Văn hóa, giáo dục, tư cách, lòng yêu nước là một phần của phép lạ kinh tế Nhật Bản. Mô hình ấy đã « lan tỏa » đến những nền kinh tế khác trong khu vực, từ Hàn Quốc đến Đài Loan hay Trung Quốc. Đang « chuẩn bị cho một kỷ nguyên mới », bắt đầu vào năm 2026, « thử xem kinh nghiệm của Nhật Bản » có thể giúp ích gì cho Việt Nam ? RFI giới thiệu Hồi Ức Đến Tương Lai- của GS Trần Văn Thọ.
Tháng 5/2025 tiến sĩ kinh tế Trần Văn Thọ vừa cho ra mắt độc giả tại Việt Nam cuốn sách mang tựa đề Hồi Ức Đến Tương Lai - Suy ngẫm về văn hóa, giáo dục và con đường phát triển của Việt Nam - NXB Đà Nẵng. Sang Nhật du học từ năm 1968, chọn học ngành kinh tế, đặc biệt là kinh tế phát triển và kinh tế quốc tế, tác giả từng giảng dậy tại các đại học danh tiếng như Đại học Obirin và Waseda ở Tokyo. Ông nguyên là thành viên Tổ Tư Vấn Kinh Tế của nhiều thủ tướng Việt Nam, là người đóng góp rất nhiều trong quan hệ giữa hai quê hương của ông là Việt Nam và Nhật Bản. Giáo sư Thọ cũng đã cho xuất bản nhiều cuốn sách về kinh tế Nhật Bản và Việt Nam*.
Cuốn Hồi Ức Đến Tương Lai-Suy ngẫm về văn hóa, giáo dục và con đường phát triển của Việt Nam, hơn 500 trang, tập hợp những bài viết tác giả đã cho đăng trên các tờ báo ở Việt Nam và hải ngoại. Đây là những bài viết về kinh tế, về văn hóa, văn học Việt Nam và Nhật Bản về những tấm gương sáng trong sử sách tại hai quốc gia nói trên.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của chương trình, xin chỉ tập trung vào những bài viết của giáo sư Trần Văn Thọ về mô hình phát triển thần kỳ Nhật Bản, Hàn Quốc ; về quá trình phát triển, về « những cơ hội bị bỏ lỡ », về « sự chuẩn bị cho một kỷ nguyên mới » của Việt Nam.
Ở những trang đầu cuốn sách giáo sư Trần Văn Thọ viết :
« Học tập và làm việc tại Nhật, tôi được chứng kiến giai đoạn phát triển thần kỳ của nước này và hiện tượng lan tỏa kinh tế từ Nhật sang Hàn Quốc, Đài Loan rồi đến một số nước ASEAN và Trung Quốc, tạo nên vùng kinh tế năng động châu Á Thái Bình Dương. Việt Nam nằm giữa vùng năng động này, nhưng chỉ từ khi có đổi mới chuyển sang thể chế kinh tế thị trường, chúng ta mới có điều kiện tham gia vào quá trình phân công quốc tế này (…) Tuy nhiên Việt Nam tiến hành cải cách quá chậm, một phần do một số lãnh đạo lo ngại phát triển chệch hướng, nhiều quan chức thì muốn duy trì những lợi ích từ thể chế cũ. Việt Nam đã bỏ lỡ nhiều thời cơ nên thành quả phát triển bị hạn chế nhiều. Trong khi các nước chung quanh, nhất là Trung Quốc phát triển mạnh mẽ. » (tr. 21).
Năng lực xã hội Nhật Bản Đi sâu hơn vào trường hợp của Nhật Bản giáo sư Trần Văn Thọ nói về bí quyết phát triển của xứ hoa anh đào : « Nhật Bản là nước đi sau trong dòng thác công nghiệp của thế giới, đã tích cực thu nhập công nghệ, chế độ và tri thức quản lý từ các nước tiên tiến Âu Mỹ và đã thành công trong việc đuổi kịp các nước đi trước ».
Đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và bài viết về thành công của Nhật Bản, về chiến lược phát triển công nghiệp của quốc gia này, riêng giáo sư Thọ, ông đã « thử tìm một nguyên nhân tổng hợp nhất » để các nước đi sau Nhật Bản có thể tham khảo.
Nguyên nhân là cái mà tác giả gọi là « năng lực xã hội » tức là : « Năng lực và tố chất của các nhân tố cấu thành xã hội, cụ thể là chính trị gia, quan chức, lãnh đạo kinh doanh, trí thức và tầng lớp lao động. Mỗi nhân tố này phải có những tố chất nào để thúc đẩy kinh tế phát triển. » (tr.23).
Giáo sư Thọ ở những trang 153 -154 giải thích cặn kẽ hơn : « Tố chất quan trọng nhất của một chính trị gia là năng lực lãnh đạo, của một quan chức là quản lý hành chính, của một doanh nhân là tinh thần doanh nghiệp » và không chỉ có thế : « Tố chất chung nhất của chính trị gia, của quan chức, của nhà kinh doanh Nhật Bản là lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc và phải là những người có văn hóa, có giáo dưỡng. Tố chất này biểu hiện rất rõ qua những câu chuyện về lãnh đạo chính trị, về những nhà kinh doanh tiêu biểu thời Minh Trị cũng như thời kỳ phục hưng và hậu chiến, những tố chất đó biểu hiện mạnh mẽ nhất ».
Trong trường hợp của một nhà kinh doanh chẳng hạn, để thành công, thì cần « có tinh thần mạo hiểm, có năng lực cách tân công nghệ, tích cực khám phá thị trường, ứng dụng công nghệ để làm ra các sản phẩm và dịch vụ cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của thị trường ».
Những nhà kinh doanh tiêu biểu của Nhật không phải chỉ có thế : « Hầu hết các nhà sáng lập những công ty tiêu biểu của Nhật hiện nay đều xuất phát từ lòng yêu nước, từ trách nhiệm xã hội » mà điển hình là câu nói để đời của đồng sáng lập viên tập đoàn Sony, Ibuka Masaru. Trong diễn văn năm 1946, giữa cảnh hoang tàn, đổ nát của đất nước một năm sau chiến tranh nhà kinh doanh này tuyên bố : « Ta phải nỗ lực đem công nghệ góp phần phục hưng tổ quốc. » (tr.154).
Từ giữa thập niên 1950 Nhật Bản đã bước vào giai đoạn phát triển cao độ với tăng trưởng kinh tế trung bình 10% trong suốt thời gian 18 năm.
Hàn Quốc dựng nước trên cơ sở học tập của nước ngoài Hàn Quốc cũng vậy, quốc gia này cũng đã làm nên phép lạ kinh tế để mới chỉ năm 1962 còn là một trong những nước nghèo nhất thế nhưng chỉ ba thập niên sau đã trở thành một quốc gia tiên tiến (1996). Giáo sư Trần Văn Thọ phân tích :
« Hàn Quốc thành công vì hai yếu tố chính. Thứ nhất, ngay từ đầu đã có ngay sự đồng thuận của xã hội về sự cần thiết phải phát triển, phải theo kịp các nước tân tiến. Nhất là theo kịp Nhật (nước láng giềng từng đô hộ mình). Để có sự đồng thuận, năng lực, ý chí và chính sách của lãnh đạo chính trị là quan trọng nhất. Dù dưới chế độ độc tài (..) quyết tâm phát triển của lãnh đạo chính trị được thể hiện bằng các chiến lược và chính sách do lớp kỹ trị xây dựng, quan chức được tuyển chọn theo năng lực, người tài được trọng dụng. Thứ hai, Hàn Quốc đã thực hiện công nghiệp hóa trên cơ sở của học tập (…) Học tập nước ngoài và học tập để có điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế lên cao, đưa vị trí đất nước lên cao trên vũ đài thế giới ». (tr.23).
Xác định vị trí trên thế giới bằng tinh thần dân tộc Giáo sư Trần Văn Thọ nhận thấy trong quá trình công nghiệp hóa, Nhật Bản, Hàn Quốc và những nước đi sau đã có nhiều mẫu số chung :
« Lấy chủ nghĩa dân tộc để xác định vị trí của mình trên thế giới », để đề xuất chiến lược có lợi nhất cho đất nước, để động viên toàn dân đuổi kịp các nước đi trước. Các quốc gia này đều đã « đề cao chủ nghĩa phát triển » khi nhận thấy rằng « phát triển là con đường duy nhất để thoát khỏi những nguy cơ trước mắt và lâu dài ».
Điểm tương đồng thứ ba là các nền kinh tế đó đã « huy động các tầng lớp trí thức, kỹ trị có năng lực để hoạch định chiến lược phát triển, trọng dụng nhân tài (...) loại trừ tất cả các quan hệ họ hàng, huyết thống, bản vị địa phương và giai tầng xuất thân trong xã hội ».
Việt Nam đã đúng nghĩa là một quốc gia tiên tiến ? Việt Nam đương nhiên là trọng tâm cuốn sách có tiểu tựa : Suy ngẫm về văn hóa, giáo dục và con đường phát triển của Việt Nam. Tác giả băn khoăn với câu hỏi : « Tại Đại hội toàn quốc lần thứ 13 (tháng 1/2021) Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước tiên tiến phát triển thu nhập cao vào năm 2045 » (tr.25) nhưng Việt Nam đã « đúng nghĩa là một quốc gia tiên tiến hay chưa ? ». Cần làm những gì để đạt đến mục tiêu đó ?
Sau đổi mới, kinh tế Việt Nam phát triển trung bình 6,5 % mỗi năm, đạt mức thu nhập trung bình thấp năm 2008 và hiện nay đang tiến đến mức thu nhập trung bình cao. Năm 2023 tổng thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam là 4.316 đô la, dự kiến sẽ đạt ngưỡng trung bình cao trong vài năm tới.
Giáo sư Thọ trong cuốn sách vừa cho ra mắt độc giả phân tích : trong trường hợp của Việt Nam, « để trở thành một quốc gia tiên tiến phát triển thu nhập cao vào năm 2045, tăng trưởng bình quân trong 20 năm tới phải là 6 % ». Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần vượt qua những rào cản mang tính « định lượng » và « chất lượng ».
Riêng về chất lượng, tác giả nêu bật hai nhóm vấn đề cần chú ý. Nhóm 1 liên quan đến 2 « vấn đề tồn tại từ lâu nhưng chưa được giải quyết » :
« Một là bộ máy công quyền và tình trạng giáo dục như hiện nay rất xa lạ với một nước đang trên đường tiến tới một quốc gia tiên tiến. Thu nhập ngoài lương của công chức, quan chức còn rất lớn, gây ra tệ nạn tham nhũng và làm cho bộ máy nhà nước kém hiệu quả » và « Hai là chất lượng của kinh tế thị trường cần được cải thiện sớm (..) vì hiện nay ở Việt Nam, nhiều người vẫn còn hiểu sai về kinh tế thị trường. Họ không hiểu rằng giao dịch và trao đổi (..) chỉ bền vững khi chất lượng của thị trường được bảo đảm », mà hiện tại thì chất lượng đó lại « liên quan đến chất lượng, đến sự tin cậy giữa các bên tham gia » (tr. 27).
Nhóm vấn đề thứ hai liên quan đến hình ảnh của một đất nước và tác giả cuốn Hồi Ức Đến Tương Lai đã tóm tắt những điểm như sau mà đầu tiên hết trong nhóm này là quyền lực mềm :
« Cho đến nay, sức mạnh kinh tế và quân sự thường được sử dụng để ảnh hưởng đến nước khác thông qua các quan hệ quốc tế về chính trị, quân sự, kinh tế gọi là sức mạnh cứng, hard power » nhưng bên cạnh đó quyền lực mềm có thể nâng cao vị trí của một quốc gia trên trường quốc tế. « Sức mạnh mềm đó thể hiện qua sức mạnh văn hóa, uy tín quốc tế và sự lôi cuốn, hấp dẫn của một quốc gia, một dân tộc » (tr.27-28).
Tác giả đặc biệt chú trọng đến những yếu tố chất lượng cuộc sống :
« Cần làm cho thành quả phát triển mang lại hạnh phúc cho tuyệt đại đa số dân chúng. Nhìn chung kinh tế càng phát triển, con người càng được hạnh phúc vì thỏa mãn được các nhu cầu trong cuộc sống. Tuy nhiên cần thêm hai điều kiện : môi trường sống và tình hình phân phối thu nhập. Ô nhiễm môi trường, ách tắc giao thông.. làm giảm chất lượng cuộc sống. Phân phối thu nhập quá bất bình đẳng làm cho tầng lớp thu nhập thấp chẳng những chẳng được cải thiện mà còn cảm thấy bất mãn khi thấy xã hội bất công (...). Đây là mầm mống gây bất ổn xã hội » (tr.29).
Tính tự chủ về kinh tế Song để phát triển vững mạnh thì yếu tố quan trọng không kém là « tính tự chủ về kinh tế » của một quốc gia và tác giả so sánh :
« Giữ vững độc lập tự chủ về kinh tế » nghĩa là làm thế nào để « tránh được các cú sốc từ sự thay đổi đột ngột trên thị trường thế giới, làm sao để kinh tế không phụ thuộc nhiều vào một nước lớn qua các kênh nhập và xuất khẩu, vay nợ, đầu tư (…) đặc biệt Việt Nam nằm cạnh một nước rất lớn và đã qua một quá trình phát triển mạnh mẽ ». Năm 2023 « dân số Trung Quốc đông gấp 14 lần Việt Nam, GDP lớn gấp 41 lần và tiềm lực về công nghệ, giáo dục và quốc phòng nằm ở vị trí siêu cường (…) trong quan hệ kinh tế, nếu Việt Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc thì kinh tế Trung Quốc có biến động sẽ làm kinh tế Việt Nam bất ổn. Việc vay vốn nhiều từ Trung Quốc cũng có thể gây ảnh hưởng về chính trị » (tr.31).
Đương nhiên trên con đường phát triển, do khoảng cách quá lớn trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc, Việt Nam không thể áp dụng chính sách mà Hàn Quốc đã từng đề ra để đuổi kịp Nhật Bản :
« Từ xưa người Triều Tiên vẫn cho mình là dân tộc có nền văn hóa cao hơn Nhật Bản, nhiều di sản văn hóa phương Đông được du nhập sang Nhật Bản qua cửa ngõ Triều Tiên, nhưng Nhật Bản lại là nước phát triển trước và từng là nước đô hộ Triều Tiên trong 35 năm (1910-1945). Sự tồn tại của một đất nước phát triển ngay bên cạnh mình, có quan hệ lịch sử phức tạp với mình đã trở thành động lực làm cho Hàn Quốc phát huy tinh thần dân tộc cao độ. Hàn Quốc đã lấy Nhật Bản làm mục tiêu để theo kịp và vượt qua. Hàn Quốc đã trở thành mô hình của một nước công nghiệp hóa đi sau trong nỗ lực tiếp cận, du nhập và hấp thu công nghệ, tri thức kinh doanh của nước ngoài, đặc biệt là Nhật Bản và Mỹ » (tr. 168).
Trong cuốn Hồi Ức Đến Tương Lai-Suy ngẫm về văn hóa, giáo dục và con đường phát triển của Việt Nam, viết về kinh tế của giáo sư Trần Văn Thọ thường « kết nối với lịch sử, văn hóa ». Ngoài chuyên môn về « kinh tế phát triển », về « kinh tế quốc tế », ngoài công việc nghiên cứu, giảng dậy thì văn học, âm nhạc, lịch sử còn là sở trường của tác giả với những bài viết về Tự Lực Văn Đoàn, về nhà thơ Đinh Hùng, Thế Lữ về tinh thần cầu tiến của Thời Minh Trị, về Phong trào Đông Du, về nhạc phẩm Kandagawa - một trong những bản tình ca vượt thời gian của Nhật Bản... .
-----
Một vài tác phẩm đã phát hành của Giáo Sư Trần Văn Thọ :
*Công nghiệp hóa Việt Nam trong thời đại châu Á-Thái Bình Dương, NXB TP. Hồ Chí Minh (1996)
*Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hóa Việt Nam, NXB Chính Trị Quốc Gia (2005), tái bản NXB Trẻ (2006)
*Cú sốc thời gian và kinh tế Việt Nam, NXB Tri Thức (2016)
*Kinh tế Nhật Bản giai đoạn phát triển thần kỳ 1955-1973, NXB Đà Nẵng (2021)