
Sign up to save your podcasts
Or
Cùng với chiếc máy ảnh Leica M3, Marc Riboud, nhiếp ảnh gia người Pháp qua đời năm 2016, trong vòng mười năm 1966 – 1976, lang thang từ Nam ra Bắc ở Việt Nam. Những bài phóng sự và những bức ảnh ông thực hiện, được đăng trên những trang báo quốc tế có uy tín (Le Monde, Paris Match hay Life), cho đến giờ vẫn được xem như là những bằng chứng độc đáo, sâu sắc về một trong những cuộc chiến tàn khốc nhất của thế kỷ XX.
Ngày 12/05/2025 đã chính thức khép lại hơn hai tháng triển lãm tập ảnh phóng sự « Marc Riboud, Việt Nam 1966-1976 » do bảo tàng Guimet, Paris và Hội Những Người Bạn Của Marc Riboud đồng tổ chức. Cuộc triển lãm này diễn ra vào lúc 2025 đánh dấu đúng 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. Bộ tập ảnh chiến tranh Việt Nam là một phần trong toàn bộ di sản ảnh ông để lại cho viện bảo tàng Guimet sau khi mất.
Những câu chuyện kể qua ảnhĐối với nhiều người đến thưởng thức ảnh, đó còn là câu chuyện đau thương về một cuộc xung đột được Marc Riboud kể lại theo một cách độc đáo. Những bức ảnh trắng đen của ông đưa người xem đi từ Mỹ đến Việt Nam ở cả hai phía vĩ tuyến 17. Khác nhiều đồng nghiệp cùng thời, câu chuyện chiến tranh Việt Nam của ông xa nơi chiến tuyến, không cảnh chết chóc, không màn giao tranh.
Marc Riboud, trong nhiều chuyến vào Nam ra Bắc, đã chọn tập trung ống kính vào một dân tộc Việt Nam, bằng một « tinh thần không gì lay chuyển với những phương tiện yếu kém đối mặt với một siêu cường hùng mạnh nhất thời đại ». Trên trang mạng tạp chí Fisheye, Lorène Durret, đồng phụ trách triển lãm « Marc Riboud, Việt Nam 1966 – 1976 » cho rằng « ông đã tiết lộ với thế giới bộ mặt con người kẻ thù lớn nhất của nước Mỹ ».
Ông phơi bày gương mặt của kẻ vô danh : Những thiếu nữ trong độ tuổi thanh xuân hăng say lao động sản xuất, người vợ góa một sĩ quan miền Nam khóc thương mất chồng, những đứa trẻ chơi đùa giữa đống đổ nát, hay những nam công nhân đang chế tạo vũ khí phục vụ chiến tranh. Nhưng đôi khi đó cũng là một khoảnh khắc rất bình yên : Người phụ nữ và hai con nghỉ ngơi tại một trại sơ tán ở Huế, hay cặp tình nhân ngắm cảnh bên bờ hồ Hoàn Kiếm, phía sau là hầm tránh bom ...
Như một kẻ bên lề, ông lặng lẽ quan sát, ghi lại những khoảnh khắc. Sự khiêm tốn trong cách chụp cùng với tài năng bố cục hình ảnh đã mang đến cho những bức ảnh của ông một vẻ đẹp nghiêm trang, một hương vị cảm xúc sâu sắc, theo như đánh giá từ trang Les Inrockuptibles.
Trả lời RFI Tiếng Việt, Lorène Durret, phụ trách triển lãm, nhắc lại : « Chính ông đã viết "Tôi luôn nhạy cảm với cái đẹp của thế giới hơn là bạo lực và quái vật" Vì vậy, chính vẻ đẹp này mà ông tìm kiếm trong cuộc sống thường ngày và trong các cử chỉ, thái độ của mọi người, dù là phụ nữ hay trẻ em. Đây luôn là những bức ảnh rất nhân văn. Ông không hẳn thích được gọi là nhiếp ảnh gia theo chủ nghĩa nhân văn,vì ông không thích những nhãn mác đó, nhưng đúng là quý vị luôn tìm thấy ai đó trong những bức ảnh này và quý vị có cảm giác về một sự hiện diện rất mạnh mẽ ».
Năm 1968 : « Huế, Guernica của Việt Nam »Marc Riboud có cái nhìn bình yên và rất dịu dàng về Việt Nam trong bối cảnh xung đột. Đối với Yannick Lintz, chủ tịch bảo tàng Guimet, « góc nhìn của ông mang lại một minh chứng tuyệt đẹp cho sức mạnh của nghệ thuật vượt lên trên tất cả, bao gồm cả bạo lực của cuộc chiến và những gì tạo nên cuộc chiến đó. »
Thế nên, trong bức ảnh « Đổ nát tại trục đường chính của Hoàng Thành Huế » dưới ánh sáng bàng bạc, bên cạnh những ngôi nhà, con lộ tan hoang vì đạn pháo sau các trận đánh Mậu Thân 1968, là hình ảnh một người phụ nữ trong chiếc áo dài trắng thong dong quẩy gánh đi giữa những người phụ nữ bán hàng rong ngồi bên vệ đường. Cứ như thể chẳng có chuyện gì xảy ra !
Trên báo Le Monde ngày 13/04/1968, trong bài viết « Thư từ Huế » ông tố cáo « Một thành phố bị sát hại ». Thư gởi cho người vợ đầu của mình, Marc Riboud không ngần ngại ví Huế như « Guernica của Việt Nam ». Tại Guernica, một xã ở miền bắc Tây Ban Nha, chỉ trong vòng 3 giờ, 44 chiến đấu cơ của phát xít Đức và 14 máy bay quân đội Ý đã đổ xuống gần 40 tấn bom, cày nát 85% diện tích thành phố, giết chết khoảng 2.000 người ngay trong ngày có chợ phiên. Một khung cảnh ác mộng. Một tội ác chiến tranh tày đình.
Lorène Durret : « Marc Riboud đến Huế ngay sau hai đợt phá hủy liên tiếp, Hoàng Thành bị chiếm đóng một lúc trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, rồi sau đó quân đội Mỹ chiếm lại. Khi đến Huế, ông vô cùng bị sốc trước những gì ông chứng kiến. Hoàng Thành đã bị phá hủy nghiêm trọng, như có thể thấy trong những bức ảnh của ông.
Có những ngôi mộ với đủ mọi kích cỡ trên phố, vì có người phải được chôn cất gấp. Còn người dân phải tị nạn trong những điều kiện khủng khiếp. Ông ở đấy và những hình ảnh này đã in đậm trong tâm trí ông sâu đậm đến mức, trong một lá thư gửi cho vợ mình là Barbara, ông đã thốt lên rằng "Huế là Guernica của Việt Nam." Ông nói về Huế như một thành phố bị giết hại và giải thích trong bài báo rằng bản thân thành phố đã bị phá hủy, nhưng cả linh hồn của nó và linh hồn của người dân cũng bị phá hủy bởi cuộc chiến. »
Marc Riboud : Một nhãn quan tự doMarc Riboud luôn tin tưởng vào những quan sát của mình do lẽ ông không bao giờ là một nhà đấu tranh và có một ý thức chính trị sáng suốt. Catherine Riboud-Chaine, vợ góa của nhiếp ảnh gia, đã kể rằng « Marc luôn đứng về phía những người khốn khổ và chống lại sự áp bức. Ông có cái nhìn cực kỳ tự do ».
Nhãn quan tự do đó đã đưa người xem đi từ chiếc hàng không mẫu hạm USS Enterprise ông đến tham quan cuối năm 1966, để rồi cũng trên báo Pháp Le Monde, ông kể lại làm thế nào những phi công trẻ tuổi đó « bị tuyên truyền » đến mức họ tin rằng họ chỉ đánh vào những mục tiêu quân sự. Rồi đến nước Mỹ với những cuộc biểu tình chống chiến tranh. Bức ảnh « Cô gái và Cành hoa » ông chụp tại Washington ngày 21/10/1967 trong một cuộc biểu tình đã lan truyền rộng rãi, đưa tên tuổi của ông ra toàn cầu.
Lorène Durret : « Ông đã chụp ảnh tất cả những thanh niên Mỹ đang biểu tình phản đối chiến tranh ở Việt Nam. Ông đã theo dõi các hoạt động trong suốt cả ngày và đến cuối ngày, như ông tự mô tả, khi ánh sáng bắt đầu tắt, những người biểu tình bắt đầu giải tán thì ông nhìn thấy cô gái trẻ này xuất hiện trong ống kính của mình.
Và ông tiến lại gần và cô làm cử chỉ giơ một bông hoa cúc về phía những người lính đang đối mặt với cô, về phía những người lính được trang bị lưỡi lê. Rõ ràng là cảnh tượng đó rất mạnh mẽ về mặt hình ảnh và có thể xem ở nhiều góc độ. »
Ấn tượng nhưng cũng rất giản dị, bức ảnh đã thể hiện rõ nét đối lập ở một bên là cô gái rất rất trẻ, và bên kia là những người lính, cũng còn trẻ tuổi. Theo giải thích của Lorène Durret với RFI Tiếng Việt, sau này thế giới biết được cô gái trẻ đó là Jane Rose Kasmir, khi ấy 17 tuổi.
Lorène Durret : « Vì vậy, theo tôi, cô ấy trở thành một biểu tượng và cô ấy có cử chỉ cầu nguyện với đôi bàn tay rất xinh đẹp cầm bông hoa này và đối mặt với cô là những người lính cũng có vẻ rất trẻ. Quả thực, chúng ta có cuộc đối đầu giữa hai giới trẻ. Bản thân ông cũng vui mừng khi bức ảnh này được dùng lại rộng rãi, đôi khi được dựng lại trong các cuộc biểu tình. Ngay cả ngày nay, khi có các cuộc tập hợp, nhiều người biểu tình thường diễn lại cảnh này và cuối cùng điều đó đã đi vào ký ức tập thể. »
Cũng theo Lorène Durret, ít ai biết đến là nhờ bức ảnh này mà Marc Riboud có thể xin được thị thực đến Bắc Việt mùa thu năm 1968. Ông đã có được cuộc phỏng vấn khá hiếm vào thời điểm đó với Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, chụp một số bức ảnh, sau này đã được đăng lại rộng rãi trên nhiều tờ báo quốc tế.
Nhiếp ảnh là để mô tả thế giớiPhải chăng những bức ảnh huyền thoại này của Marc Riboud phần nào góp sức làm thay đổi dòng chảy cuộc chiến ? Ông từng nói : « Nhiếp ảnh không thể thay đổi thế giới, nhưng nó có thể mô tả thế giới, đặc biệt là khi thế giới đang thay đổi ». Ảnh tư liệu của ông đã gây rúng động thế giới về mức độ tàn khốc của cuộc chiến tranh Việt Nam dù không có một cảnh chết chóc nào. Ông tâm niệm rằng chúng sẽ là một bằng chứng lịch sử quan trọng cho hậu thế.
Lorène Durret : « Ông tin rằng việc làm chứng là cần thiết, là vai trò của ông với tư cách một nhiếp ảnh gia, rằng cần phải thể hiện và ghi lại cho tương lai. Nhưng tôi nghĩ rằng ông cũng không ảo tưởng về khả năng gây ảnh hưởng của một tấm ảnh đối với dòng chảy lịch sử, cũng như các quyết định chính trị.
Nhưng trong mọi trường hợp, ông nhận thức được rằng những bằng chứng này rất quan trọng và ngày nay chúng ta thấy được điều đó trong việc phục nguyên mà chúng ta có thể thực hiện nhờ công trình của ông về một số sự kiện nhất định và những dấu vết trực quan của những sự kiến đó có một tầm quan trọng ».
Tự do, phản chiến và phi chính trị, 10 năm rong ruổi, Marc Riboud đã mô tả cho thế giới thấy sức chịu đựng bền bỉ của cả một dân tộc dù ở phía bên nào trong một cuộc chiến phi lý, kéo dài và khốc liệt. Ông bày tỏ cảm thông, nhưng luôn trung thành với nguyên tắc độc lập. Năm 1976, một năm sau khi chiến tranh kết thúc, trước khi đất nước thống nhất, Marc Riboud không ngần ngại phơi bày một khía cạnh tiêu cực đau đớn khác, lên án chế độ chuyên chế thời hậu chiến.
Lorène Durret : « Chúng tôi trưng bày trong cuộc triển lãm, những sự kiện diễn ra trong hơn 10 năm từ 1966 đến 1976, năm sau khi chiến tranh kết thúc, ngay trước khi thống nhất đất nước. Triển lãm cho thấy cả những khía cạnh tích cực, đó là cuộc sống được tiếp tục, những người lính trở về nhà, đoàn tụ với gia đình, công cuộc tái thiết và năng lượng tái thiết đó. Nhưng ảnh của ông cũng ghi lại những khía cạnh đau đớn khác và đặc biệt là các trại cải tạo dành cho cựu giới chức, sĩ quan miền Nam, việc thành lập các vùng kinh tế mới với những đợt cưỡng bức di dời dân .
Chính việc giữ khoảng cách này đã cho phép ông làm chứng và kể một câu chuyện đang diễn ra và đang được thực hiện mà không thiên vị, không chỉ tập trung vào những điều mà ông muốn thấy hoặc những điều mà giới quan sát bên ngoài muốn thấy. »
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Lorène Durret, đồng phụ trách triển lãm « Marc Riboud, Việt Nam 1966 – 1976 », bảo tàng Guimet, Paris.
Cùng với chiếc máy ảnh Leica M3, Marc Riboud, nhiếp ảnh gia người Pháp qua đời năm 2016, trong vòng mười năm 1966 – 1976, lang thang từ Nam ra Bắc ở Việt Nam. Những bài phóng sự và những bức ảnh ông thực hiện, được đăng trên những trang báo quốc tế có uy tín (Le Monde, Paris Match hay Life), cho đến giờ vẫn được xem như là những bằng chứng độc đáo, sâu sắc về một trong những cuộc chiến tàn khốc nhất của thế kỷ XX.
Ngày 12/05/2025 đã chính thức khép lại hơn hai tháng triển lãm tập ảnh phóng sự « Marc Riboud, Việt Nam 1966-1976 » do bảo tàng Guimet, Paris và Hội Những Người Bạn Của Marc Riboud đồng tổ chức. Cuộc triển lãm này diễn ra vào lúc 2025 đánh dấu đúng 50 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam. Bộ tập ảnh chiến tranh Việt Nam là một phần trong toàn bộ di sản ảnh ông để lại cho viện bảo tàng Guimet sau khi mất.
Những câu chuyện kể qua ảnhĐối với nhiều người đến thưởng thức ảnh, đó còn là câu chuyện đau thương về một cuộc xung đột được Marc Riboud kể lại theo một cách độc đáo. Những bức ảnh trắng đen của ông đưa người xem đi từ Mỹ đến Việt Nam ở cả hai phía vĩ tuyến 17. Khác nhiều đồng nghiệp cùng thời, câu chuyện chiến tranh Việt Nam của ông xa nơi chiến tuyến, không cảnh chết chóc, không màn giao tranh.
Marc Riboud, trong nhiều chuyến vào Nam ra Bắc, đã chọn tập trung ống kính vào một dân tộc Việt Nam, bằng một « tinh thần không gì lay chuyển với những phương tiện yếu kém đối mặt với một siêu cường hùng mạnh nhất thời đại ». Trên trang mạng tạp chí Fisheye, Lorène Durret, đồng phụ trách triển lãm « Marc Riboud, Việt Nam 1966 – 1976 » cho rằng « ông đã tiết lộ với thế giới bộ mặt con người kẻ thù lớn nhất của nước Mỹ ».
Ông phơi bày gương mặt của kẻ vô danh : Những thiếu nữ trong độ tuổi thanh xuân hăng say lao động sản xuất, người vợ góa một sĩ quan miền Nam khóc thương mất chồng, những đứa trẻ chơi đùa giữa đống đổ nát, hay những nam công nhân đang chế tạo vũ khí phục vụ chiến tranh. Nhưng đôi khi đó cũng là một khoảnh khắc rất bình yên : Người phụ nữ và hai con nghỉ ngơi tại một trại sơ tán ở Huế, hay cặp tình nhân ngắm cảnh bên bờ hồ Hoàn Kiếm, phía sau là hầm tránh bom ...
Như một kẻ bên lề, ông lặng lẽ quan sát, ghi lại những khoảnh khắc. Sự khiêm tốn trong cách chụp cùng với tài năng bố cục hình ảnh đã mang đến cho những bức ảnh của ông một vẻ đẹp nghiêm trang, một hương vị cảm xúc sâu sắc, theo như đánh giá từ trang Les Inrockuptibles.
Trả lời RFI Tiếng Việt, Lorène Durret, phụ trách triển lãm, nhắc lại : « Chính ông đã viết "Tôi luôn nhạy cảm với cái đẹp của thế giới hơn là bạo lực và quái vật" Vì vậy, chính vẻ đẹp này mà ông tìm kiếm trong cuộc sống thường ngày và trong các cử chỉ, thái độ của mọi người, dù là phụ nữ hay trẻ em. Đây luôn là những bức ảnh rất nhân văn. Ông không hẳn thích được gọi là nhiếp ảnh gia theo chủ nghĩa nhân văn,vì ông không thích những nhãn mác đó, nhưng đúng là quý vị luôn tìm thấy ai đó trong những bức ảnh này và quý vị có cảm giác về một sự hiện diện rất mạnh mẽ ».
Năm 1968 : « Huế, Guernica của Việt Nam »Marc Riboud có cái nhìn bình yên và rất dịu dàng về Việt Nam trong bối cảnh xung đột. Đối với Yannick Lintz, chủ tịch bảo tàng Guimet, « góc nhìn của ông mang lại một minh chứng tuyệt đẹp cho sức mạnh của nghệ thuật vượt lên trên tất cả, bao gồm cả bạo lực của cuộc chiến và những gì tạo nên cuộc chiến đó. »
Thế nên, trong bức ảnh « Đổ nát tại trục đường chính của Hoàng Thành Huế » dưới ánh sáng bàng bạc, bên cạnh những ngôi nhà, con lộ tan hoang vì đạn pháo sau các trận đánh Mậu Thân 1968, là hình ảnh một người phụ nữ trong chiếc áo dài trắng thong dong quẩy gánh đi giữa những người phụ nữ bán hàng rong ngồi bên vệ đường. Cứ như thể chẳng có chuyện gì xảy ra !
Trên báo Le Monde ngày 13/04/1968, trong bài viết « Thư từ Huế » ông tố cáo « Một thành phố bị sát hại ». Thư gởi cho người vợ đầu của mình, Marc Riboud không ngần ngại ví Huế như « Guernica của Việt Nam ». Tại Guernica, một xã ở miền bắc Tây Ban Nha, chỉ trong vòng 3 giờ, 44 chiến đấu cơ của phát xít Đức và 14 máy bay quân đội Ý đã đổ xuống gần 40 tấn bom, cày nát 85% diện tích thành phố, giết chết khoảng 2.000 người ngay trong ngày có chợ phiên. Một khung cảnh ác mộng. Một tội ác chiến tranh tày đình.
Lorène Durret : « Marc Riboud đến Huế ngay sau hai đợt phá hủy liên tiếp, Hoàng Thành bị chiếm đóng một lúc trong cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, rồi sau đó quân đội Mỹ chiếm lại. Khi đến Huế, ông vô cùng bị sốc trước những gì ông chứng kiến. Hoàng Thành đã bị phá hủy nghiêm trọng, như có thể thấy trong những bức ảnh của ông.
Có những ngôi mộ với đủ mọi kích cỡ trên phố, vì có người phải được chôn cất gấp. Còn người dân phải tị nạn trong những điều kiện khủng khiếp. Ông ở đấy và những hình ảnh này đã in đậm trong tâm trí ông sâu đậm đến mức, trong một lá thư gửi cho vợ mình là Barbara, ông đã thốt lên rằng "Huế là Guernica của Việt Nam." Ông nói về Huế như một thành phố bị giết hại và giải thích trong bài báo rằng bản thân thành phố đã bị phá hủy, nhưng cả linh hồn của nó và linh hồn của người dân cũng bị phá hủy bởi cuộc chiến. »
Marc Riboud : Một nhãn quan tự doMarc Riboud luôn tin tưởng vào những quan sát của mình do lẽ ông không bao giờ là một nhà đấu tranh và có một ý thức chính trị sáng suốt. Catherine Riboud-Chaine, vợ góa của nhiếp ảnh gia, đã kể rằng « Marc luôn đứng về phía những người khốn khổ và chống lại sự áp bức. Ông có cái nhìn cực kỳ tự do ».
Nhãn quan tự do đó đã đưa người xem đi từ chiếc hàng không mẫu hạm USS Enterprise ông đến tham quan cuối năm 1966, để rồi cũng trên báo Pháp Le Monde, ông kể lại làm thế nào những phi công trẻ tuổi đó « bị tuyên truyền » đến mức họ tin rằng họ chỉ đánh vào những mục tiêu quân sự. Rồi đến nước Mỹ với những cuộc biểu tình chống chiến tranh. Bức ảnh « Cô gái và Cành hoa » ông chụp tại Washington ngày 21/10/1967 trong một cuộc biểu tình đã lan truyền rộng rãi, đưa tên tuổi của ông ra toàn cầu.
Lorène Durret : « Ông đã chụp ảnh tất cả những thanh niên Mỹ đang biểu tình phản đối chiến tranh ở Việt Nam. Ông đã theo dõi các hoạt động trong suốt cả ngày và đến cuối ngày, như ông tự mô tả, khi ánh sáng bắt đầu tắt, những người biểu tình bắt đầu giải tán thì ông nhìn thấy cô gái trẻ này xuất hiện trong ống kính của mình.
Và ông tiến lại gần và cô làm cử chỉ giơ một bông hoa cúc về phía những người lính đang đối mặt với cô, về phía những người lính được trang bị lưỡi lê. Rõ ràng là cảnh tượng đó rất mạnh mẽ về mặt hình ảnh và có thể xem ở nhiều góc độ. »
Ấn tượng nhưng cũng rất giản dị, bức ảnh đã thể hiện rõ nét đối lập ở một bên là cô gái rất rất trẻ, và bên kia là những người lính, cũng còn trẻ tuổi. Theo giải thích của Lorène Durret với RFI Tiếng Việt, sau này thế giới biết được cô gái trẻ đó là Jane Rose Kasmir, khi ấy 17 tuổi.
Lorène Durret : « Vì vậy, theo tôi, cô ấy trở thành một biểu tượng và cô ấy có cử chỉ cầu nguyện với đôi bàn tay rất xinh đẹp cầm bông hoa này và đối mặt với cô là những người lính cũng có vẻ rất trẻ. Quả thực, chúng ta có cuộc đối đầu giữa hai giới trẻ. Bản thân ông cũng vui mừng khi bức ảnh này được dùng lại rộng rãi, đôi khi được dựng lại trong các cuộc biểu tình. Ngay cả ngày nay, khi có các cuộc tập hợp, nhiều người biểu tình thường diễn lại cảnh này và cuối cùng điều đó đã đi vào ký ức tập thể. »
Cũng theo Lorène Durret, ít ai biết đến là nhờ bức ảnh này mà Marc Riboud có thể xin được thị thực đến Bắc Việt mùa thu năm 1968. Ông đã có được cuộc phỏng vấn khá hiếm vào thời điểm đó với Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng, chụp một số bức ảnh, sau này đã được đăng lại rộng rãi trên nhiều tờ báo quốc tế.
Nhiếp ảnh là để mô tả thế giớiPhải chăng những bức ảnh huyền thoại này của Marc Riboud phần nào góp sức làm thay đổi dòng chảy cuộc chiến ? Ông từng nói : « Nhiếp ảnh không thể thay đổi thế giới, nhưng nó có thể mô tả thế giới, đặc biệt là khi thế giới đang thay đổi ». Ảnh tư liệu của ông đã gây rúng động thế giới về mức độ tàn khốc của cuộc chiến tranh Việt Nam dù không có một cảnh chết chóc nào. Ông tâm niệm rằng chúng sẽ là một bằng chứng lịch sử quan trọng cho hậu thế.
Lorène Durret : « Ông tin rằng việc làm chứng là cần thiết, là vai trò của ông với tư cách một nhiếp ảnh gia, rằng cần phải thể hiện và ghi lại cho tương lai. Nhưng tôi nghĩ rằng ông cũng không ảo tưởng về khả năng gây ảnh hưởng của một tấm ảnh đối với dòng chảy lịch sử, cũng như các quyết định chính trị.
Nhưng trong mọi trường hợp, ông nhận thức được rằng những bằng chứng này rất quan trọng và ngày nay chúng ta thấy được điều đó trong việc phục nguyên mà chúng ta có thể thực hiện nhờ công trình của ông về một số sự kiện nhất định và những dấu vết trực quan của những sự kiến đó có một tầm quan trọng ».
Tự do, phản chiến và phi chính trị, 10 năm rong ruổi, Marc Riboud đã mô tả cho thế giới thấy sức chịu đựng bền bỉ của cả một dân tộc dù ở phía bên nào trong một cuộc chiến phi lý, kéo dài và khốc liệt. Ông bày tỏ cảm thông, nhưng luôn trung thành với nguyên tắc độc lập. Năm 1976, một năm sau khi chiến tranh kết thúc, trước khi đất nước thống nhất, Marc Riboud không ngần ngại phơi bày một khía cạnh tiêu cực đau đớn khác, lên án chế độ chuyên chế thời hậu chiến.
Lorène Durret : « Chúng tôi trưng bày trong cuộc triển lãm, những sự kiện diễn ra trong hơn 10 năm từ 1966 đến 1976, năm sau khi chiến tranh kết thúc, ngay trước khi thống nhất đất nước. Triển lãm cho thấy cả những khía cạnh tích cực, đó là cuộc sống được tiếp tục, những người lính trở về nhà, đoàn tụ với gia đình, công cuộc tái thiết và năng lượng tái thiết đó. Nhưng ảnh của ông cũng ghi lại những khía cạnh đau đớn khác và đặc biệt là các trại cải tạo dành cho cựu giới chức, sĩ quan miền Nam, việc thành lập các vùng kinh tế mới với những đợt cưỡng bức di dời dân .
Chính việc giữ khoảng cách này đã cho phép ông làm chứng và kể một câu chuyện đang diễn ra và đang được thực hiện mà không thiên vị, không chỉ tập trung vào những điều mà ông muốn thấy hoặc những điều mà giới quan sát bên ngoài muốn thấy. »
RFI Tiếng Việt xin cảm ơn Lorène Durret, đồng phụ trách triển lãm « Marc Riboud, Việt Nam 1966 – 1976 », bảo tàng Guimet, Paris.
37 Listeners
1 Listeners
15 Listeners
2 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
24 Listeners
6 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
5 Listeners
11 Listeners
0 Listeners
4 Listeners
0 Listeners