, lịch sử của nước Pháp bởi vì đây là một bảo tàng nghệ thuật, ví dụ với triển lãm Hàm Nghi - Vương tử An Nam rất thú vị này. Nhưng đó cũng là một bảo tàng xã hội, có nghĩa là giải thích về nhân loại và lịch sử loài người. Điều quan trọng đối với chúng tôi và với những thế hệ mới là giải thích được thời kỳ thuộc địa là gì, tại sao những đồ vật đó lại nằm ở đây, tại sao lại có những làn sóng di cư đến Pháp, tất cả những chủ đề đó đều liên quan đến lịch sử của bảo tàng.
Một điều quan trọng khác là phải giải thích một cách mô phạm chuyện đã xảy ra như thế nào. Chính vì thế mà có một phòng giải thích lịch sử đó, tiếp theo là những gian khác dành để triển lãm, ví dụ như triển lãm về vua Hàm Nghi hoặc ở tầng trên dành nói về Mission protection (tạm dịch : Sứ mệnh che chở) trưng bày những dụng cụ, đồ vật liên quan đến việc che chở trên khắp thế giới vì trên trái đất, tất cả mọi người đều có cùng câu hỏi : Bảo vệ mình như thế nào ? Yêu thương người khác như thế nào ?... Tùy theo nền văn hóa mà có những cách nhìn thế giới khác nhau hoặc cách trả lời những câu hỏi phổ quát đó. Đó chính là điều mà chúng tôi muốn truyền tải tới công chúng”.
Hàm Nghi : “Người nhập cư” nổi tiếng ở VichyVua Hàm Nghi có lẽ là một trong những người nhập cư nổi tiếng nhất ở Vichy. Đằng sau tên của ông là những tưởng tượng về phiêu du, kì bí phương Đông đối với nhiều người dân Vichy lúc bấy giờ. Họ bị câu chuyện của nhà vua mê hoặc, trong đó có một “đại gia” công nghiệp vùng Verdun. Villa Prince d’Annam, hoàn thiện năm 1904, do kiến trúc sư Adrien Dacq thiết kế theo phong cách Tân nghệ thuật, được trang trí nhiều họa tiết tinh xảo, mái đua, lan can, tay vịn bằng sắt uốn. Năm 2017, Sylviane và Bruno trở thành chủ sở hữu ngôi biệt thự vì như bị “hớp hồn” ngay khi bước vào.
“Đó là một đại gia công nghiệp ở Verdun, Bruno giải thích. Ông ấy cho xây bốn biệt thự sát nhau. Ông ấy không sống ở đó mà cho thuê. Đại gia này có hai cô con gái, ông xây những ngôi nhà đó cho họ nhưng họ cũng không sống ở biệt thự. Họ giao cho văn phòng môi giới quản lý và cho thuê thời vụ”.
Sylviane nhớ lại : “Lúc mua ngôi nhà này, chúng tôi không để ý phía trước ghi là Villa Prince d’Annam. Sau đó, chúng tôi cứ thắc mắc về tên của ngôi nhà và bắt đầu quan tâm người đó là ai và tìm hiểu lai lịch”. “Chúng tôi tìm trên internet, Bruno tiếp lời. Những tài liệu duy nhất mà chúng tôi tìm thấy được về vương tử An Nam là luận văn tiến sĩ của Amandine Dabat, một trong những hậu duệ của ông, đến lúc đó chúng tôi mới biết đó là vua Hàm Nghi. Đúng là chúng tôi khá là ngạc nhiên về phát hiện này”.
Có thể thấy vương tử An Nam có tiếng như thế nào ở Vichy, dù ông cố kín tiếng nhất. Và căn biệt thự đó, vua Hàm Nghi chưa bao giờ lưu lại, theo khẳng định của Amandine Dabat :
“Vichy thực sự là một thành phố quốc tế, rất cởi mở cho nên, vì là vương tử An Nam nên ông rất nổi tiếng khi đến Vichy. Vì thế tôi nghĩ rằng có thể vì tên của ông đẹp, nghe rất lãng mạn nên người cho xây Villa Prince d’Annam (Biệt thự Vương tử An Nam), đã chọn tên vương tử An Nam để đặt cho biệt thự đó. Nhưng thông qua các tài liệu lưu trữ, người ta biết rằng khi đến Vichy, Hàm Nghi chưa bao giờ sống ở biệt thự đó. Ông thường ở bệnh viện quân y khoáng nóng hoặc ở khách sạn. Ông luôn cố kín tiếng nhất có thể. Theo cách sống của ông thì không bao giờ ông có thể sống trong một biệt thự mang tên mình như vậy. Đó không phải là phong cách của ông và điều này được các tài liệu lưu trữ xác nhận. Tên của ông có trong tất cả những khách sạn nơi ông lưu trú cũng như ở bệnh viên quân y. Người ta biết chính xác ông ở đâu khi ông tới Vichy và biết rõ là chưa bao giờ ông sống trong biệt thự không liên quan gì đến ông, ngoại trừ tên của ông được đặt cho biệt thự đó”.
Dù sao, biệt thự cũng là nơi kết nối những người thân quen của vua Hàm Nghi ở khắp nước Pháp. Rất nhiều người, vì tò mò cũng có, vì ngưỡng mộ cũng có, tìm đến Villa Prince d’Annam được Sylviane và Bruno mở cửa đón lưu trú. Vương tử An Nam trở thành một phần cuộc sống hàng ngày của họ. Họ đến Việt Nam tìm dấu tích của vua Hàm Nghi. Họ cho biết chỉ là “người kết nối” nhưng thấy “tự hào” vì "chia sẻ được những khám phá của mình" với du khách lưu trú tại Villa Prince d’Annam, cũng như người dân Vichy.
“Một năm, có một người phụ nữ từ Lyon tới, Sylviane nhớ lại, và nhất quyết muốn ngủ lại biệt thự vì bà hoặc là bà trẻ của bà ấy từng kể về vương tử An Nam khi ông đến Lyon mua lụa. Ở Lyon có rất nhiều nhà máy dệt lụa. Ông mua lụa để may trang phục truyền thống Việt Nam, bởi ông luôn mặc như vậy. Và hình như vua Hàm Nghi đã tặng cho người phụ nữ đó một bức tranh bởi vì ông vẫn thường xuyên tặng tranh cho mọi người. Ông ấy rất hào phóng vì thế có rất nhiều người được ông tặng tranh”.
“Đó là một người đã bước vào cuộc đời của chúng tôi vì chúng tôi nói về ông ấy, về cuộc đời của ông ấy gần như hàng ngày. Tất cả khách lưu trú của chúng tôi hỏi về Hàm Nghi vào mỗi bữa sáng. Đó thành chuyện thường tình !”. “Chúng tôi kể câu chuyện của thái tử An Nam, khi ông ấy còn trên ngai vàng theo những gì chúng tôi tìm hiểu được và khi ông ấy buộc phải ra đi, bị đày sang Alger”.
Tỉnh Allier và Vichy, nơi dừng chân của di dân Đông DươngTriển lãm về vua Hàm Nghi cũng làm nổi bật nhiều nét tương đồng giữa cuộc sống lưu đày của vua Hàm Nghi với cảnh di trú : những lo lắng và đau thương khi phải rời quê hương, phải làm lại cuộc đời ở xứ sở mới. Hiệp định Geneve (21/07/1954) chấm dứt chiến tranh Đông Dương, ba nước Việt Nam, Lào, Cam Bốt được độc lập. Sự kiện này cũng dẫn đến làn sóng di dân đến Pháp lục địa, trong đó có tỉnh Allier mà Vichy là thủ phủ. Chủ tịch hội Nhà Truyền giáo Jacques Alder cho biết :
“Cách Vichy không xa, khoảng 50 km, có một thành phố nhỏ tên là Noyant-d’Allier, nơi sinh sống của cộng đồng người Đông Dương trước đây, và có một ngôi chùa rất đẹp (Pháp Vương Tự). Chúng tôi kết hợp với họ để có thể tổ chức những cuộc triển lãm này. Có một phần triển lãm nói về Noyant d’Allier, giải thích về làn sóng di dân Đông Dương năm 1954 đã diễn ra như thế nào”.
Nhiều hình ảnh, đồ vật được trưng bày trong đợt triển lãm tại Vichy kể lại câu chuyện của nhiều gia đình người Việt đến Noyant-d’Allier định cư nhờ trợ giúp của trung tâm tiếp nhận người từ Đông Dương hồi hương (Centre d’accueil des rapatriés d’Indochine, CARI), được coi là một trong những trung tâm lớn nhất Pháp. Họ là những người giúp Noyant-d’Allier hồi sinh sau khi ngành khai thác mỏ bị ngừng hoạt động.
Khoảng 92 biệt thự Pháp cổ trên địa bàn Hà Nội sẽ được chỉnh trang, bảo tồn sau khi năm 2022, UBND thành phố ban hành quyết định về danh mục nhà biệt thự cũ được xây từ trước năm 1954. Biệt thự hai mặt tiền 49 Trần Hưng Đạo (46 Hàng Bài), được hoàn thiện đầu năm 2024, là dự án bảo tồn biệt thự mẫu để áp dụng với các biệt thự còn lại.
Đây là một dự án hợp tác giữa Cơ quan Hợp tác Quốc tế vùng Ile-de-France (Pháp) - PRX - tư vấn chuyên môn và thành phố Hà Nội - chịu trách nhiệm về kinh phí.
Dự án 49 Trần Hưng Đạo được nghiên cứu từ năm 2016 trong khuôn khổ hợp tác giữa thành phố Hà Nội và vùng Ile-de-France, quận Hoàn Kiếm và Cơ quan PRX-Việt Nam và do kiến trúc sư kiêm chuyên gia di sản Nicolas Viste phụ trách chính. Nhưng thực ra, chương trình hợp tác bảo tồn di sản đã có từ lâu, theo giải thích với RFI Tiếng Việt của ông Emmanuel Cerise, giám đốc PRX-Việt Nam :
“Chương trình hợp tác của chúng tôi với thành phố Hà Nội đã có từ lâu. Trong những năm 2007-2008, chúng tôi đã làm việc với Sở Kiến trúc và Đô thị của Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội, trước tiên là để thống kê di sản có từ thời Pháp, tiếp theo là đề xuất về quy hoạch tổng thế đối với toàn bộ lĩnh vực này. Đến những năm 2010 thì đưa ra một đề xuất quy định nhằm đề cao và bảo tồn di sản này. Nhìn chung, đó là cả một quá trình khá dài.
Chỉ từ năm 2015, UBND thành phố Hà Nội sử dụng nghiên cứu của chúng tôi, cũng như những nghiên cứu khác, để ban hành quy chế bảo tồn và phát huy di sản ở “khu đô thị Pháp cũ”, tên được đặt cho khu phố trước năm 1954. Quá trình từ nghiên cứu đến quy chế mất gần 10 năm. Sau khi hoàn thành thống kê ban đầu, thành phố đã xác định được một số địa điểm, có thể là di tích, tòa nhà thí điểm để trùng tu. Ngôi nhà 49 Trần Hưng Đạo đã được UBND thành phố Hà Nội xác định tiềm năng làm dự án thí điểm”.
Kết hợp kinh nghiệm Pháp và tiềm lực địa phươngKhi khai trương vào tháng 01/2024, biệt thự 49 Trần Hưng Đạo khiến khách mời sững sỡ trước sự lột xác từ đống đổ nát trước đó. Công ty PRX-Việt Nam mang kiến thức, nghiên cứu lịch sử để phục dựng công trình theo nguyên mẫu với không ít khó khăn nảy sinh và cần khắc phục trong quá trình thực hiện dự án.
“Đúng là chúng tôi gặp không ít vấn đề. Ở Pháp có nhiều kinh nghiệm về kiểu trùng tu này hơn là ở Việt Nam. Ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung, có rất nhiều nhà chuyên nghiệp, giầu kinh nghiệm, về việc trùng tu những ngôi chùa bằng gỗ hoặc những bức tượng sơn mài trong chùa. Chúng tôi không hướng dẫn được gì cho họ về việc trùng tu kiến trúc truyền thống, tuy nhiên họ lại thiếu kinh nghiệm, thiếu công cụ để tiến hành trùng tu kiểu kiến trúc thời Pháp. Đây là chuyện bình thường bởi vì, dù hiện giờ di sản kiến trúc Pháp được Việt Nam chấp nhận và công nhận hoàn toàn nhưng trong quá khứ, đó vẫn là một nền văn hóa bị áp đặt nên không tiếp nhận được hết kiến thức”.
Phần thi công kỹ thuật, nguyên vật liệu được thành phố Hà Nội huy động nguồn lực địa phương. Công ty tư vấn điều chỉnh một số chi tiết kỹ thuật để thích nghi. Ông Emmanuel Cerise nêu ví dụ về ngói lợp mái, được nhập từ miền nam Pháp vào thời kỳ đầu thuộc địa. Nhưng sau đó, cả một ngành công nghiệp đất nung (gạch, ngói, gạch lát) được phát triển ở Việt Nam. Ngoài ra còn phải kể đến hạn chế về phương pháp thực hiện, chủ yếu liên quan đến chi phí hoặc năng lực.
“Việc phân tích thành phần hóa học của lớp vữa trát tường chẳng hạn, họ không nhập các vật liệu cũ từ Pháp. Có thể coi đây là một hạn chế. Ban đầu, tôi thấy hơi tiếc. Nhưng việc này lại có mặt tốt, đó là những kỹ thuật, kinh nghiệm được thực hiện trong ngôi nhà này có thể được áp dụng trong một ngôi nhà khác, đúng như ý chúng tôi muốn, đó là biến việc trùng tu biệt thự này thành một kiểu dự án thí điểm. Có nghĩa là nếu các đối tác Việt Nam muốn áp dụng kinh nghiệm sang những ngôi nhà khác, chúng tôi biết rằng họ sẽ không cần chúng tôi nữa, hoặc có thể là một chút về mặt tư vấn. Còn việc trùng tu hoàn toàn có thể được tiến hành với chi phí hợp lý, cùng với kỹ thuật và kinh nghiệm của Việt Nam”.
Tái hiện tổng thể kiến trúc Hà Nội trước năm 1954Sự kết hợp hài hòa này tạo tiền đề, cũng như giúp Hà Nội có thể tự chủ trong những dự án tiếp theo. Danh mục chỉnh trang, bảo tồn hiện có 92 biệt thự cũ xây trước năm 1954 tại Hà Nội, gồm 30 biệt thự cũ do thành phố quản lý, 50 biệt thự cũ do Trung ương quản lý và 12 công trình kiến trúc có giá trị. Theo trang Kinh tế Đô thị ngày 07/05/2023, thành phố ưu tiên kiểm định, đánh giá chất lượng chi tiết để có phương án cải tạo, chỉnh trang 24 biệt thự cổ và 8 công trình kiến trúc đặc biệt, gồm Báo Hà Nội mới, Tháp nước Hàng Đậu, Trụ sở Công an Thành phố, Cột cờ Hà Nội, trường PTTH Phan Đình Phùng, trường THPT Chu Văn An, trường THPT Trần Phú, trường THPT Việt - Đức.
Theo ông Emmanuel Cerise, công ty PRX-Việt Nam “không hẳn là bên thúc đẩy thành phố đưa ra quyết định này” nhưng năm 2010, họ đã “trao cho thành phố Hà Nội bản thống kê di sản, một dự thảo quy định để nâng cao giá trị di sản”. Vào thời điểm đó, bản quy hoạch tổng thể “có hơn 1.400 biệt thự trong thành phố (…) nhưng tiếc là từ đó đến nay, một số biệt thự đã bị phá”. Những công trình được xây theo kiến trúc thuộc địa nằm trong quy hoạch tổng thế tái hiện cuộc sống của người Hà Nội trước năm 1954.
“Chúng ta thấy ở số 87 Mã Mây có một ngôi nhà truyền thống của thương nhân Việt Nam được trùng tu và bày hiện vật như một ngôi nhà cổ. Biệt thự nằm ở số 49 Trần Hưng Đạo nằm trong quy hoạch này để cho thấy cùng thời điểm đó, một gia đình Pháp sống như thế nào. Chúng tôi phối hợp với phía Việt Nam để cho thấy văn hóa Pháp đã được hòa quện vào văn hóa Hà Nội trong mọi mặt đời sống ra làm sao.Nhưng vấn đề này hơi phức tạp một chút vì chúng ta biết rằng ảnh hưởng đó diễn ra vào thời điểm hoàn toàn bất cân xứng : Sức mạnh thực dân Pháp thống trị đời sống thường ngày của người dân Việt Nam, thường bị bắt làm nô lệ. Ảnh hưởng đó không diễn ra trong hòa bình mà trong bối cảnh rất đặc biệt.
Phía đối tác Việt Nam của chúng tôi hiểu rất rõ, nhưng đồng thời họ cũng coi giai đoạn đó là chuyện quá khứ, và hiện giờ không nhất thiết phải chỉ trích. Người dân Việt Nam đã đánh bại sự thống trị của Pháp khi giành chiến thắng Điện Biên Phủ, buộc thực dân ra đi. Lần đầu tiên trong lịch sử quá trình thuộc địa châu Âu lại xảy ra sự kiện như vậy. Còn Việt Nam rất tự hào về chiến thắng đó và có cái nhìn không đến mức quá bi quan về thời kỳ thuộc địa bởi vì thời kỳ đó đã giúp họ thành lập một nước Việt Nam độc lập, hùng cường.
Họ cũng hiểu là có một số mặt văn hóa đã ảnh hưởng đến đời sống người Việt. Điểm này được thể hiện qua biệt thự 49 Trần Hưng Đạo về mặt kiến trúc. Có thể thấy rõ là kiến trúc Pháp đã đồng hóa hoàn toàn vào lịch sử của Hà Nội. Người Việt coi đó như một niềm tự hào vì có một nhà hát lớn, một tòa án rất đẹp, rất nhiều ngôi nhà xinh… Chúng tôi cố gắng cho thấy rằng biệt thự 49 Trần Hương Đạo không sao chép y hệt một ngôi nhà ở Pháp. Đó là một ngôi nhà Pháp được xây ở Việt Nam nên mang đặc trưng Hà Nội. Bản thân ngôi nhà đã có sự giao thoa văn hóa”.
Chính sự giao thoa văn hóa này đã góp phần tạo nên những con phố có lối kiến trúc đẹp, rợp hàng cây trên vỉa hè với những biệt thự được kết hợp giữa kiến trúc tân cổ điển Pháp, tân cổ điển châu Âu với kiến trúc của Việt Nam như mái che, mái trạm trổ, hàng hiên rộng. Sự giao thoa này còn được thể hiện trong mọi mặt đời sống, cách ăn mặc, ngôn ngữ, thậm chí là cả lĩnh vực y tế hoặc giao thông với sự xuất hiện của đường bộ, đường sắt, du nhập ô tô...
Mang tính năng mới cho những công trình cổTrùng tu những căn biệt thự cổ là nhằm bảo tồn sự đa dạng văn hóa này. Nhưng có một câu hỏi khiến giám đốc PRX-Việt Nam trăn trở : Trùng tu hàng trăm biệt thự như vậy để làm gì ? Biệt thự ở 49 Trần Hưng Đạo được chuyển thành trung tâm văn hóa nhưng không thể lặp lại cả trăm lần. Ông Emmanuel Cerise cho biết PRX-Việt Nam sẵn sàng làm việc với thành phố Hà Nội để tìm ra tính năng mới cho những ngôi nhà đó.
“Hiện giờ, có rất ít mô hình kinh tế để cải tạo các ngôi nhà. Một số nhà cổ đã được cải tạo để thành nhà hàng. Nhưng tôi thấy tiếc là chưa có một ngôi nhà nào được trùng tu để thành khách sạn chẳng hạn, trong khi Đà Lạt đã làm, hoặc bên cạnh một ngôi nhà được trùng tu xây thêm một ngôi nhà mới để làm khách sạn trong khi hiện giờ Hà Nội chỉ có khách sạn Métropole là khách sạn lịch sử. Còn những ngôi nhà được trùng tu và tiếp tục làm nhà ở, thì đã có nhiều căn như vậy, ví dụ ở phố Ngô Quyền có nhiều tư dinh được bảo quản, thậm chí là trùng tu. Ngoài hỗ trợ tư vấn về kỹ thuật, cũng cần có một chút hỗ trợ về mặt ý tưởng : Tại sao lại trùng tu và trùng tu để làm gì ?”
Đến Hà Nội trong thời gian này, du khách không khỏi bất ngờ, thú vị trước nhiều công trình được tu sửa thể hiện “quyết tâm gìn giữ hồn cốt di sản”, như tháp nước Hàng Đậu, nhà máy xe lửa Gia Lâm hay chiếc cổng tam quan cổ kính phía trước Nhà hát Hồ Gươm, được trùng tu theo đúng nguyên bản 78 năm trước và trên cổng vẫn giữ hàng chữ tiếng Pháp “Garde indigène” của trại lính khố xanh thời Pháp thuộc. Tất cả trở thành những điểm đến mới của du lịch Hà Nội. Những công trình này nằm trong xu hướng “công nghiệp văn hóa” mà Hà Nội đang bắt đầu nhân rộng.
Làm gì với cầu Long Biên bắc qua sông Hồng ? Câu hỏi được đặt ra từ 20 năm nay vẫn chưa có lời giải đáp trong khi cây cầu 120 tuổi ngày càng xuống cấp vẫn gồng mình nối hai bờ sông. Tám tháng kể từ khi Pháp thông báo tài trợ cho nghiên cứu tiền khả thi và hai tháng kể từ khi Luật Thủ đô (sửa đổi) được Quốc Hội thông qua, hy vọng rằng cây cầu lịch sử sẽ sớm được trùng tu.
Trong thông cáo báo chí ngày 25/12/2023, Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam thông báo “khoản tài trợ không hoàn lại 700.000 euro”, được trích từ Quỹ Nghiên cứu và Hỗ trợ lĩnh vực tư - FASEP của Kho bạc Pháp, để góp phần trùng tu “công trình biểu tượng mạnh mẽ của mối liên kết độc đáo gắn kết hai nước”. Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 13/06/2024, đại sứ Pháp Olivier Brocher giải thích mục đích của dự án :
“Đến thời điểm này, khoản ngân sách 700.000 euro được tặng cho thành phố Hà Nội là nhằm giúp tiến hành nghiên cứu tiền khả thi để sau đó thực hiện dự án cải tạo cầu Long Biên. Chúng ta biết là cây cầu này rất quan trọng và hữu ích đối với người dân Hà Nội. Cây cầu đó cũng là một phần lịch sử, bản sắc của Hà Nội, người Hà Nội rất gắn bó với cầu Long Biên. Thế nhưng đó cũng là một cây cầu đã phải chịu đựng rất nhiều, rất cũ vì cũng đã 120 tuổi và cần được trùng tu sâu rộng.
Nhưng trước khi tiến hành thi công, cần phải hiểu rõ nhu cầu, phân tích và đó chính là mục đích của nghiên cứu tiền khả thi, được công ty xây dựng Pháp Artelia tiến hành. Đây là một công ty nổi tiếng chuyên nghiệp trong vấn đề này. Hiện giờ, mọi người đã sẵn sàng để thực hiện công việc, chúng tôi đang chờ được thành phố Hà Nội bật đèn xanh để những nghiên cứu này có thể được bắt đầu. Và khoản tiền 700.000 euro đó là nhằm tài trợ cho công việc này.
Đó là phần thứ nhất, sau đó khi có những định hướng về công việc sẽ được thực hiện và lập ra được bản quy định cụ thể thì Pháp sẵn sàng làm việc với thành phố Hà Nội, dù là về khả năng cấp vốn để tài trợ cho công việc trùng tu thông qua Cơ quan Phát triển Pháp - AFD hoặc là tìm và mời các doanh nghiệp chuyên về lĩnh vực này tham gia để có thể mang kiến thức, kinh nghiệm của họ trong việc trùng tu cây cầu Long Biên xinh đẹp này”.
Đọc thêm : Cầu Long Biên qua hồi ký toàn quyền Paul Doumer
Cụ thể, theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Pháp tại Việt Nam - CCIFV ngày 28/12/2023, công ty Artelia chẩn đoán tình trạng của cây cầu thông qua mô hình một cây cầu kỹ thuật số tương ứng ; tiến hành nghiên cứu cấu trúc giúp xác định những công trình cải tạo cần thực hiện ; mô tả những công việc này, lập kế hoạch và thống kê (1). Ba mục đích chính của nghiên cứu được giao cho Artelia gồm : Bảo đảm an toàn cho người sử dụng công trình dù là giao thông đường sắt, người đi bộ hay xe hai bánh ; Nêu bật di sản biểu tượng cảnh quan của thành phố Hà Nội ; Trên cơ sở nghiên cứu về tác động môi trường, đưa những nguyên tắc phát triển bền vững… vào các kịch bản sử dụng cầu trong tương lai… có tính đến các dự án giao thông lớn và các dự án quy hoạch đô thị mà thành phố đang triển khai.
“Nghiên cứu khả thi đề xuất kỹ thuật” dài 32 trang đã được công ty Artelia gửi đến thành phố Hà Nội. Đến tháng 05/2024, sở Giao thông Vận tải Hà Nội đề nghị Hội Kiến trúc sư Hà Nội cho biết ý kiến với đề xuất kỹ thuật cải tạo cầu Long Biên của công ty Pháp Artelia (2). Đến ngày 28/06, theo Luật Thủ đô (sửa đổi) 2024 được Quốc Hội khóa XV thông qua, trong đó có nội dung Quy hoạch Thủ đô và Quy hoạch chung Thủ đô Hà Nội, thì “không có tuyến đường sắt đô thị nào đi qua cầu Long Biên”. Như vậy, theo kiến trúc sư Trần Huy Ánh (3), “cho tới 2030 khả năng vẫn chỉ có cầu Long Biên, Thăng Long có đường sắt”.
Cây cầu vắt qua ba thế kỷVới những tiến triển này, hy vọng việc trung tu cầu Long Biên sẽ sớm được khởi công. Đang tiếc là phải mất đến 20 năm kể từ khi Pháp ngỏ ý tài trợ nhân chuyến thăm Việt Nam năm 2004 của tổng thống Jacques Chirac, cây cầu trăm tuổi mới thực sự được chú ý nhiều hơn. Trong quãng thời gian đó, “Pháp đã tài trợ cho nhiều nghiên cứu và các đoàn công tác của chuyên gia”. Và Pháp lại tiếp tục đáp ứng mong muốn của người dân Hà Nội trong những năm gần đây là “được thấy Pháp tham gia nhiều hơn nữa vào việc cải tạo cây cầu này”. Đại sứ Olivier Brochet cho biết thêm về những phương án tương lai để có thể nâng cao giá trị của cầu :
“Quyết định xem xét công dụng của cầu Long Biên trong tương lai thuộc về thành phố Hà Nội. Nhưng theo tôi biết, cho đến thời điểm này thì quá trình suy tính vẫn chưa hoàn tất để xem liệu tiếp tục duy trì giao thông đường sắt trên cầu hay không, liệu cầu sẽ chỉ dành riêng cho người đi bộ hoặc đi xe máy như hiện nay hay cầu sẽ có một tầm vóc mới, ý tôi muốn nói là thiên về bảo tồn di sản hơn và dành cho người đi bộ. Hiện giờ ở thành phố Hà Nội vẫn có những cuộc trao đổi, thảo luận về vấn đề này.
Điều quan trọng, và cũng chính vì thế mà FASEP giữ vai trò quan trọng, đó là cần cùng lúc tiến hành gia cố và cải tạo cây cầu một cách khẩn trương, có thể là trước cả khi có quyết định chính thức về công dụng của cây cầu trong tương lai bởi vì tình trạng hiện nay của cầu rất đáng quan ngại và ảnh hưởng đến tính ổn định và sự an toàn của người sử dụng. Chính vì thế chúng tôi đã đề xuất và thành phố đã chấp nhận ý tưởng tiến hành nghiên cứu. Nghiên cứu tiền khả thi hiện giờ mang tính kỹ thuật, dù có thể vẫn chưa có ý định chính xác về chức năng sắp tới của cây cầu. Dù sao, cây cầu vẫn có vị trí của mình, vẫn là một phần cảnh quan đô thị và vẫn có ích cho người Hà Nội. Vì thế chúng tôi ở đây, mang đến nguồn tài chính và kỹ năng, sau đó về mặt vay tài chính, ví dụ thông qua Cơ quan Phát triển Pháp - AFD, để trùng tu cây cầu.
Giả sử nếu như việc phát triển về khía cạnh di sản của cây cầu có thể là chủ đề hợp tác giữa Pháp và Việt Nam, bởi vì nhìn chung, đó là một trong những trục hợp tác của hai nước chúng ta, thì việc nâng giá trị di sản của Việt Nam từ mọi thời đại hiện giờ vẫn là một trong những nét phong phú và là một trong những nét hấp dẫn của Việt Nam”.
Cầu Long Biên : Từ ý tưởng tháo dỡ đến bảo tồn di sảnCầu “Paul Doumer” cũ, theo phong cách Eiffel, được xây dựng từ tháng 09/1898 và đến năm 1902. Cầu “đã bị hư hại nặng nề bởi những đợt ném bom của Mỹ năm 1967. Chính quyền Việt Nam sau đó đã phục hồi cây cầu nhằm đảm bảo sự liên tục kết nối giữa Hà Nội và Hải Phòng”. Những năm sau đó, cây cầu chỉ được chắp vá, lấp ổ gà và thiếu đại trùng tu. Rồi lại đến ý tưởng tháo dỡ cây cầu già cỗi, “tang thương do chiến tranh tàn phá, làm cây cầu mới cho hoành tráng”. Quyết định tháo dỡ được đưa ra năm 2006, chỉ hai năm sau chuyến thăm Việt Nam của tổng thống Jacques Chirac và Hà Nội không hồi âm về đề xuất của Pháp cấp 60 triệu euro để trùng tu cầu Long Biên.
Theo lời kể với tạp chí Nông nghiệp (4) của kiến trúc sư Nguyễn Nga, một Việt kiều sống ở Paris nhưng luôn hướng về Hà Nội và là một trong những người có công để cầu Long Biên không bị tháo thành đống sắt vụn, “sức mạnh truyền thông của báo chí đã giúp tôi rất nhiều”để thay đổi số phận đã được định đoạt của cầu Long Biên. Vào lúc cây cầu lịch sử, gắn với hình ảnh của Hà Nội, bị coi chỉ còn là đống sắt vụn mà một số ý kiến đồng tình với việc phá bỏ, chỉ còn mỗi vai trò văn hóa, lịch sử còn có thể giúp cây cầu trụ lại. Kiến trúc sư Nguyễn Nga hồi tưởng khi trả lời phỏng vấn với RFI Tiếng Việt tháng 03/2016 :
“Năm 2007, tôi nghĩ là phải làm một cái gì đó, làm một sự kiện rất lớn để người Việt Nam ý thức được cây cầu đóng một vai trò hết sức quan trọng, không chỉ trong quá khứ mà nó có thể đóng một vai trò quan trọng cho Việt Nam hội nhập với thế giới trong tương lai. Cho nên tôi đã tổ chức hai kỳ lễ hội Festival trong vòng 48 tiếng trên đúng cây cầu đó, vào năm 2009, 2010 để chào mừng Hà Nội 1000 năm.
Tôi nhớ đến một lễ hội ở Champs-Elysées lúc tôi ở Pháp, trong 24 tiếng, nguyên đại lộ Champs-Elysées biến thành một cánh đồng, nơi người dân đến gặt lúa, ca hát. Tôi cũng biến cây cầu Long Biên trong 48 tiếng với 20 hoạt động khác nhau để kỉ niệm, lần thứ nhất là ký ức của cầu Long Biên hơn 100 tuổi và lần thứ hai là để câu chuyện nghìn năm từ Thăng Long đến Hà Nội. Và hai kỳ festival đó đã làm cho người Việt Nam ý thức được tầm quan trọng phải lưu giữ cây cầu này để kể lại câu chuyên cho các thế hệ Việt Nam, cũng như là để kết nối Việt Nam với thế giới”.
Lẽ ra cây cầu đã có thể được trùng tu cách đây gần 20 năm khi Pháp sẵn sàng sát cánh với Việt Nam khi đề xuất gói hỗ trợ 60 triệu cùng với nghiên cứu tiền khả thi. Đây chính là những gì đang diễn ra hiện nay. Nghiên cứu tiền khả thi đã có, Pháp tha thiết được tiếp tục hợp tác trong công trình mang đầy ý nghĩa biểu tượng lịch sử và trở nên quá đỗi thân thương với người dân thủ đô.
Ngay từ năm 2011, sau khi có dự án biến cầu Long Biên thành nơi triển lãm phủ kính theo đề xuất của kiến trúc sư Nguyễn Nga, nhiều người dân lại mong muốn trùng tu cây cầu “để nguyên bản mới đúng lịch sử” và tiếp tục giữ chức năng lưu thông. Theo Luật Thủ đô được Quốc Hội thông qua tháng 06/2024, chức năng này sẽ được tiếp tục ít nhất đến năm 2030.
Rất nhiều kiến trúc sư Việt Nam đã đề xuất những dự án lòng ghép nhiều mục đích sử dụng nhằm đạt nhiều mục tiêu, mang lại nhiều lợi ích, từ lưu thông đến nơi tổ chức các hoạt động văn hóa, triển lãm, kinh doanh nhờ giải phóng không gian mặt đất tại các ga, dưới đường tàu… “Cầu Long Biên trăm tuổi nay lại có cơ hội tạo ra nguồn lực mới phát triển Hà Nội hiện đại”, như kỳ vọng được ông Trần Huy Ánh, ủy viên thường vụ Hội KTS Hà Nội, nêu trong một bài viết trên trang Vietnamnet tháng 01/2022.
Vòng lửa không cháy mà chỉ tỏa sáng, ngọn lửa vàng rực không được tạo ra từ chất đốt hóa thạch mà từ nước và điện tái tạo, đó là « đài lửa bay » độc nhất vô nhị trong lịch sử Olympic nhờ khinh khí cầu. Tỏa hơi nước mờ ảo như làn khói, hai tuần qua, từ sau lễ khai mạc Thế Vận Hội, đài lửa Olympic bập bùng bay lơ lửng trên bầu trời đêm Paris, đã trở thành « ngôi sao mới nổi » thu hút mọi ánh nhìn ở Kinh đô Ánh sáng Paris.
Đài lửa Olympic thậm chí được kỳ vọng sẽ trở thành công trình hiện diện lâu dài tại Paris chứ không chỉ trong thời gian ngắn ngủi diễn ra Thế Vận Hội, như tháp Eiffel theo dự kiến ban đầu chỉ được dựng lên tại thủ đô nước Pháp cho Triển lãm Hoàn cầu 1889, nhưng sau hơn 135 năm vẫn sừng sững giữa lòng Paris, là biểu tượng của Paris hoa lệ và là một trong những công trình được thăm quan nhiều nhất thế giới.
Cũng như các tiết mục biểu diễn trong lễ khai mạc Thế Vận Hội, màn rước đuốc và châm vạc lửa Olympic được giữ bí mật đến phút chót. Hình ảnh mãn nhãn về đài lửa lơ lửng trên bầu trời Paris rực rỡ, phía dưới là các công trình biểu tượng đẹp lung linh của Paris đã khép lại chương trình khai mạc Thế Vận Hội. Và ngay sau đó là những ngày thu hút hàng trăm ngàn lượt khách đến chiêm ngưỡng đài lửa - khinh khí cầu tại vườn Thượng Uyển (Tuileries). Cùng với không khí háo hức, sôi nổi mỗi tối ở thủ đô Paris khi hoàng hôn buông xuống, là vô vàn bức ảnh đẹp như trong cổ tích lan truyền trên các kênh truyền thông và mạng xã hội.
Vào ban ngày, đài lửa được đặt tại Vườn Tuileries, mỗi hôm cả chục ngàn người đến tham quan. Chỉ trong 48 giờ đầu tiên phân phát vé miễn phí, đã có 100.000 người đăng ký. Nhiều người nói đến hiệu ứng Vasque Olympique (Chảo lửa Thế Vận Hội). Buổi tối khi mặt trời lặn, khinh khí cầu được đưa lên độ cao 60m, cho đến nửa đêm, đung đưa theo gió, phun hơi nước mờ ảo như làn khói mỏng tỏa ra từ ngọn lửa.
Kỳ tích công nghệ PhápNghe thì đơn giản, nhưng đài lửa Olympic xứng đáng được gọi là một kỳ tích công nghệ mới của Pháp, được lấy cảm hứng từ ngành chế tạo hàng không, bởi phải bảo đảm đồng thời tính thẩm mỹ mà an toàn, nhẹ mà chắc chắn, nhất là khi khinh khí cầu, cao 30m, với bề ngang 22m, được đưa lên độ cao 60m và đung đưa trong gió vài tiếng đồng hồ trong khi hệ thống dẫn điện - nước vẫn phải hoạt động liên tục qua đường dây cáp đặc biệt bằng nhôm nhẹ mà vững chắc, dẫn từ mặt đất lên độ cao 60m.
Riêng về vòng lửa, với đường kính 7m, vòng lửa được tạo thành nhờ 40 máy chiếu công suất cực mạnh với độ sáng 4 triệu lumen và 200 vòi phun sương cao áp, do công ty điện lực Pháp EDF và các đối tác chế tạo. Khi đứng yên một chỗ trên mặt đất, vạc lửa tiêu thụ 2m3 nước/giờ, còn khi lên cao thì 3m3 nước/giờ.
Cũng như đuốc Olympic Paris 2024, đài lửa do Mathieu Lehanneur thiết kế. Nhà thiết kế táo bạo này là người sáng lập xưởng thiết kế Factory tại Ivry-sur-Seine, ngoại ô Paris. Trên đài RFI Pháp ngữ, nhà thiết kế Lehanneur giải thích về ý nghĩa của đài lửa :
« Điều đầu tiên đến (trong suy nghĩ) là chúng tôi sẽ làm được, bất luận thế nào thì chúng tôi cũng phải làm mọi thứ để đạt được điều đó. Như vậy, chúng tôi đã triển khai mọi việc, cả về mặt kỹ thuật, về vật liệu và về không gian, để tìm ra vị trí thích hợp và công nghệ thích hợp. Chúng tôi đã có thể làm cho chiếc đài lửa trở nên sống động nhờ các ê-kíp của Tập đoàn Điện lực Pháp EDF đã tạo ra được một ngọn lửa mà không cần dùng tới chất đốt. Quả thực, ngọn lửa được tạo ra từ ánh sáng và nước đã cho phép chúng tôi biến ý tưởng về đài lửa bay trở thành hiện thực. Chính điều này đã thực sự cho phép chúng tôi biến những giấc mơ điên rồ nhất thành hiện thực.
Ý nghĩa biểu tượng của đài lửa này là ở chỗ càng đông công chúng tiếp cận được thì càng tốt. Vào ban ngày, đài lửa được đặt trên mặt đất tại một nơi công cộng, để tất cả mọi người có thể đến chiêm ngưỡng. Và vào buổi tối, đài lửa sẽ bay lên theo chiều gió, có thể lên đến độ cao 60m để càng nhiều người chiêm ngưỡng thì càng tốt. Như vậy, trên hết đài lửa khiến tâm hồn người xem bay bổng. Đây cũng là cách kể với mọi người về lịch sử các phát minh của Pháp, câu chuyện về anh em nhà Montgolfier (những người đã chế tạo ra khinh khí cầu đầu tiên), các khinh khí cầu, khinh khí cầu vận hành với khí đốt, tức là toàn bộ lộ trình sáng chế của Pháp. Như vậy là đài lửa này cũng được in dấu trong dòng chảy lịch sử này, nhưng theo cách thức mới mẻ ».
Ngọn lửa bừng sáng lúc hoàng hônSuốt gần 2 tuần qua, khu vườn nổi tiếng gần sông Seine, cạnh bảo tàng Louvre, trở thành điểm thu hút biết bao du khách, không chỉ du khách trong nước và quốc tế mà ngay cả nhiều người dân Paris cũng háo hức đến đây để được tận mắt ngắm nhìn một « kỳ quan » mới mùa Thế Vận Hội.
Chị Minh Phương, sống tại vùng Paris, cùng với một nhóm bạn người Việt Nam, hôm đầu tuần này cũng đến Vườn Tuileries để chiêm ngưỡng vạc lửa - khinh khí cầu. Đây là lần thứ hai chị đi xem đài lửa. Hào hứng khi thấy khinh khí cầu bắt đầu bay lên, lung linh trên bầu trời đêm Paris, chị Minh Phương chia sẻ với RFI Tiếng Việt :
Không xa chỗ chị Phương đứng, ở ngay đầu cầu Pont Royal, bà Emilie Bourdenx và con trai là Mathis Mahongo đang say sưa bàn tán rất sôi nổi về đài lửa. Bà Emilie Bourdenx không tiếc lời khen ngợi :
« Đây là lần đầu tiên tôi thấy nó (đài lửa) bay lên vì những lần trước thời tiết xấu. Tôi thấy thật phi thường, rất đẹp. Thật là kỳ diệu ! Đây là một khoảnh khắc kỳ ảo. Quả là tuyệt vời ! Mọi người rất vui khi được đến đây. Bầu không khí ở đây rất thích, mọi người đến từ nhiều quốc gia. Thực sự là rất tuyệt vời ! Công ty điện lực Pháp đã tạo ra ngọn lửa này, nhưng thực ra không hề có lửa cháy, mà ngọn lửa được tạo ra bằng hơi nước và ánh sáng. Nhưng chúng ta có thể nói là nó giống y ngọn lửa thật và tôi nghĩ chính điều đó khiến nó trở nên kỳ ảo ».
Anh Mathis Mahongo hào hứng tiếp lời mẹ :
« Tôi đã từng trông thấy nó, không phải ngoài đời thực mà là trên truyền hình và trông có vẻ tuyệt vời. Nhưng được chiêm ngưỡng tận mắt thế này thì thực sự là rất đẹp. Và cách (ngọn lửa) được tạo ra với hơi nước cũng được thực hiện rất tốt. Nên tôi thích ngọn lửa như vậy, lửa mà lại không phải lửa thật. Điều này chẳng có gì là không hay. Tôi thậm chí còn thấy rằng hiệu ứng mà nước mang lại còn tốt hơn là từ ngọn lửa thật. Tôi nghĩ rằng tôi thích ngọn lửa được tạo ra từ hơi nước thế này hơn ».
Cách đó vài bước chân có hai người phụ nữ trẻ, hiện đang sống tại Paris, đi xem đài lửa cùng nhau. Một người đã từng chiêm ngưỡng, cô vui vẻ chia sẻ cảm xúc ngay trước khi đài lửa bay lên : « Tôi đến đây chiêm ngưỡng đài lửa Olympic cùng với người bạn trọ cùng nhà với tôi. Ngày thứ Bảy, sau hôm xem lễ khai mạc Thế Vận Hội, tôi đã đến đây và tôi thấy (đài lửa) rất đẹp. Mọi người đến xem mà không cần phải mua vé, tôi thấy là rất tuyệt. Có thể nói là khá độc đáo và hầu như đứng chỗ nào ở Paris cũng có thể ngắm được, như trên đồi Montmartre chẳng hạn. Điều này mang lại không khí hào hứng trong suốt mùa Thế Vận Hội ».
Bạn cô thì nói : « Sẽ thật tuyệt nếu đài lửa được duy trì ở đây. Tại sao lại không nhỉ ? Nó thực sự rất đẹp. Hiện tại tôi chưa có cơ hội ngắm. Tôi đang chờ xem đây. Có đông người, trời đang là mùa hè, thời tiết đẹp, đài lửa đưa người mọi người đến đây, tạo ra một bầu không khí hào hứng, sôi nổi. Chúng tôi đánh giá cao điều đó ».
Biểu tượng mới của Paris ?
Truyền thông Pháp thậm chí đặt câu hỏi về khả năng đài lửa bay liệu có trở thành một biểu tượng mới của Paris, thậm chí liệu có thể soán ngôi biểu tượng tháp Eiffel của Paris hay không. Về điều này, có nhiều ý kiến trái chiều. Những chia sẻ của các du khách mà RFI Tiếng Việt phỏng vấn cũng cho thấy điều đó. Chị Minh Phương bày tỏ :
Bà Emilie Bourdenx và con trai là Mathis Mahongo : « Ồ! Tôi không rõ, chúng tôi không phải người Paris nên tôi không biết, nhưng đúng là điều đó có thể sẽ rất thú vị. Nhưng thường thì sau Olympic thì người ta sẽ tắt lửa. Có thể là đây chỉ là khoảnh khắc kỳ diệu ngắn ngủi, trong vài ngày thôi. Nó sẽ không thể soán ngôi tháp Eiffel được. Tháp Eiffel ở ngay kia kìa. Mọi người vẫn thấy tháp Eiffel sáng lấp lánh ngay cả khi đài lửa bay lên. Tháp Eiffel sẽ không thể bị soán ngôi đâu, nó hùng vĩ thế kia cơ mà » ; « Tôi nghĩ rằng biểu tượng của Paris sẽ luôn là tháp Eiffel. Đài lửa thì tôi không chắc là sẽ được như vậy. Tôi nghĩ là nó sẽ chỉ thoáng qua. Đó sẽ là một khoảnh khắc kỳ diệu trong lịch sử Paris, nhưng sẽ chỉ là tức thời, là một hiệu ứng thoáng qua ».
Sự thành công ngoài sức tưởng tượng của đài lửa Olympic ngay từ khi ra mắt tại lễ khai mạc Thế Vận Hội đã khiến đô trưởng Paris, Anne Hidalgo, đã viết thư gửi tổng thống Pháp Emmanuel Macron để đề nghị giữ lại đài lửa ở vườn Tuileries sau khi Olympic kết thúc. Do đây là khu vườn thuộc quản lý của Nhà nước nên chính quyền thành phố không thể tự quyết.
Vườn Tuileries cũng chính là nơi cách nay gần 2 thế kỷ rưỡi khinh khí cầu vận hành bằng nhiên liệu hóa thạch, do anh em nhà Montgolfier chế tạo, trở thành phương tiện « biết bay » đầu tiên của nhân loại. Hơn nữa, đây cũng là một điểm nằm trên trục thẳng nối những điểm biểu tượng của Paris, từ Kim tự tháp kính ở sân bảo tàng Louvre, cột đá Ai Cập obélisque có từ thế kỷ 13 trước công nguyên tại quảng trường Concorde, Khải Hoàn Môn, cho đến La Défense, trung tâm văn phòng, tài chính lớn nhất châu Âu, đặt tại ngoại ô Paris.
Theo Le Figaro ngày 02/08, tổng thống Macron đã đề nghị chính phủ phối hợp với Công ty điện lực Pháp, chính quyền thành phố Paris và các cơ quan có liên quan nghiên cứu về khả năng duy trì lâu dài đài lửa Olympic tại Paris.
Tháng 5/2024 họa sĩ Pháp gốc Việt Marcelino Trương ra mắt độc giả cuốn sách mới Biển xanh sâu thẩm từ Sài Gòn đến Saint-Malo. Biển, nước bể bơi … là hình ảnh của tuổi thơ, là một mái nhà trong thời gian ngắn ngủi phục vụ trong Hải Quân Pháp, là sân chơi bất tận trong sự nghiệp sáng tác của một nghệ sĩ tự học vẽ trở thành một tên tuổi trong làng truyện tranh, là một cây bút trong làng hội họa và một tác giả yêu mến của bạn đọc.
Trong tác phẩm Si loin dans le bleu de Saigon à Saint-Malo, xin được dịch là Biển xanh sâu thẳm từ Sài Gòn đến Saint-Malo, của nhà xuất bản Equateurs thật ra đưa độc giả đi từ Manila, thủ đô Philippines, nơi anh sinh ra, đến Saint Malo vùng Bretagne, tây bắc nước Pháp. Saint-Malo hướng nhìn ra biển là quê « ngoại » của họa sĩ Marcelino Trương.
Thân phụ của Marcelino là một nhà ngoại giao của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, vì thế Marcelino chào đời trong một nhà hộ sinh ở thủ đô Philippines năm 1957. Mẹ của Marcelino Trương yêu nghệ thuật, vẽ giỏi, đàn hay. Bà lớn lên cùng với mùi gió biển Saint-Malo … Những thăng trầm của dòng lịch sử và dòng đời, sau 40 năm sống ở Paris, Marcelino Trương về ở hẳn trong ngôi nhà của ông bà ngoại để sớm chiều được nghe tiếng sóng, để hàng ngày tâm sự cùng gió biển. « Biển nhìn thấu suốt từ sự mệt mỏi đến nỗi chán chường, từ lòng can đảm, sức mạnh đến nỗi sợ hãi » của anh.
Trong cuốn tự truyện với rất nhiều bức tranh minh họa, Marcelino Trương ngược thời gian nhớ về tuổi thơ, về một lần hiếm hoi cả gia đình cùng đi nghỉ mát ở Nha Trang trước khi « loạn lạc ». Marcelino đã nhớ về những buổi chiều tà thả bộ ở bến Nhà Rồng, khám phá những chiếc tàu chiến của Mỹ được điều sang Việt Nam trong những năm tháng chiến tranh.
Biển xanh sâu thẳm đã có nhiều trang nói về thành phố cổ Hội An, về Vũng Tàu, nơi bên dòng họ Trương Bửu từ Bình Định trôi dạt về đây lập nghiệp… Rồi nói về Saint-Malo khi Marcelino Trương về sống với ông bà ngoại, còn bố mẹ và các anh chị em ở lại Luân Đôn.
Saint-Malo là bệ phóng đưa Marcelino nối gót cha và ông nội vào Trường Khoa Học Chính Trị Sciences Po Paris. Trong thời gian phục vụ Hải Quân Pháp, anh đã đóng ở những thành phố biển như Toulon, Rocherfort .. Chính trong thời gian này, Marcelino đã có dịp bước lên hàng không mẫu hạm Clémenceau và đã mở lại một vài trang sử của Hải Quân Pháp ở Đông Dương …
Khi đã quyết định theo ngành hội họa, Marcelino Trương vẽ truyện tranh phục vụ các nhà in và ngành báo chí. Thế rồi người nghệ sĩ gốc Việt này đi xa hơn nữa trên con nghệ thuật… Những mảnh gỗ, thân cây, …. ở tận những phương trời nào trôi dạt đến bãi biển Saint-Malo, dưới bàn tay của Marcelino Trương cũng trở thành một tác phẩm nghệ thuật, một món đồ trang trí trong nhà … Từ những bộ xương cá bạc màu, cho đến vỏ ốc, vỏ sò …, tất cả đều được Marcelino Trương kết hợp lại để chúng hóa thân thành một bức tượng sống động …
Thẳm sâu trong màu xanh nước biểnTrả lời RFI tiếng Việt nhân dịp sách mới của Marcelino Trương ra mắt độc giả, họa sĩ Pháp gốc Việt này trước hết giải thích về tựa cuốn sách của anh.
Marcelino Trương : « Nhờ Jeanne Phạm Trần, của nhà xuất bản Editions des Equateurs, bản thân cũng là một tác giả, mà tôi đã có cơ hội để soạn ra cuốn sách này. Chính Jeanne đã đề nghị tôi viết sách bởi chị nhận thấy là tôi rất năng động và có nhiều điều để kể trên Facebook. Tôi đăng lên nhiều chủ đề khác nhau trên trang mạng xã hội, và rất thường nhắc đến Việt Nam. Tôi rất hạnh phúc được có cơ hội viết cuốn sách này, bởi cho đến nay tôi chuyên chú phát hành truyện tranh cho thiếu nhi và một vài cuốn tiểu thuyết có tranh minh họa. Tôi tốt nghiệp đại học văn khoa và thấm nhuần truyền thống của gia đình. Tôi đã nhiều lần hoãn lại hoài bão viết sách, để tập trung vào hội họa, vì như chị biết, trong trường vẽ, tôi hoàn toàn tự học. Tựa cuốn sách tôi mới cho phát hành lấy nguồn cảm hứng từ bộ phim Le Grand Bleu (1988) của đạo diễn Luc Besson và câu nói nguyên thủy trong tác phẩm này là Si loin que le bleu (thẳm sâu như màu xanh nước biển) nhưng tôi đã mạn phép sửa một chút thành Si loin dans le bleu (Biển xanh sâu thẳm) ».
Những mẩu chuyện nhỏ trong gia đìnhTrong Biển xanh sâu thẳm, Marcelino Trương chia sẻ với độc giả rất nhiều những kỷ niệm trong gia đình từ hai dòng họ Trương Bửu bên nội và Horel bên ngoại, ví dụ như anh nói về căn bệnh trầm cảm của người mẹ Yvette khi bà hạ sinh đứa con thứ ba, hay cuộc đời ngắn ngủi của nhân vật mà trong sách Marcelino gọi là « hoàng tử Riri », (anh của mẹ, chết khi mới vừa lên 7 tuổi).
Về gốc gác dòng họ bên nội ở Việt Nam, Marcelino tiếc rằng anh không còn nhiều liên hệ, nhưng tình yêu với quê cha vẫn khắc sâu trong tâm khảm người nghệ sĩ này
Marcelino Trương: « Biển cả, bãi biển, bể bơi … là sợi chỉ đỏ mà chị Jeanne Phạm Trần của nhà xuất bản đã đề nghị với tôi. Đấy cũng là những chủ đề trở đi trở lại trong những bức họa của tôi từ 40 năm nay… và tôi quyết định nói về vị trí của biển, của bể bơi… trong cuộc sống của mình. Tuy nhiên, do không là thủy thủ và cũng chưa từng lăn lộn với biển cả, nên tôi gắn kết màu xanh nước biển với những câu chuyện trong gia đình của chúng tôi, với dòng lịch sử và đôi khi là với đời sống chính trị chung quanh. Trong cách phát âm của tiếng Pháp, chữ Biển (Mer) nghe không khác gì với chữ Mẹ (Mère), thành thử Biển là Biển Mẹ, nên tôi đã nhắc lại hình ảnh của Yvette, mẹ tôi. Sinh thời bà bị bệnh trầm cảm, tính tình đổi thay như sóng vỗ đại dương vậy ! ».
Hội An, một dấu ấn đặc biệtVũng Tàu, nơi dòng họ bên nội đến lập nghiệp, Nha Trang, Hội An, Saint Malo… Marcelino Trương thực sự gắn bó với biển cả … Và anh đặc biệt yêu thích Hội An :
Marcelino Trương : « Vâng, tôi rất thích những địa điểm gần bờ biển mà chị nói đến. Tôi đã hoàn toàn bị Hội An mê hoặc trong chuyến đi Việt Nam lần đầu vào năm 2002. Khi đó thành phố biển này chưa được biết đến nhiều như hiện nay. Ở đây chỉ mới có vài khách sạn, đếm được trên đầu ngón tay. Thả bước trên những con đường cổ dọc theo bờ kè, ta hiểu được ngay vì sao nhiều thế hệ du khách đã yêu say đắm Việt Nam. Tôi cũng đã hiểu được vì sao cha mình nói về tuổi thơ của ông với bao nhiêu hoài niệm. Thân phụ tôi là Trương Bửu Khánh (1927-2012), lớn lên ở vùng đồng bằng sông Mêkong (Tân An, Trà Vinh), rồi về sống ở Vũng Tàu, Sài Gòn. Thế rồi ông đi học ở Huế. Năm 1948 cha tôi sang Pháp du học và được nhận vào trường Sorbonne và Khoa Học Chính Trị Paris… Ông luôn kể cho chúng tôi nghe về đất nước Việt Nam như một ‘thiên đường đã mất’. Tôi rất yêu bờ biển và làng mạc chung quanh Hội An, và tôi cũng đã rất chú ý đến người Việt Nam. Tôi rất thích gặp những con người bình thường trong cuộc sống hàng ngày. Đó là những bác phu xích lô, những người chạy xe ôm, những người buôn bán ngoài chợ, hay họ là nhân viên lễ tân khách sạn … Tiếng Việt của tôi quá kém để có thể trao đổi với họ, nhưng tôi thán phục những con người can đảm và hiếu học… Chúng tôi đã cười rất nhiều mỗi lần tôi nói sai hay bỏ dấu sai trong tiếng Việt ».
Lịch sử và dòng đờiMột điều thú vị khác là cuốn Biển xanh sâu thẳm phản ánh thời cuộc, những thăng trầm trong lịch sử Việt Nam trước và sau 1975, phản ánh cuộc sống trên đất Pháp sau Thế Chiến Thứ Hai … Trả lời RFI Việt ngữ, Marcelino Trương rất tiếc là anh không còn giữ được ngôn ngữ của người cha thân yêu, nhưng anh đã muốn kể lại một chút câu chuyện của gia đình bằng tiếng Việt và xin lỗi trước là « nói không rành »
Marcelino Trương : « Tôi có thể chia sẻ với các bạn nghe đài câu chuyện của gia đình, một gia đình nhỏ bé bị cuốn trong dòng lịch sử. Chuyện cũng hơi buồn như đối với nhiều gia đình khác trong chiến tranh Việt Nam. Thế hệ cha và chú tôi muốn được sống trong một đất nước độc lập. Có những người chọn đi theo cách mạng, một số khác đứng về phe chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Bà Nội tôi là Tạ Huỳnh Lan, trong gia đình Tạ Trung quê ở Trà Vinh, có một người cháu tham gia Việt Minh năm 1948. Khi ra đi, ông để lại vợ và bốn người con. Năm 1954, ông tập kết ra bắc, sống ở Hà Nội mười năm trước khi được lệnh trở lại miền Nam, đi theo đường mòn Hồ Chí Minh. Khi đó chiến tranh lên đến cao trào. Năm 1975, người cháu này trong gia đình cùng với quân đội giải phóng trở lại Trà Vinh và chỉ khi đó ông mới gặp lại được vợ con sau gần 30 năm. Thế rồi một vài năm sau ngày Giải Phóng, con gái lớn của ông vượt biên ra nước ngoài, và định cư hẳn ở Montréal, Canada. Gia cảnh này cũng như biết bao nhiêu gia đình khác.
Tại sao tôi lại kể lại chuyện này ? Bởi tôi muốn phương Tây hiểu được rằng, mọi chuyện không đơn giản trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Tất cả không hoàn toàn là « Trắng » hay « Đen ». Đấy không đơn giản là một cuộc xung đột giữa bên thiện và bên ác. Thực tế không đơn giản như vậy. Tôi cũng muốn xin được nói thêm rằng, bất chấp những khác biệt về chính trị đó, các thành viên trong đại gia đình của chúng tôi vẫn cố gắng gắn kết với nhau. Mọi người đã vượt lên trên ranh giới về chính trị, về ý thức hệ đó. Cha tôi thường nói đây trước hết là công lao rất lớn của những người phụ nữ trong gia đình chúng tôi : họ cố gắng rất nhiều để yếu tố chính trị không chia rẽ anh em ruột thị. Đây có thể là điều khiến chúng ta phải suy nghĩ ».
Cuốn sách của Marcelino có thể được đọc như một cuốn truyện tranh, như một cuốn tự truyện với nhiều dấu mốc lịch sử, nhưng có lẽ đây trước hết là một cuốn sách rất đẹp mắt, giới thiệu những thành phố biển mà anh đã đi qua. Chẳng vậy mà trên kệ sách của hệ thống phát hành FNAC tại Pháp, Biển xanh sâu thẳm từ Sài Gòn đến Saint-Malo được xếp ở hạng mục sách du lịch.
Ra đời cách đây hơn nửa thế kỷ, nhạc phẩm "The Last Waltz" (Điệu valse cuối cùng) tính đến nay đã có khá nhiều phiên bản ghi âm trong 12 thứ tiếng, kể cả ba lời khác nhau trong tiếng Việt. Tuy đã có nhiều bài viết về giai điệu này, nhưng dường như chưa có ngòi bút phê bình nào đề cập đến hoàn cảnh sáng tác bản nhạc "The Last Waltz" (Điệu valse cuối cùng). Đây là dịp để cho Góc vườn âm nhạc RFI trở lại với chủ đề này.
Được phát hành lần đầu tiên vào năm 1967, "The Last Waltz" (Điệu valse cuối cùng) là một trong những bản nhạc ăn khách nhất của ca sĩ người Anh gốc Ấn Engelbert Humperdinck. Riêng trên thị trường Anh quốc, bài hát đã lập kỷ lục với gần một triệu rưỡi đĩa nhựa, được bán chạy trong vòng hai tháng. Tại các vũ trường hay các câu lạc bộ khiêu vũ, "The Last Waltz" (Điệu valse cuối cùng) cũng thường được chọn làm bài hát kết thúc những đêm dạ vũ cuối tuần trong nhiều thập niên liền.
Trong nguyên tác, bản nhạc tiếng Anh do hai nhạc sĩ Les Reed và Barry Mason đồng sáng tác. Cặp bài trùng này là một trong những nhóm tác giả hàng đầu ngự trị vương quốc Anh trong suốt những năm 1960. Trong giai đoạn cực thịnh, hai tác giả chuyên soạn một loạt bài hát ăn khách cho những tên tuổi sáng giá thời bấy giờ như Tom Jones (Delilah), Rod Stewart (The day will come) hay nhóm The Fortunes (Here it comes again) …..
Tựa đề bản nhạc "The Last Waltz" (Điệu valse cuối cùng) gồm cả hai nghĩa : lần đầu tiên khi đôi tình nhân vừa gặp nhau trên điệu nhảy bế mạc đêm dạ vũ. Đến khi phải chia tay nhau, họ lại được dịp dìu nhau một lần nữa cũng trên điệu nhảy này. Nhịp valse cuối cùng cũng là hồi kết của một chuyện tình, khi yêu thương đã nhạt phai, cho con tim một mình ở lại.
Về hoàn cảnh sáng tác, tác giả Les Reed (1939-2019) (tên thật là Leslie Reed) từng kể lại câu chuyện về nhạc phẩm này trong quyển sách ''1000 UK #1 Hits'' (Một ngàn ca khúc Anh số 1) của hai tác giả Jon Kutner và Spencer Leigh. Ông Leslie Reed cho biết : thời Đệ nhị thế chiến, lúc ấy ông còn nhỏ, bố ông đi lính trong nhiều năm, lâu lâu mới có dịp về thăm nhà. Trong gia đình, mẹ ông cùng với các bà dì, thường rủ nhau đi khiêu vũ vào mỗi chiều tối thứ Sáu, tại nhà văn hóa địa phương.
Thời bấy giờ, bài hát luôn kết thúc đêm dạ vũ chính là điệu valse mang tựa đề ''I'm Taking You Home Tonight'' (Đêm nay, anh đưa em về). Thế nhưng, trong đêm dạ vũ, chỉ có phụ nữ cùng nhảy cặp với nhau mà thôi, vì lúc ấy hầu hết các thanh niên trai tráng đều đang thi hành nghĩa vụ quân sự. Và khi Leslie cũng như những đứa bé khác nghe tiếng nhạc trỗi lên, các em đều biết rằng đây là điệu valse cuối cùng, các bà mẹ sắp trở về để lo cho con bữa ăn tối, thường là chỉ khoảng mười phút sau đó.
Khi Leslie Reed kể lại giai thoại này cho bạn của ông là nhạc sĩ Barry Mason (1939-2021), hai người mới tự nhủ tại sao họ lại không viết một bài hát nói về điệu valse cuối cùng. Leslie Reed chịu nhiều ảnh hưởng của Burt Bacharach lúc bấy giờ, trong cách dùng hợp âm tinh tế diệu vợi, giai điệu yêu đời lung linh lấp lánh như pha lê trong ánh nắng sáng ngời.
Thế nhưng thập niên 1960 mà viết về những kỷ niệm thời chiến không phải là chuyện dễ dàng, cho nên Barry Mason khi đặt lời cho bài hát đã kể lại một câu chyện phổ quát hơn. Nhiều năm sau đó, "The Last Waltz" (Điệu valse cuối cùng) thay thế hẳn cho bản nhạc ''I'm Taking You Home Tonight'' (Đêm nay, anh đưa em về), cho tới khi các đêm nhảy tại các vũ trường không còn thịnh hành.
Sau khi đoạt ngôi vị quán quân thị trường Anh, bản nhạc "The Last Waltz" (Điệu valse cuối cùng) đã có nhiều phiên bản phóng tác. Trong tiếng Pháp, tác giả Hubert Ithier chuyển bài này thành nhạc phẩm "La Dernière Valse", từng được nhiều ca sĩ tên tuổi ghi âm, trong đó có Mireille Mathieu (1967), Petula Clark, Tino Rossi, Lucky Blondo hay Ginette Reno (1969). Gần đây hơn có phiên bản hòa âm mộc của Brigitte Marchand và Lisa Ono.
Trong tiếng Việt, giai điệu "The Last Waltz" có ít nhất ba lời khác nhau. Bài thứ nhất do nhạc sĩ Trường Kỳ đặt lời tiếng Việt thành "Bài luân vũ mùa mưa", từng được ca sĩ Tuấn Dũng trình bày lần đầu tiên (trước năm 1975) và sau đó được nhiều ca sĩ hải ngoại như Ngọc Lan, Thanh Lan, Elvis Phương, Tuấn Ngọc, Duy Quang ghi âm lại : Kìa trông trời mang mùa mưa đến bên ta rồi / Từng cơn từng cơn sầu hắt hiu nhẹ rơi / Trời mưa chiều nay buồn rơi buồn rơi khắp nơi xa vời / Giọt mưa tưởng đâu là mắt em lệ rơi …
Phiên bản lời Việt thứ nhì ''Khúc luân vũ cuối cùng'' qua phần ghi âm của Don Hồ có lời khác biệt đôi chút : Bao ngày vui thần tiên đến cho đôi mình / Vui tình xanh mình mơ mãi không rời xa / Ngờ đâu tình phai nhạt mau trách ai bây giờ / Đành xa lìa nhau từ đây tiếng gieo buồn đau …
Lời Việt thứ ba của ''The Last Waltz'' có tựa đề là ''Bài luân vũ cuối cùng'' là của tác giả Nguyễn Hoàng Đô, qua phần trình bày của nhiều ca sĩ khác nhau, giọng nữ có Quỳnh Dao và Hồng Nhiên, giọng nam có Thụy Long : Chiều nay chợt nghe từ xa, tiếng ca êm đềm / Bài luân vũ xưa chìm đắm trong cơn mộng mê / Còn ai dìu nhau nhịp chân lả lơi, mắt trao duyên đầu / Bài luân vũ cuối cùng nhắc ta chuyện xưa …
Những kỷ niệm thời thơ ấu tưởng chừng đã quên nào ngờ con tim lại nhớ mãi. Trong nhạc phẩm "The Last Waltz" (Điệu valse cuối cùng), cái tài của cặp bài trùng Les Reed/Bary Mason là biến một kỷ niệm riêng tư (chỉ có người trong cuộc mới biết) thành một câu chuyện phổ quát (mọi người có thể hiểu). Gọi là cuối cùng nhưng điệu valse lướt mãi không ngừng, trên nhịp thời gian, cho dù sớm đến vội tàn, nào ngờ tình hợp rồi tan.
Lấy những kiến trúc cổ của Paris làm sân khấu, biến hai bờ kè sông Seine và những cây cầu của thành phố tráng lệ bậc nhất thế giới thành sân vận động với hơn 300.000 khán giả: Lần đầu tiên trong lịch sử thể thao Olympic, lễ khai mạc được tổ chức trên sông.
Một số công trình tiêu biểu nhất của Pháp trải dài trên 6km dọc theo sông Seine trong buổi lễ khai mạc Pháp là lời mở đầu chào đón gần 10.000 vận động viên đại diện cho 206 phái đoàn quốc tế và trên một tỷ khán giả toàn cầu qua truyền hình, đến với Thế Vận Hội Paris 2024.
Lời tỏ tình của Paris với các vận động viên toàn cầuĐể vinh danh sự kiện thể thao diễn ra 4 năm một lần, Paris phá lệ, không thu mình trong sân vận động vào giờ khai mạc, mà đưa thế giới thể thao đến tận giữa lòng thành phố. Khác với những lễ khai mạc trước đây, lần đầu tiên chương trình mở ra và khép lại với các vận động viên. Trên lộ trình 6 km, với cây cầu Austerlitz ở phía đông thủ đô là điểm khởi hành, 7.500 vận động viên quốc tế thả bước trên hơn 90 con tàu dọc theo sông Seine … Theo truyền thống, phái đoàn Hy Lạp mở đầu đoàn diễu hành và Pháp, trong cương vị chủ nhà, khép lại cuộc tuần hành.
Với tốc độ trung bình 8 km/giờ, trong vòng 40 phút, tất cả các phái đoàn lần lượt đi qua những công trình nổi tiếng nhất của Kinh Đô Ánh Sáng : từ nhà thờ Notre Dame de Paris, đến bảo tàng Louvre, quảng trường Concorde, điện Grand Palais, điện Invalides … Chuyến du thuyền kết thúc ở cầu Iéna, phía tây thủ đô Paris, ngay dưới chân biểu tượng của nước Pháp là tháp Eiffel.
Trong mắt nữ vận động viên điền kinh Pháp Marie José Pérec, 3 lần đoạt huy chương vàng Olympic và từng được vinh dự dẫn đầu phái đoàn Pháp tại Thế Vận Hội Atlanta năm 1996, chưa một nơi nào, chưa một buổi lễ khai mạc nào dành cho các vận động viên những ưu ái như Paris năm nay. Marie José, được mời quan sát lộ trình buổi lễ hôm nay, chia sẻ cảm nghĩ :
« Thật thú vị không kém gì lúc tôi đoạt huy chương vàng. Tất cả hoàn toàn ngoài sự tưởng tượng của tôi. Tuyệt đẹp và quá hoành tráng … Khi được vinh dự rước cờ ở Thế Vận Hội Atlanta, tôi vui sướng và tràn ngập hạnh phúc… Nhưng giờ phút ấy qua mau. Chúng tôi chỉ được rước cờ 1 vòng quanh sân vận động. Lần này, tại Paris cả thế giới hướng nhìn về các vận động viên khi họ tuần hành trên sông trong vòng 40 phút, từ cầu Austerlitz đến cầu Iéna dưới chân tháp Eiffel … Đây là món quà đẹp nhất, ý nghĩa nhất mà chúng ta có thể tặng cho các nhà thể thao ».
Chủ tịch Ủy Ban Olympic Paris 2024, Tony Estanguet, nguyên là vận động viên và vô địch Thế Vận Hội ở môn chèo thuyền, chia sẻ thêm :
« Là một vận động viên, tôi đã từng dự nhiều kỳ Thế Vận Hội, và tôi biết lễ khai mạc là một thời khắc khó quên, một thời điểm rất đặc biệt. Đây là lần đầu tiên, một con sông thay thế cho sân vận động, lần đầu tiên lễ khai mạc được tổ chức trên sông, mà đấy lại là sông Seine… Chắc hẳn các vận động viên đều muốn thời gian trôi chậm lại để được hưởng thụ lâu hơn một chút toàn cảnh và không khí lễ hội của Paris … »
« Paris est une fête »Một đặc điểm khác của Paris 2024 là lần đầu tiên ban tổ chức cố ý xen kẽ các màn trình diễn nghệ thuật vào giữa cuộc tuần hành của 206 phái đoàn quốc tế. Nước chủ nhà muốn kể lại với thế giới những gì đã đưa Paris đi vào lòng người, để Paris được mệnh danh là Kinh Đô Ánh Sáng, để thủ đô nước Pháp trở thành điểm hẹn và là nguồn sáng tác của biết bao nhiêu thế hệ văn nghệ sĩ từ 5 châu, thậm chí đã có những người vĩnh viễn chọn Paris là nhà …
Giám đốc nghệ thuật Thomas Jolly, người đem những ý tưởng và phối hợp dàn dựng toàn bộ chương trình khai mạc tối nay, khi được mời tham gia đã rất hào hứng :
« Lần đầu tiên lễ khai mạc diễn ra ở bên ngoài sân vận động, với phông nền là toàn cảnh của một thành phố tráng lệ như Paris. Đây là một ý tưởng rất độc đáo của ban tổ chức. Đối với tôi, về phương diện nghệ thuật, thì đây là quang cảnh đẹp nhất thế giới ! Sân khấu của chúng ta là dòng sông Seine trữ tình. Tôi thật là may mắn được sáng tạo trên một phông nền tuyệt vời như vậy. Điều thú vị ở đây là khi mà chúng ta lấy toàn cảnh sông Seine làm nền cho buổi lễ, mỗi công trình kiến trúc của thành phố đều nói lên bề dầy lịch sử của Pháp, của Paris … Bản sắc của Pháp, những gì tiêu biểu của Paris đã có sẵn ngay tại nơi này… Paris là thành phố của sự hòa đồng trong cuộc sống, một thành phố đã lớn mạnh nhờ những gì du nhập từ bên ngoài cũng đã có ảnh hưởng với phần còn lại của thế giới ».
Sông Seine và kiến trúc Paris là sân khấuLà một tên tuổi lớn trong làng kịch nghệ sân khấu, Thomas Jolly đã tận dụng tối đa những không gian của thủ đô Paris - trên sông, trên cạn và trên bầu trời Paris để sáng tác. Cùng với các cộng tác viên trong ban tổ chức, Thomas Jolly huy động 400 vũ công, 3.000 nghệ sĩ sân khấu, cho sự kiện này. Hàng ngàn diễn viên sân khấu sẽ ẩn hiện đâu đó trên thuyền, trên 14 cây cầu nổi tiếng Paris, hay bất ngờ xuất hiện từ nóc nhà hát Opéra … Vẫn Thomas Jolly, trả lời báo chí, nói rõ hơn về ý tưởng anh gửi gắm vào chương trình khai mạc Paris 2024 :
« Chúng ta chờ đợi một chương trình hoành tránh, diễn ra trong khoảng 3 tiếng 45 phút, đan xen những màn các vận động viên diễu hành, với những bức tranh mang tính nghệ thuật, và kèm theo đó là những nghi lễ của một buổi khai mạc Thế Vận Hội. Đây sẽ mà một ngày hội lớn để vinh danh nhân loại, vinh danh chúng ta. Hai chữ chúng ta ở đây phải hiểu theo nghĩa bản chất của mỗi chúng ta ở góc trời Paris này, ở trên đất Pháp và ở khắp mọi nơi trên toàn cầu. Lễ khai mạc Olympic là dịp để vinh danh mối liên hệ giữa Paris, giữa Pháp với thế giới và lúc mà cả thế giới đang đến với Paris và cùng nhìn về Paris ».
Trả lời báo chí quốc tế, giám đốc nghệ thuật chương trình lễ khai mạc Paris 2024 phát biểu bằng ngôn ngữ của Hemingway (nhà văn Mỹ Erneste Hemingway là tác giả cuốn Paris est une fête/A Mouveable Feast/ Hội hè miên man), thực sự nóng lóng giới thiệu với thế giới về « thành phố tình yêu » :
« Chúng tôi đã chuẩn bị trong hơn hai năm cho sự kiện này, và tôi rất nôn nóng được chia sẻ thành quả công việc của mình với thế giới. Tôi không được phép tiết lộ về những người tham dự, nhưng chương trình đêm khai mạc sẽ rất tuyệt vời với rất nhiều nhân vật danh tiếng, gắn bó với Paris, có những gì để kể về thành phố này… Đây là hình ảnh của nước Pháp của một thành phố ngày hôm nay. Đây là nơi tất cả mọi người đều có quyền được sống, được yêu và được là chính mình … »
Dành cho khán giả sự bất ngờ, như vừa nói, ban tổ chức cố gắng giữ kín những thông tin về chương trình đêm nay. Thí dụ như đến giờ phút này, mọi người vẫn mới chỉ phỏng đoán là đài lửa Olympic Paris sẽ ngự trong khu vườn Tuileries nằm giữa quảng trường Concorde và bảo tàng Louvre. Nhưng chưa biết gương mặt nào trong làng thể thao của Pháp sẽ có vinh dự thắp sáng đài lửa Paris 2024… Chỉ biết rằng, trong ngày hôm nay, 30 nhân vật trên thế giới sẽ truyền tay nhau ngọn đuốc Olympic và trong số này sẽ có ba ngôi sao trong làng giải trí Hoa Kỳ : Snoop Dogg, Bradley Cooper và Pharrell Williams.
Một bí mật được giữ kín khác liên quan đến danh sách các nghệ sĩ được mời biểu diễn trên sân khấu Paris đêm nay. Có nhiều khả năng, đó là các diva trong làng nhạc quốc tế như Lady Gaga, Céline Dion hay ca sĩ hai dòng máu Pháp và Mali, Aya Nakamura …
Lịch sử và con ngườiTheo thông lệ, lễ khai mạc luôn là dịp để nước chủ nhà giới thiệu với thế giới về mình qua một « bộ phim không lời ». Sử gia Patrick Boucheron, một trong những chuyên gia được mời cố vấn cho chương trình, ghi nhận Paris 2024 tránh lên giọng dạy đời như ở Bắc Kinh 2008, khi mà ban tổ chức Trung Quốc phô trương với thế giới những trang sử oai hùng, đề cao lòng yêu nước của cả một dân tộc…
Người Pháp vốn đã bị chê là « quá tự tin », « ngạo mạn », nên ban tổ chức thiên về ý tưởng Thế Vận Hội lần này là dịp để nói với bạn bè 5 châu rằng Paris có thể trở « Kinh Đô Ánh Sáng » cũng là nhờ du nhập và học hỏi nhiều ở những nền văn hóa từ các nước bạn chung quanh… Chính tinh thần cởi mở và sự hòa đồng ấy là nhựa sống của Paris. Từ xưa đến nay, trong nhãn quan của không ít người trên thế giới, Pháp nói chung, Paris nói riêng luôn là biểu tượng của những « hứa hẹn tự do », nơi mọi người có thể chung sống hài hòa.
Một sự điên rồViệc tổ chức lễ khai mạc Thế Vận Hội trong thành phố và hoàn toàn ngoài khuôn viên một sân vận động là « một sự điên rồ », một bài toán táo bạo đã đặt ra 1001 thách thức, cả về kỹ thuật và an ninh đối với nước chủ nhà. Một câu hỏi đơn giản là đêm nay trong hơn 3 giờ đồng hồ lễ hội, trời Paris có mưa hay không. Hiện cơ quan khí tượng quốc gia báo trước một đêm mưa. Ban tổ chức sẽ phải thích nghi với tình huống khi biết rằng « lễ hội Paris 2024 » thành công hay không, một phần lớn sẽ tùy thuộc vào sức gió, vào ánh sáng tự nhiên của những buổi hoàng hôn, khi trời chạng vạng ngả màu tím …
Thêm vào đó, khi mượn dòng sông Seine làm nền, làm sân chơi cho các vận động viên quốc tế, thì ban tổ chức phải chấp nhận một điều hiển nhiên : Sông Seine hiền hòa nhưng bướng bỉnh và có những luật chơi riêng.
Sylfried Cartier và Yves Dalboeuf, hai thuyền trưởng giàu kinh nghiệm lái tàu trên sông Seine, lo rằng mưa nhiều, mực nước sông dâng cao, tàu sẽ khó đi qua một số gầm cầu trên lộ trình 6 cây số của sông Seine. Dù đã thuộc nằm lòng từng khúc sông, nhưng cả hai vẫn trong tình trạng đề cao cảnh giác tối đa với con sông nổi tiếng nhất của nước Pháp. Một nỗi băn khoăn khác của cả hai viên thuyền trưởng là không dễ để phối hợp nhịp nhàng cả một độ tầu trên dưới 90 chiếc nối đuôi nhau tuần hành trên sông không. Họ đã tập dợt không biết bao nhiêu lần trước chuyến khởi hành đêm nay. Dù vậy, cả Sylfird và Yves cùng xem trọng trách chở phái đoàn Pháp là vinh hạnh lớn nhất và đáng ghi nhớ nhất trong sự nghiệp :
« Chúng tôi rất hân hạnh được chở đoàn 600 vận động viên Pháp. Tôi đã phục vụ 39 năm và trước khi về hưu được tham dự lễ khai mạc Thế Vận Hội là một vinh hạnh rất lớn, một khoảnh khắc đầy xúc động ».
An ninh, một bài toán đau đầuBảo đảm an ninh cho hơn 90 con thuyền trên sông, cho khán giả dọc theo hai bờ kè cũng là một mối đau đầu rất lớn đối với ban tổ chức. Để chuẩn bị cho sự kiện đêm nay, Pháp phải huy động đến quân đội và đã có một sự chuẩn bị kỹ càng, như giải thích của trung tá Olivier thuộc trung đoàn đóng tại Ivry Charenton :
« Chúng tôi có cách tiếp cận đa chiều các mối đe dọa, có nghĩa là xem xét mọi khả năng mối đe dọa đó có thể xuất hiện từ dưới lòng sông, trên mặt đất và trên không. Do vậy, chúng tôi sử dụng sonar để quan sát lòng sông. Chúng tôi huy động cả các rào cản trên mặt nước và trên bộ nhằm ngăn cản mọi mục tiêu xâm nhập vào các khu vực an ninh. Sau cùng, chúng tôi hợp tác rất chặt chẽ với lực lượng Không quân, chủ yếu để phát hiện drone trong khu vực diễn ra sự kiện ».
Trong thời bình, chưa bao giờ Paris đóng cửa không phận trong 6 giờ đồng hồ liên tiếp như hôm nay để bảo đảm an ninh cho lễ khai mạc Thế Vận Hội.
Sau hơn 7 năm chuẩn bị, Ủy Ban Thế Vận Hội Paris bắt buộc phải thành công trong buổi lễ đêm nay, để « Paris là một ngày lễ hội ». Dù đã phải vượt qua không biết bao nhiêu thử thách, có lẽ một trong những hình ảnh Olympic Paris 2024 muốn nhắn gửi lần này, đó là, với tinh thần đồng đội và tập thể, khó khăn nào cũng có thể vượt qua …
Không thể tách rời ý nghĩa những tác phẩm của Kafka ra khỏi mảnh đất chúng sinh sôi nẩy nở. Cũng không thể « đọc » Kafka mà quên đi chúng ta đang đứng ở đâu, tại những điểm nhìn nào. Vì vậy, phải trở ngược về đầu thế kỷ 20, quãng thời gian đã được nhà sử học Eric J.Hobsbawm mệnh danh là kỷ nguyên của những Đại Họa.
Kafka sinh trưởng trong một gia đình gốc Do Thái, tại Praha, thủ đô Tiệp ngày nay, thuộc đế chế Áo Hung lúc đó. Nhưng ông được đào tạo tại những ngôi trường Đức, ông tiếp thu văn hóa Đức và sáng tác bằng tiếng Đức. Như vậy, Kafka mang trong mình sự cộng hưởng của ba nền văn hóa : Văn hóa Do Thái, văn hóa Tiệp và văn hóa Đức. Sau này, giá trị tinh thần của sự nghiệp Kafka trở thành một di sản được cả ba nền văn hóa này khẳng định sở hữu và tranh giành bản quyền, hay ít nhất là đòi áp đặt một cách diễn giải riêng. Có lẽ, ảnh hưởng của ba nền văn hóa này vừa là chìa khóa của các tác phẩm, vừa là nguyên nhân gây xung đột trong tâm thức nhà văn.
Do đó, trước khi xem xét các cách tiếp cận, cách « đọc » Kafka, thiết tưởng nên tìm hiểu tiểu sử độc đáo của một nhà văn bị giằng co giữa nhiều « bản sắc », mà hơn nữa, vào thời điểm tài năng chín mùi, đứng ở vị trí bản lề lịch sử của châu Âu giữa thế kỷ 19 hòa bình và thế kỷ 20 kinh thiên động địa.
Kafka, đứa trẻ của chính sách đồng hóa người Do Thái
Kafka sinh năm 1883 trong một gia đình gốc Do Thái đã bắt đầu được đồng hóa. Lúc trẻ, Kafka không mấy quan tâm đến gốc rễ Do Thái của mình, cho dù gia đình ông vẫn vào đền tham dự các buổi lễ quan trọng của Do Thái giáo. Nhưng, theo đa số các nhà nghiên cứu Do Thái hiện nay, Kafka càng trưởng thành càng cảm thấy mình lạc loài, như người mất gốc, mất lai lịch.
Phải nói thêm, cho dù người Do Thái đã di dân sang châu Âu từ ngàn năm trưóc, nhưng trong đế chế Áo - Hung, phải đợi đến 1848, tức là 35 năm trước khi Franz Kafka ra đời, cộng đồng người Do Thái mới được công nhận quyền bình đẳng. Trước 1848, người Do Thái bị đàn áp, khống chế rất dã man. Ví dụ điển hình là chẳng những họ bị đẩy ra sống ở ngoài lề xã hội, mà hơn vậy nữa, nhà chức trách giới hạn gắt gao việc tăng trưởng dân số người Do Thái với đạo luật : Chỉ có con trai đầu lòng của gia đình người Do Thái được quyền kết hôn và lập gia đình. Điểm quan trọng ở đây là Kafka đại diện cho thế hệ thứ hai, kể từ khi người Do Thái được đồng hóa, trong khi ông cụ nội của Kafka còn phải bị lưu đầy, suýt không được quyền lập gia đình, nếu sự kiện 1848 không diễn ra. Hoàn cảnh này cũng đáng lưu ý trong sự hình thành của tâm thức Kafka. Gốc gác này còn hiển hiện trong Nhật ký của Kafka. Năm 1911, ông viết : « Tôi tên là Amschel trong tiếng Hebreu (Do Thái) như ông cụ nội của mẹ tôi ».
Praha vào đầu thế kỷ 20 cũng là một thủ đô đa sắc tộc với ba cộng đồng chung sống tại đây. Đông nhất là người Tiệp, cư dân Đức thì giàu có và thiểu số người Do Thái. Nhưng tiếng Đức là ngôn ngữ chính thống của đế chế Áo - Hung. Bởi vậy, người Do Thái Praha thuộc thành phần khá giả, như gia đình Kafka, cho con học tiếng Đức hầu thăng tiến trong xã hội.
Tuy nhiên, sự kỳ thị, bài xích người Do Thái vẫn tiềm ẩn trong các xã hội Âu châu đương thời. Lâu lâu lại nổi lên các tin đồn là dân Do Thái giết người để tế lễ. Vì vậy, tại Praha, năm 1901, diễn ra nhiều cuộc biểu tình ầm ĩ chống Do Thái, hay tại Pháp, nổ ra vụ án Dreyfuss cuối thế kỷ 19. Phải đợi đến đầu thế kỷ 20, năm 1906, sĩ quan này mới được phục hồi tại Pháp.
Một dấu hiệu khác cần quan tâm là Kafka về cuối đời, nảy sinh ý định di tản sang Palestine, nơi người Do Thái xem là quê hương lịch sử của mình. Tất cả những người bạn của Kafka đều mang gốc gác Do Thái, như Max Brod. Sau này, Max Brod đã định cư tạ Palestine và viết lời đề bạt cho những tác phẩm của Kafka. Theo người đã được Kafka ủy thác thực hiện di chúc, đồng thời là người bạn tâm giao, hiểu biết cặn kẽ nhất về Kafka, đã cùng với Kafka chu du Âu châu, thậm chí dẫn dắt nhau vào các nhà thổ hưởng lạc, thì «Vụ Án» và «Lâu Đài» là hai tác phẩm anh em sinh đôi. «Vụ Án» là hành trình đi tìm công lý, trong khi «Lâu Đài» là biểu tượng của «Phúc Phận», biểu tượng của «Ân Huệ», tiếng Pháp : La Grâce). Đó là hai khái niệm thần học của Do Thái giáo mà theo sách thánh Kabbale, cho phép con người cảm nhận được sự hiện diện của Thượng Đế.
Mê cung của lịch sử
Bên cạnh ý nghĩa mang tính tâm linh vừa kể, tiểu thuyết và cả truyện ngắn của Kafka nữa hàm chứa rất nhiều ẩn dụ. Đó là những văn bản đa nghĩa – textes polysémiques – thúc đẩy các thế hệ độc giả bốn phương đi tìm lời giải.
Nhưng quan trọng không kém là khung cảnh lịch sử đầu thế kỷ 20 và đặc biệt là 20 năm đầu tiên, thời gian Kafka cầm bút trước khi qua đời năm 1924. Trong giai đoạn này, điều chưa từng thấy tại châu Âu là đại họa Thế Chiến. Đây là khái niệm chiến tranh toàn diện giữa các cường quốc như Nga, Pháp, Áo – Hung, Phổ, Ý và Anh Quốc. Bởi vậy, theo tất cả những chứng từ còn lưu lại từ ấy cho đến nay, con ngưòi Tây phương vào thời điểm đó có cảm giác lâm vào một mê cung thăm thẳm, trong khi cùng lúc sụp đổ tan tành ba đế chế vĩ đại : Đế chế Nga, đế chế Áo – Hung và đế chế Ottoman, tức Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Vienna, thủ đô Áo – Hung, nhà văn Karl Kraus xuất bản quyển sách dài tựa đề : «Những ngày cuối cùng của loài người». Còn ngoại trưởng Anh, ông Edward Grey, vào lúc mà nước ông và Đức tham chiến, đã thốt rằng : «Các ngọn đèn đã chợt tắt trên toàn lục địa châu Âu. Chúng ta sẽ không thấy đèn bật sáng trở lại trước khi chúng ta nhắm mắt». Điều này cần nhấn mạnh. Đặc điểm chung của thế hệ trưởng thành những năm đệ nhất Thế Chiến, đó là họ đều linh cảm ít nhiều thế giới thân quen, gần gũi của họ một sớm mai đã tan vỡ, nhường chỗ cho bạo lực ở một chiều kích chưa từng thấy, báo hiệu những cuộc tàn sát tập thể dã man, phản nhân văn. Phải chăng nên nhắc lại ở đây những người đương thời không thể tin vào những điều họ nhìn thấy trước mắt và họ sẽ chứng kiến trong suốt nửa thế kỷ : 10 triệu người bỏ mạng trong cuộc chiến 1914 – 1919 và ít nhất là 54 triệu người chết trong cuộc chiến 20 năm sau đó. Còn bao nhiêu trăm triệu người lưu lạc trên toàn thế giới ?
Loài người tất nhiên đã sống sót sau Đại Họa. Thế nhưng, từ lúc đó, các nhà trí thức châu Âu phỏng đoán toà kiến trúc kiên cố bảo vệ hòa bình của thế kỷ qua đã bị triệt hạ trong khói lửa. Sự an toàn không còn nữa trên thế giới này. Ở điểm này, Kafka hơn cả Joyce hay Proust, đã ghi chép lại cái không khí lo âu, sợ hãi bao trùm, sự mất mát nhân tính và những nẻo đường vô vọng của con người đi tìm sự cứu chuộc, điều sẽ diễn ra từ đệ nhất đến đệ nhị Thế Chiến, khiến cho sau này, ông được nhiều thế hệ tôn làm bậc thầy, vị tiên tri, cười ra nước mắt, báo hiệu con người sẽ không tài nào giải mã nổi thân phận chính mình.
Nhà văn Milan Kundera đánh giá : «Với Kafka, tiểu thuyết không còn là điều tự bạch của tác giả. Tiểu thuyết là cơ hội thăm dò ý nghĩa cuộc sống, khi thế giới đã trở thành một cái bẫy giam hãm con người».
(Tạp chí đăng lần đầu ngày 19/09/2008)
The podcast currently has 230 episodes available.
8 Listeners
0 Listeners
7 Listeners
0 Listeners
4 Listeners