Hồ sơ kinh tế nổi bật, kinh nghiệm hoạt động của giới doanh nhân
... moreShare Tạp chí kinh tế
Share to email
Share to Facebook
Share to X
Bỏ lỡ cơ hội phát triển công nghệ cao, kinh tế Liên Âu tụt hậu so với Hoa Kỳ và lệ thuộc nhiều hơn vào Trung Quốc. Mỹ có nhiều phương tiện tài trợ cho những phát minh mới. Trung Quốc thu hẹp khoảng cách và đọ sức ngang ngửa với Hoa Kỳ. Châu Âu mất dần những lợi thế cạnh tranh, tiền không nhiều, đầu tư không đúng chỗ và thiếu tầm nhìn tổng quát về chính sách công nghiệp chung.
Trên đây là những điểm chính trong báo cáo về tiềm năng cạnh tranh của Liên Hiệp Châu Âu đã được trình lên chủ tịch Ủy Ban Châu Âu hôm 09/09/2024. Tác giả là cựu thống đốc Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu - BCE Mario Draghi. Năm 2012 ông là người từng cứu đồng euro vào lúc đơn vị tiền tệ chung châu Âu bị tấn công, khối euro có nguy cơ bị tan rã do khủng hoảng tài chính Hy Lạp.
Liên Âu bị lạc hậu« Hight Technologies » là nỗi ám ảnh Bruxelles và cũng là nguyên nhân dẫn đến một « sự tụt hậu của khối này so với Hoa Kỳ ». Năm 2002 GDP của châu Âu thấp hơn so với Mỹ 17 %. Hai thập niên sau khoảng cách là 30 % và « 70 % sự khác biệt đó là do Liên Âu thua kém về công nghệ cao ».
Mỹ đang dẫn đầu thế giới về trí tuệ nhân tạo, đang chạy nước rút để đầu tư vào công nghiệp chế tạo linh kiện bán dẫn.
Trả lời đài phát thanh France Culture (ngày 14/09/2024) Agathe Demairais đặc trách ban địa kinh tế thuộc Hội Đồng Châu Âu về Quan Hệ Quốc Tế (ECFR) nhận định Liên Hiệp Châu Âu hoàn toàn bỏ lỡ cơ hội trên tiến trình chuyển đổi sang một nền kinh tế xanh. Trong số 50 doanh nghiệp hàng đầu thế giới về « công nghệ cao », chỉ có 4 hãng là của châu Âu và trong một vài dự án hiếm hoi mà Liên Hiệp Châu Âu đã chen chân được vào, thì 1/3 trong số doanh nghiệp đó sớm muộn gì rồi cũng di dời cơ sở sang Mỹ, bởi đấy mới là « đất lành chim đậu cho ngành high tech ».
Trong giai đoạn 2019-2023, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Liên Âu giảm 6 % trong lúc FDI đổ vào Mỹ tăng 63 % : thêm một dẫn chứng cho thấy châu Âu mất sức thu hút.
Đối với Trung Quốc, đầu tư của Liên Âu vào khâu Nghiên cứu và Phát Triển R&D thua kém xa. Trong các mảng công nghệ mới - chế tạo các bình điện cho xe ô tô, pin điện mặt trời và những vật liệu mới, Trung Quốc đang vượt trội. Theo báo cáo Draghi, 70 % những « vật liệu xanh » cho phép chuyển đổi sang một mô hình kinh tế « sạch » đều do Trung Quốc sản xuất. Hơn nữa toàn cầu bị phụ thuộc đến 80 % kim loại hiếm của Trung Quốc, và đây là những chất liệu để sản xuất bình điện hay chip bán dẫn, phục vụ mảng công nghệ kỹ thuật số.
Ba nguyên nhân giải thích Liên Âu mất khả năng cạnh tranhLàm sao giải thích sự chậm trễ của Liên Hiệp Châu Âu trong chính sách phát triển công nghệ cao và khả năng cạnh tranh của khối này bị thu hẹp lại ?
Agathe Demarais thuộc Hội Đồng Châu Âu về Quan Hệ Quốc Tế (ECFR) trả lời :
« Đầu tiên hết là căng thẳng địa chính trị gia tăng. Tôi muốn nói đến sự đối đầu giữa Mỹ với Trung Quốc, đến chiến tranh Ukraina và xung đột ở Gaza : Điều đó có nghĩa là châu Âu phải huy động vốn đầu tư trở lại vào các phương tiện để phòng thủ thay vì dùng khoản chi tiêu đó vào mục tiêu phát triển. Chúng ta đã thấy là Hoa Kỳ yêu cầu châu Âu tăng chi tiêu quân sự. Cú sốc thứ nhì là khác hẳn với châu Âu, cả Hoa Kỳ lẫn Trung Quốc đều huy động rất nhiều phương tiện để thực hiện tham vọng dẫn đầu thế giới về công nghệ. Washington và Bắc Kinh cùng trong thế ‘tấn công’. Mỗi bên đều muốn dẫn đầu cuộc đua. Mỹ muốn giữ được thế cường quốc số 1 toàn cầu. Còn Trung Quốc cần thu hẹp khoảng cách với Mỹ. Cả hai cường quốc kinh tế này có một tầm nhìn toàn diện với chủ trương kết hợp chặt chẽ các chính sách thương mại, công nghiệp và an ninh. Châu Âu thì vẫn chưa hiểu được điều đó và chưa thích nghi được với hoàn cảnh mới mẻ này ».
Liên Âu mất những lợi thế đã cóVì chiến tranh Ukraina Liên Âu mất nguồn cung cấp dầu hỏa và khí đốt của Nga. Mỹ và Trung Quốc là hai khách hàng lớn của châu Âu, căng thẳng giữa hai nền kinh tế hàng đầu này khiến cả Washington lẫn Bắc Kinh cùng « chuyển hướng » trong chính sách thương mại : Mỹ tập trung nhiều hơn vào Mêhicô, Canada và Việt Nam. Còn Bắc Kinh thì tranh thủ các thị trường của Nga, của khối Đông Nam Á, của Trung Đông và Châu Mỹ La Tinh. Riêng Liên Âu thì vẫn « an phận » với hai khách hàng truyền thống quan trọng nhất là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Thêm vào đó Bruxelles bị kẹt trong cái bẫy « phi carbon hóa » guồng máy sản xuất trước ngưỡng 2035. Đó là điều mà Agathe Demarais, thuộc hội đồng ECFR gọi là cú sốc thứ ba :
« Châu Âu đề ra mục tiêu nhanh chóng phi carbone hóa, tức là giảm thiểu lượng khí thải làm hâm nóng trái đất. Điều này đòi hỏi ngay từ bây giờ châu Âu phải lựa chọn giữa hai giải pháp : nhập công nghệ xanh của Trung Quốc hay là tự phát triển cả mảng công nghiệp ngày. Trong trường hợp đầu tiên, để tăng tốc tiến trình chuyển đổi năng lượng, Bruxelles phải chấp nhận nhập khẩu pin mặt trời và ô tô điện của Trung Quốc. Bruxelles chấp nhận lệ thuộc hơn vào công nghệ xanh của Trung Quốc. Nếu muốn tránh để lệ thuộc vào Trung Quốc thì Liên Hiệp Châu Âu phải đẩy mạnh công nghệ ô tô điện, năng lượng mặt trời … nhưng làm thế nào để cạnh tranh với hàng của Trung Quốc và của Mỹ trong lúc mà tiền điện ở châu Âu đắt gấp 2, gấp 3 lần so với Mỹ ? Trung bình để chuyển đổi sang mô hình sản xuất sạch, một nhà máy của châu Âu cần đầu tư 500 triệu euro trong 15 năm ».
Chín người, mười ýMột nhược điểm lớn khác của châu Âu so với Hoa Kỳ và Trung Quốc là khối 27 thành viên hoàn toàn không đoàn kết và lại càng không có chung một tầm nhìn về chính sách phát triển công nghiệp. Chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, mang quốc tịch Đức, bà Ursula von der Leyen mạnh mẽ hô hào « de–risking » để giảm bớt mức độ lệ thuộc vào hàng hóa, vào nguyên liệu vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc … Thế nhưng đồng hương của bà, là thủ tướng Olaf Scholz lại không bỏ lỡ một cơ hội nào để Bắc Kinh, tham dự các diễn đàn kinh tế, gặp gỡ các doanh nhân Trung Quốc … Trong sáu tháng đầu năm 2024, tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Đức vào Hoa Lục lớn hơn so với thống kê của cả năm 2023.
Nhìn sang Tây Ban Nha, Madrid là một trong những tiếng nói mạnh mẽ nhất đòi tăng thuế đánh vào ô tô điện của Trung Quốc nhưng sau cuộc hội đàm với chủ tịch Tập Cận Bình tại Bắc Kinh hôm 09/09/2024 thủ tướng Pedro Sanchez đã « đổi giọng » vì sợ Bắc Kinh ngừng nhập khẩu thịt heo của Tây Ban Nha.
Nhưng về cơ bản, Lục Địa Già đang mất đi hai lá chủ bài quan trọng nhất để tạo được một sự năng động kinh tế về lâu dài. Agathe Demarais :
« Có hai yếu tố quyết định để một nền kinh tế có sức cạnh tranh mạnh : đó là tăng trưởng và dân số. Liên Hiệp Châu Âu gặp khó khăn trên cả hai phương diện này. Hệ quả kèm theo là Liên Hiệp Châu Âu trong tương lai càng bị tụt hậu. Từ nay đến năm 2040, mỗi năm thị trường lao động của khối này mất đi 2 triệu người, vì dân số đang già đi. So sánh tỷ lệ tăng trưởng về năng suất của một người lao động châu Âu và ở Mỹ, hiện tại châu Âu thua hẳn Mỹ. Cùng lúc, mỗi năm Hoa Kỳ đầu từ gần 900 tỷ đô la vào khâu Nghiên Cứu và Phát Triển R&D. Số tiền này cao gấp đôi so với đầu tư vào R&D của toàn khối Liên Âu. Chỉ riêng trong hai lĩnh vực là trí tuệ nhân tạo và máy tính lượng tử, 70 % các dự án xuất phát từ Hoa Kỳ ; 2/3 các khoản đầu tư vào thông minh nhân tạo hướng về Mỹ. Nhìn đến công nghệ sản xuất linh kiện bán dẫn, từ nay đến 2032, Hoa Kỳ tập trung đến 1/3 chíp điện tử tiên tiến nhất của thế giới. Trong tất cả các hoạt động mang tính chiến lược để đem lại tăng trưởng trong tương lai, châu Âu không đóng vai trò hàng đầu ở bất kỳ một lĩnh vực nào ».
Báo cáo Mario Draghi bắt mạch, chẩn bệnh và kê toa thuốc để Liên Hiệp Châu Âu có thể trở lại cuộc chơi công nghệ. Nhưng để chữa được bệnh, tài liệu này thẩm định Liên Hiệp Châu Âu cần dành ra hẳn 5 % GDP của toàn khối để đầu tư vào mảng hight tech.
Làm thế nào để huy động được từ 750 đến 800 tỷ euro một năm ? Nếu có được số tiền đó thì làm thế nào để sử dụng một cách có hiệu quả ? Mất bao lâu nữa Liên Âu mới làm chủ công nghệ chế tạo pin mặt trời, cánh quạt gió …. và ô tô điện như các nhà máy của Trung Quốc hiện tại ? Đến khi nào trình độ trí tuệ nhân tạo của châu Âu được hư hiện nay ở Mỹ ? Báo cáo Draghi không có câu trả lời.
Vả lại tài liệu vừa được công bố còn chưa ráo mực, đã bị nhiều thành viên trong Liên Âu –đứng đầu là Đức, phản bác. Bản thân bà von der Leyen vừa nhiệt tình cảm ơn tác giả của bản báo cáo về tiềm năng cạnh tranh của Liên Âu, vừa thận trọng trước những đề xuất cho phép khối này tìm được một chỗ đứng trên bàn cờ « hight tech » thế giới. Liên Âu ráo riết đi tìm lực đẩy để « phát triển » và mang lại tăng trưởng cho toàn khối, nhưng không thấy các con chim đầu đàn trong khối này hào hứng hay mạnh mẽ ủng hộ các đề xuất của ông Draghi để « đảo ngược thế cờ » để, bớt thua kém Mỹ và Trung Quốc.
Châu Phi không chỉ là kho dự trữ nguyên liệu cho Trung Quốc hay là nơi tiêu thụ hàng rẻ made in China mà còn là thị trường, phòng thí nghiệm của các nhà sản xuất Trung Quốc trong các lĩnh vực công nghệ mới và công nghiệp quốc phòng.
Diễn Đàn Hợp Tác FOCAC giữa Trung Quốc và Châu Phi 2024 vừa kết thúc. Là chủ nợ chính của châu Phi, Bắc Kinh cam kết « hỗ trợ tài chính » cho châu lục này 50 tỷ đô la cho ba năm sắp tới. Với trên 280 tỷ đô la tổng trao đổi mậu dịch hai chiều (năm 2023), Bắc Kinh là đối tác thương mại quan trọng nhất của châu Phi. Từ hơn 20 năm nay thâm hụt mậu dịch của châu Phi với bạn hàng Trung Quốc không ngừng gia tăng. Trung Quốc là nguồn cung cấp hàng rẻ cho 1,5 tỷ dân tại hơn 50 quốc gia châu Phi và đổi lại thì nhập khẩu nguyên và nhiên liệu từ châu lục này để nuôi cỗ máy sản xuất.
Bắc Kinh cần châu PhiXavier Aurégan, đại học Công Giáo Lille, tác giả cuốn sách vừa cho ra mắt độc giả năm nay « Chine, puissance Africaine - Trung Quốc, cường quốc tại châu Phi »- NXB Armand Colin, trên đài truyền hình Pháp France 24 nói rõ hơn :
« Kinh tế và công nghiệp Trung Quốc rất cần nguyên liệu để sản xuất và cung cấp khoảng 10 % thành phẩm, vật liệu cho thế giới. Châu Phi là kho nguyên liệu và khoáng sản của nhân loại và do vậy đã thu hút chú ý của Bắc Kinh ».
Nhưng Trung Quốc nay đã trở thành một nhà sản xuất hàng cao cấp như ô tô điện hay pin mặt trời… Trung Quốc cũng là nhà cung cấp các dịch vụ và thiết bị viễn thông tên tuổi trên thế giới, làm chủ công nghệ xây dựng nhà máy điện hạt nhân, công nghệ chế tạo xe lửa cao tốc và cả trong lĩnh vực quốc phòng. Đó là những lĩnh vực còn khó chen chân vào các thị trường phát triển của Âu Mỹ, Hàn Quốc hay Nhật Bản và Nga. Chỉ còn lại châu Phi, một châu lục với tiềm năng lớn. Tiếp đón trọng thể các lãnh đạo châu Phi tại Bắc Kinh vào tuần trước, chủ tịch Tập Cận Bình nhấn mạnh quan hệ giữa nền kinh tế thứ 2 toàn cầu và châu Phi chưa bao giờ « lành mạnh như hiện tại ».
Trả lời đài truyền hình Pháp-Đức, Arte, Valérie Niquet chuyên gia về Trung Quốc thuộc Quỹ Nghiên Cứu Chiến Lược FRS nhắc lại 50 tỷ đô la được ông Tập Cận Bình thông báo « hỗ trợ tài chính châu Phi » cho ba năm sắp tới trước hết là số tiền Trung Quốc cho châu Phi vay mượn và Bắc Kinh đã ít hào phóng hơn nhiều so với quá khứ :
« Trước hết 50 tỷ đô la viện trợ là số tiền thấp hơn nhiều so với những diễn đàn FOCAC trước đây. Tại Diễn Đàn Hợp Tác Trung Quốc-Châu Phi hồi 2018, Bắc Kinh cấp 60 tỷ đô la tín dụng cho châu Phi và tặng 60 tỷ cho châu lục này. (…) Kinh tế không còn tăng trưởng tốt như lúc trước, Trung Quốc không thể rộng rãi với các đối tác châu Phi, nhưng vẫn tiếp tục nhắm tới một số dự án trong lĩnh vực năng lượng, vào cơ sở hạ tầng… »
Chuyên gia Xavier Aurégan đi sâu hơn vào chi tiết : Theo ông thực ra trong số 50 tỷ đô la Bắc Kinh hứa viện trợ cho châu Phi trong ba năm sắp tới bao gồm 30 tỷ được cấp dưới dạng tín dụng, 10 tỷ dành để hỗ trợ trực tiếp cho các doanh nghiệp Trung Quốc hoạt động tại châu Phi và 10 tỷ đô la còn lại, thuần túy là tiền viện trợ. Nhưng phần lớn trong số 10 tỷ viện trợ này được dùng vào việc « thanh toán nợ hay trả tiền lãi cho chính các ngân hàng Nhà nước Trung Quốc ».
2 % tổng đầu FDI vào châu PhiMột đặc điểm mà Xavier Aurégan lưu ý trong cuốn « Trung Quốc, cường quốc châu Phi » là trái với điều mọi người lầm tưởng, Trung Quốc đầu tư không nhiều vào châu Phi. Tại châu lục này, đầu tư Trung Quốc chỉ chiếm có 2 % FDI trong lúc tỷ lệ này là 63 % tại châu Á và 5 % ở châu Âu. Điều đó chứng tỏ, trong mắt các nhà đầu tư Trung Quốc, châu Phi không là một điểm đến an toàn, mà chỉ là một nguồn cung cấp nguyên liệu, một thị trường mua vào hàng hóa « made in China ».
Như Valérie Niquet vừa nêu, do tăng trưởng bị chựng lại, Trung Quốc đang khóa dần van tín dụng với các nước châu Phi. Các số liệu chính thức của nước này cho thấy năm 2016 Trung Quốc cho châu Phi vay 28 tỷ đô la, năm 2019 châu Phi chỉ còn nhận được 8 tỷ tín dụng, và đến 2022 thì chỉ còn có thể vay được 1 tỷ đô la của Bắc Kinh mà thôi.
Tiêu thụ nội địa yếu kém, sản xuất dư thừa : đó là những lý do khiến Bắc Kinh lại càng « rất cần » châu Phi như Pascal Boniface, giám đốc Viện Quan Hệ Quốc Tế và Chiến Lược của Pháp IRIS ghi nhận, đặc biệt là vào thời điểm mà Liên Hiệp Châu Âu và nhất là Hoa Kỳ « từng bước đóng cửa thị trường với Trung Quốc » : Châu Phi trở thành một thị trường tiềm năng để tiêu thụ pin mặt trời, bình điện và ô tô điện mà Trung Quốc không thể bán sang Âu Mỹ.
Châu Phi và nhu cầu tiêu thụ hàng cao cấpVào lúc trang thiết bị viễn thông của Hoa Vi đã bị cấm cửa tại Hoa Kỳ và một số nước trong Liên Âu thì tập đoàn này phải đi tìm những thị trường khác, với những nhu cầu khác về chất lượng, về mức cung cấp dịch vụ … Châu Phi vẫn cần phát triển các hệ thống cầu đường, cần có thêm cơ sở hạ tầng để mở mang kinh tế. Chuyên gia Valérie Niquet ghi nhận một thay đổi lớn về kinh tế và thương mại giữa Trung Quốc và châu Phi :
« Đúng là Trung Quốc đã đáp ứng những nhu cầu thực sự của châu Phi vào thời điểm mà châu lục này bị phương Tây bỏ quên. Nhất là sau chiến tranh lạnh, không còn mấy ai thiết tha với châu Phi hay quan tâm đến nhu cầu phát triển của khu vực này nữa. Dù vậy Trung Quốc chỉ đầu tư vào những lĩnh vực có lợi cho họ. Những lĩnh vực đó gồm công nghệ viễn thông, đường sắt cao tốc … Giờ đây thì Bắc Kinh kỳ vọng rằng châu Phi là thị trường tiêu thu pin mặt trời, ô tô điện, bình điện … mà Trung Quốc sản xuất ».
Trả lời đài truyền hình Pháp France 24 chuyên gia địa chính trị Xavier Aurégan có cùng quan điểm đồng thời ông nhấn mạnh đến mảng dịch vụ mà các tập đoàn Trung Quốc từ nhiều năm nay đã hướng tới :
« Trung Quốc dè dặt trong việc đầu tư vào châu Phi vì sợ rằng châu lục này có nhiều rủi ro, nhưng đã đẩy mạnh các hoạt động về thương mại với châu lục này và nhất là giành được nhiều hợp đồng bảo đảm dịch vụ cho châu Phi. Về kinh tế, mục tiêu của Bắc Kinh là gặt hái được nhiều hợp đồng cung cấp dịch vụ ở hải ngoại (...) Có một sự khác biệt giữa các khoản xuất nhập khẩu và các hợp đồng bảo đảm dịch vụ do các công ty Trung Quốc tiến hành. Đó là những công ty Nhà nước hay của tư nhân. Tại châu Phi, Trung Quốc giành được 1 phần 3 các hợp đồng xây dựng, tức là nắm giữ một phần lớn của toàn thị trường, xây dựng từ hải cảng đến xa lộ, bệnh viện, trường học … cho châu lục này ».
« Rế rách cũng đỡ nóng tay »Trong những lĩnh vực công nghệ mới Trung Quốc đã vươn lên thành một cường quốc, và đang cần xuất khẩu những sản phẩm cao cấp. Châu Phi không chỉ là thị trường mua vào quần áo, hay tủ lạnh, máy vi tính của Trung Quốc, mà nay đã có điều kiện để nhắm tới ô tô điện hay mua vào thiết bị viễn thông cung cấp các dịch vụ internet trên cả một châu lục rộng lớn…
Năm 2023 số lượng ô tô điện Trung Quốc xuất khẩu sang châu Phi đã được nhân lên gấp ba lần so với hồi 2022. Pin mặt trời « made in China » bán sang châu Phi tăng 57 % … theo các số liệu của Hải Quan Trung Quốc. Đương nhiên trong những địa hạt này, châu Phi không đủ « lớn » hấp dẫn như các ở châu Âu hay châu Mỹ nhưng đó là những giải pháp tạm thời cho phép cỗ máy công nghiệp của Trung Quốc tiếp tục sản xuất và tạo công việc làm cho người lao động Trung Quốc.
Thị trường vũ khí của các nhà sản xuất Trung QuốcBên cạnh mảng « hàng công nghệ cao » châu Phi còn là « một sân chơi » của các nhà sản xuất vũ khí Trung Quốc. Báo Hồng Kông South China Morning Post tháng 8/2023 ghi nhận Norinco, tập đoàn sản xuất vũ khí số 1 Trung Quốc « mở văn phòng đại diện » tại Senegal, trước khi « hiện diện thường trực » ở Mali, Côte d’Ivoire và nhiều nơi khác nữa tại Tây Phi.
Riêng trong vùng châu Phi ở phía nam sa mạc Sahara, Trung Quốc đứng thứ nhì trong danh sách các nguồn cung cấp cho khu vực này. Năm 2023 Cộng Hòa Dân Chủ Congo trang bị drone của Trung Quốc và Bắc Kinh cũng đã cung cấp không ít chiến dấu cơ cho châu Phi theo thông tin từ tạp chí ADF chuyên theo dõi các hồ sơ quân sự, quốc phòng tại châu Phi.
Zambia hiện đã trang bị trực thăng Trung Quốc, Soudan thì mua các hệ thống phóng rocket của Trung Quốc. Algérie là khách hàng quan trọng nhất của Bắc Kinh trên các thị trường mua bán vũ khí, đứng trên Tanzania, Maroc và Soudan.
Một nhà quan sát ghi nhận : Từ đầu thập niên 1980 Trung Quốc không trực tiếp tham gia vào bất kỳ một cuộc xung đột vũ trang nào, nhưng nền công nghiệp quốc phòng của nước này không ngừng phát triển. Châu Phi là « sân chơi », là « phòng thí nghiệm » cho các nhà sản xuất Trung Quốc. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng về ngoại giao và chiến lược của Bắc Kinh đối với châu lục này vào lúc mà Bắc Kinh muốn hình thành một trật tự thế giới mới và lãnh đạo « khối các nước phương nam ».
Tất cả các yếu tố vừa nêu cho thấy, có lẽ ông Tập Cận Bình đã thành thật khi tuyên bố bang giao giữa Bắc Kinh và châu Phi « chưa bao giờ tốt đẹp như hiện tại ».
Mông Cổ là một quốc gia giàu tài nguyên thiên nhiên nằm sát cạnh hai ông khổng lồ là Nga và Trung Quốc. Láng giềng phương bắc của Ulaanbaatar là một trong những nguồn xuất khẩu khoáng sản phong phú và đa dạng nhất thế giới. Hàng xóm phương nam của Mông Cổ là nguồn tiêu thụ nguyên liệu lớn số 1 trên hành tinh. Vậy mà sự hiện diện của các tập đoàn khai thác Nga và Trung Quốc trên quê hương của Thành Cát Tư Hãn tới nay vẫn được coi là còn khiêm tốn.
Tài nguyên của Mông Cổ vẫn còn ngoài tầm kiểm soát của các nhà đầu tư Nga và Trung Quốc trong lúc mà các mỏ đồng, uranium và nhất là các kim loại hiếm rất được thế giới ưa chuộng vẫn còn đang được đợi để khai thác, đưa Mông Cổ trở thành một con Cọp châu Á bên cạnh con Rồng Trung Quốc hay con Gấu Nga.
Mông Cổ đang được ve vãnNgày 03/09/2024 tổng thống Nga bắt đầu chính thức viếng thăm Mông Cổ chỉ một tháng sau khi Ulaanbaatar tiếp ngoại trưởng Hoa Kỳ. Đầu tháng 7/2024 bên lề Hội Nghị Tổ Chức Hợp Tác An Ninh Thượng Hải diễn ra tại Astana, Kazakhstan, trong buổi làm việc với đồng cấp Mông Cổ, ngoại trưởng Trung Quốc nhấn mạnh Mông Cổ và Trung Quốc là hai quốc gia « không thể tách rời ».
Năm ngoái, tổng thống Emmanuel Macron thăm Mông Cổ ở cấp Nhà nước : Với diện tích rộng gấp ba lần so với Pháp, không có ngõ thoát ra biển, nằm kẹt giữa hai cường quốc hạt nhân là Nga và Trung Quốc, Mông Cổ có nguồn dự trữ lớn thứ nhì về uranium của thế giới và còn đợi được khai thác. Ngoài uranium được dùng để chế tạo bom nguyên tử và là lá chủ bài trong mọi chiến lược phát triển năng lượng hạt nhân, Mông Cổ còn có những hầm than, mỏ vàng, mỏ đồng .. mà nhiều « nước bạn » sẵn sàng cùng khai thác.
Trong cuộc chạy đua phát triển ô tô điện và các nguồn năng lượng sạch, phương Tây nhòm ngó đến các mỏ đất hiếm của Mông Cổ.
Sau nhiều thập niên chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, ngành công nghiệp khai thác quặng mỏ của Mông Cổ vẫn chưa cất cánh, thủ đô Ulaanbaatar vẫn chưa trở thành một trung tâm kinh doanh thịnh vượng như Dubai trong vùng thảo nguyên ». Nhưng không dễ đến gần các nguồn tài nguyên của Mông Cổ khi mà quốc gia này lệ thuộc đến 90 % vào năng lượng của Nga, đến 80 % hàng xuất khẩu từ Trung Quốc.
Nằm kẹt giữa Nga và Trung Quốc, nhưng Mông Cổ có hướng đi riêngTrên đài phát thanh quốc tế RFI Pháp ngữ, chuyên gia về địa chính trị nghiên cứu về Mông Cổ Antoine Maire nhấn mạnh đến một sự độc lập với cả Nga lẫn Trung Quốc trong đường lối phát triển của Ulaanbaatar.
« Mông Cổ là một ốc đảo nằm kẹt giữa Nga và Trung Quốc và có một sự tranh giành ảnh hưởng với Ulaanbaatar giữa hai nước láng giềng khổng lồ này. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để tồn tại được giữa hai siêu cường đó. Tuy nhiên có một sự đồng thuận trong giới lãnh đạo ở Mông Cổ để giới hạn ảnh hưởng của Nga và của Trung Quốc. Sự hiện diện ngay sát cạnh của hai nước lớn đó, cũng là một cái may cho Mông Cổ, vì đâu đó, Matxcơva và Bắc Kinh kềm hãm các tham vọng của lẫn nhau. Chung cuộc, vai trò của cả Nga và Trung Quốc đều không mang tính quyết định đối với Mông Cổ như mọi người thường nghĩ. Chính sách đối ngoại và chiến lược phát triển của Ulaanbaatar khá độc lập và đó là một sự khôn khéo của ngành ngoại giao Mông Cổ ».
Về phần giáo sư Jacques Legrand nguyên giám đốc Viện Ngôn Ngữ và Văn Minh Phương Đông INALCO – Paris, ông ghi nhận một bước nhẩy vọt trong đời sống của người dân Mông Cổ từ khi quốc gia này thoát khỏi cái bóng quá lớn của Liên Xô và nhất là tìm kiếm thêm những đối tác khác ngoài Bắc Kinh và Matxcơva để phát triển. Đối tác ở bên ngoài hai điểm tựa truyền thống là Nga và Trung Quốc ấy được giới trong ngành gọi tắt là « nước láng giềng thứ ba ».
« Đời sống của người dân Mông Cổ trong những thập niên gần đây đã đã có bước nhẩy vọt rất ngoạn mục. Dưới thời Liên Xô, công nghiệp khai thác quặng mỏ của Mông Cổ bị khống chế vì lòng tham của Matxcơva. Nhưng từ khi chế độ cộng sản cáo chung, Mông Cổ tìm lại được độc lập trong chính sách phát triển. Tiêu biểu nhất là ngay cả ở những vùng sâu, vùng xa, dân cư cũng đã có điều kiện để tiêu thụ rau quả tươi. Họ bắt đầu có điện nhờ pin mặt trời và có điều kiện sắm tủ lạnh, tủ đông đá… Tình trạng y tế đã tốt hơn hẳn... »
Trên con đường đi tìm một nước « láng giềng thứ ba », Mông Cổ đã đặc biệt chú ý đến Rio Tinto. Tập đoàn khai thác khoáng sản này của Úc qua trung gian một chi nhánh Canada này đã đầu tư vào mỏ Oyu Tolgoi cách không xa biên giới giữa Mông Cổ và Trung Quốc. Đây là coi là « mỏ vàng và đồng lớn nhất thế giới ». Một khi đi vào hoạt động, nửa triệu tấn đồng một năm đủ để sản xuất 6 triệu chiếc ô tô điện.
Phân quyền tránh tham nhũng và tránh bán rẻ tài nguyên quốc giaNhà nghiên cứu Antoine Maire nhắc lại khi Liên Xô sụp đổ Mông Cổ tiến hành một cuộc cách mạng kép : vừa tách rời khỏi quỹ đạo của Matxcơva vừa chuyển hướng theo mô hình dân chủ. Ngay từ cuối năm 1989 đầu năm 1990 Mông Cổ đã chấm dứt chế độ độc đảng, chuyển sang một mô hình chính trị đa nguyên. Mông Cổ cũng tránh tập trung quyền lực trong tay một vài chính trị gia nên đã thiên về chế độ nghị viện với 126 đại biểu Quốc Hội thay vì 78 người. Nhờ vậy mà Ulaanbaatar giảm thiểu được rủi ro guồng máy chính trị Mông Cổ bị một trong hai nước láng giềng quá lớn sát cạnh mua chuộc và tránh được cái bẫy bán rẻ tài nguyên cho một vài nhà đầu tư của Nga hay Trung Quốc. Chính vì thế mà tại mỏ than Talvan Tolgoi, chỉ cách biên giới Trung Quốc chưa đầy 200 km, ngoài tập đoàn Trung Quốc Shenhoa Energy, Mông Cổ đã cho phép tập đoàn Mỹ Peabody Energy và một đối tác Nga cùng vào hoạt động.
Nhưng trong bối cảnh hiện nay, như chuyên gia Pháp Antoine Maire nhận xét, căng thẳng về địa chính giữa Nga với nhiều nước phương Tây về Ukraina, rồi cuộc tranh hùng giữa hai siêu cường kinh tế thế giới là Trung Quốc, bài toán đối với Mông Cổ nan giải hơn :
« Mông Cổ có quyết tâm đa dạng hóa các đối tác để bớt phụ thuộc vào Bắc Kinh hay Matxcơva nhưng căng thẳng trong quan hệ giữa phương Tây với Nga và Trung Quốc – Matxcơva bị Âu Mỹ trừng phạt vì xâm chiếm Ukraina, cuộc đối đầu giữa Bắc Kinh và Washington khiến Nga và Trung Quốc khó chấp nhận để cho Mông Cổ đi tìm thêm các đối tác mới. Thêm vào đó thì Nga và Trung Quốc đã xích lại gần nhau đó cũng là một thách thức mới đối với Mông Cổ. Tuy nhiên đây cũng là một cơ hội bởi vì một phần giao thương giữa Nga và Trung Quốc phải đi qua Mông Cổ biến quốc gia này thành một ‘hành lang kinh tế’ (…) Chính trong khuôn khổ này mà Matxcơva và Bắc Kinh đã khởi động lại một dự án đường ống dẫn khí đốt Siberia2, nhưng tôi không tin là công trình này sớm đi vào hoạt động. Trên thực tế, không có nhiều dự án hợp tác kinh tế giữa Nga và Trung Quốc đi ngang qua Mông Cổ ».
Giáo sư Legrand lưu ý chẳng những Mông Cổ không hưởng lợi nhiều từ việc Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau, mà Ulaanbaatar cho đến nay vẫn bị Bắc Kinh bắt chẹt : là một khách hàng lớn mua vào khoáng sản của Mông Cổ nhưng khách hàng Trung Quốc mua than đá, đồng … của Mông Cổ với giá thấp hơn 30 % so với thị trường. Do vậy Ulaanbaatar không dại để hết cả trứng vào một giỏ :
« Đương nhiên sự gần gũi về địa lý và thế thượng phong về kinh tế của Trung Quốc có tác động đến Mông Cổ. Chẳng hạn như trào lưu phát triển công nghệ ô tô điện của Trung Quốc đẩy giá đồng trên thị trường kim loại lên cao. Mông Cổ có nhiều mỏ đồng nên cũng đã nghe ngóng tình hình và nắm bắt thời cơ mở rộng thị trường với Trung Quốc, bớt lệ thuộc vào Nga ».
Công luận Mông Cổ « nóng ruột » chờ phép lạ kinh tếMột thách thức lớn khác đặt ra cho các nhà lãnh đạo ở Ulaanbaatar là chiến lược phát triển dựa vào tài nguyên thiên nhiên, vào khoáng sản và đất hiếm sau gần 3 thập niên vẫn chưa mang lại kết quả mong muốn. Rất giàu tài nguyên nhưng hiện tại 30 % dân Mông Cổ vẫn sống dưới ngưỡng nghèo khó và quốc gia này vẫn chưa hóa thân thành một « Dubai của vùng thảo nguyên ». Mông Cổ từng kỳ vọng cũng sẽ phát triển nhanh như Hàn Quốc trong nửa cuối thế kỷ XX để trở thành một mắt xích công nghiệp của thế giới. Nhưng cho tới hiện tại, kinh tế Mông Cổ vẫn chưa cất cánh. Nhà địa chính trị Antoine Maire, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu về Mông Cổ giải thích :
« Đòn bẩy duy nhất để khởi động lại cỗ máy sản xuất và đem lại tăng trưởng cho Mông Cổ là khai thác khoáng sản. Trong mục tiêu đó, Ulaanbaatar cần thu hút đầu tư nước ngoài để định vị các mỏ dự trữ, thăm dò và khai thác. Mông Cổ cần các phương tiện tài chính để mở mang các công trường … Bên cạnh đó, thì cũng phải kiểm soát các khoản đầu tư của các đối tác ngoại quốc tránh để một vài tập đoàn của Trung Quốc, của Nga hay bất kỳ một quốc gia nào khác thâu tóm các nguồn tài nguyên quốc gia. Có điều mảng công nghiệp khai thác khoáng sản của Mông Cổ đầy tiềm năng và hứa hẹn nhiều, nhưng vẫn chưa đem lại những thành quả cụ thể. Mông Cổ vẫn chưa bứt phá để trở thành một con Cọp kinh tế của châu Á. Công luận nước này khá bức xúc ».
Biết đâu tiến trình chuyển đổi năng lượng hiện nay của phương Tây và kèm theo đó là nhu cầu tiêu tụ về đất hiếm để sản xuất ô tô điện, pin mặt trời hay chip điện từ là một cơ hội bằng vàng để Mông Cổ tăng tốc phát triển khoáng sản, thực hiện giấc mơ trở thành một cường quốc công nghiệp của thế kỷ 21.
Tăng trưởng và đà bật dậy của nền Trung Quốc là nỗi ám ảnh người giàu nhất hành tinh, tỷ phú người Pháp Bernard Arnaud, ông vua không ngai của ngành thời trang hạng sang và của nền công nghiệp de luxe trên thế giới. Chỉ một mình Trung Quốc đem về hơn 30 % doanh thu cho LVMH ông điều hành. Trong 2 quý đầu năm 2024 mức lãi của công ty giảm mạnh, do yếu tố Trung Quốc.
Ngành thời trang de luxe, nói riêng, nền công nghiệp hạng sang của Pháp nói chung quy tụ 4 đại tập đoàn (LVMH, Kering, Hermès và L’Oréal) chiếm hơn 1/3 trị giá trong số 40 tập đoàn hàng đầu tham gia thị trường chứng khoán Paris. Đây cũng là một con gà đẻ trứng vàng, đem về 5 % GDP cho nước Pháp. Châu Á và Mỹ là hai thị trường lớn nhất của những nhãn hiệu nổi tiếng, từ các nhà may Givenchy đến Chanel hay Dior, từ hãng rượu champagne Moët & Chandon đến hiệu kim hoàn và đồng hồ Cartier, từ hãng mỹ phẩm L’Oréal đến hiệu nước hoa Guerlain… Hầu hết trong số này lệ thuộc đến hơn 30 % vào các khách hàng của Trung Quốc. 80 % các sản phẩm như túi xách, giày da, thắt lưng, hay khăn quàng cổ của Hermès đều dành để xuất khẩu. Theo thẩm định của cơ quan tư vấn trong ngành thời trang hạng sang Bain&Compagny, trước khi đại dịch Covid bùng phát, 33 % thị trường hàng xa xỉ trên thế giới « đổ về » Hoa Lục và Hồng Kông.
Trả lời đài truyền hình Pháp France24, Bruno Lavagna tác giả cuốn sách mang tự đề Géopolitique de Luxe – Địa chính trị của ngành công nghiệp hạng sang (NXB Eyrolles) nhận định : châu Á, mà dẫn đầu là Trung Quốc, đang trở thành tâm điểm của thế giới.
« Nhìn lại lịch sử, khái niệm hàng hạng sang « de luxe » không mang tính toàn cầu, vì mỗi người, mỗi nền văn hóa họ có cái nhìn riêng về thế nào là hàng sang, thế nào là hàng cao cấp… Tuy nhiên có một khác biệt rất lớn, đó là châu Âu, mà đứng đầu là Pháp và Ý đã tạo nên được cả một mảng công nghiệp hạng sang uy tín và được cả thế giới ưa chuộng. Đó là nhờ vào chính sách quảng bá rất mạnh, qua các tổ chức tập hợp các nhà sản xuất hàng cao cấp. Ở Pháp thì có Comité Colbert, Ý thì có quỹ Antagalma. Rất nhiều những nhãn hiệu nổi tiếng của Pháp, của Ý lừng danh trên thế giới. Hiện tại thị trường chính trong lĩnh vực này đang nằm ở châu Á, bắc Mỹ. Tương lai có phần nghiêng nhiều hơn nữa về châu Á ».
Trung Quốc, « el dorado » của các nhà thời trang PhápCho đến năm 2013 nhu cầu tiêu thụ hàng hạng sang của Trung Quốc tăng đều đặn hơn 10 % một năm, trước khi bứt phá với kỷ lục 37 % trong năm 2019. Chẳng ngờ trong thời gian Trung Quốc đóng cửa để chống dịch, năm 2020 vào lúc mà kinh tế toàn cầu lao đao, châu Âu và Hoa Kỳ, và toàn châu Á bị phong tỏa thì người Trung Quốc tiếp tục mua sắm hàng cao cấp. Tăng trưởng trong lĩnh vực này tại Trung Quốc là 46-47 % trong một năm.
Trên sàn chứng khoán Paris, trong năm 2020-2021 cổ phần của Hermès tăng 37 %, của LVHM tăng 32 %.
Cựu giáo sư trường cao đẳng kinh doan HEC của Pháp, Jean-Noel Kapferer trên đài truyền hình France24 giải thích hiện tượng này như sau : do Trung Quốc đóng cửa chống dịch, như tất cả mọi người, tầng lớp giàu có tại Trung Quốc bị cấm đi lại, cấm du lịch trong nước bị cấm ra nước ngoài, mọi thú tiêu khiển ở những nơi công cộng đều phải đóng cửa… niềm an ủi của tầng lớp trung lưu trở lên trong xã hội Trung Quốc là mua hàng trên mạng với khuynh hướng dùng hàng tốt. Một nghiên cứu sau dịch Covid-19 cho thấy có đến 50 % người Trung Quốc có nhu cầu mua hàng xa xỉ.
Martin Meunier, sáng lập viên hãng Valet de Pique chuyên sản xuất túi xách tay bằng da ngạc nhiên là ngay sau đại dịch, đơn đặt hàng trong hãng ông điều hành đã được nhân lên gấp ba.
Bénédicte Sabadie đặc trách về lĩnh vực hàng hạng sang thuộc cơ quan tư vấ Deloitte không ngạc nhiên trước hiện tượng này :
« Ngành thời trang hạng sang là một lĩnh vực đặc biệt luôn có sức kháng cự rất tốt và cũng có khả năng bật dậy rất nhanh để thoát khỏi khủng hoảng. Đây là một khuynh hướng lâu bền, bởi vì thời nào cũng vậy và ở bất cứ nơi nào trên thế giới, người ta vẫn có nhu cầu tiêu thụ hàng cao cấp »
Trong chiều hướng đó, tập đoàn Pháp LVMH thông báo tuyển dụng thêm 7.500 nhân viên. LVMH hiện diện trong 6 lĩnh vực khác nhau như ngành thời trang, mỹ phẩm, kim hoàn, rượu champagne, rượu mạnh… và bao gồm các nhãn hiệu nổi tiếng như Louis Vuitton, Dior, Givenchy, Kenzo, Moët & Chandon, Henessy…
Cũng trong thời gian 2020 và cho đến tận hiện tại, tỷ phú Pháp Bernard Arnaud qua mặt các đại gia người Mỹ như Elon Musk, Jeff Bezos hay Mark Zuckerberg… để trở thành người giàu nhất hành tinh. Tài sản cá nhân của ông lên tới 207 tỷ euro và cũng Bernard Arnaud đứng đầu một đại tập đoàn có trị giá hơn 400 tỷ, mà gần một nửa trong đó là vốn của gia đình ông.
Vào lúc các nhà đầu tư và doanh nhân thế giới thất vọng là kinh tế Trung Quốc không phục hồi nhanh và mạnh như mong đợi thì riêng ngành công nghiệp hạng sang vẫn được bình an, ít ra là cho đến cuối 2023.
Nhưng gió đã xoay chiều : trong hai quý đầu năm 2024, thị trường Trung Quốc có khuynh hướng tăng chậm lại. Lãi của LVMH trong quý 1/2024 giảm 14 % so với 3 tháng trước đó.
Báo cáo của Bain&Company được công bố mùa xuân vừa qua nêu bật một số lý do như sau : Bên cạnh hiện tượng khủng hoảng địa ốc tại Hoa Lục kéo dài, tỷ lệ thất nghiệp của thanh niên vượt ngưỡng 20 %, thì chính sách « đả hổ diệt ruồi » chống tham nhũng của ông Tập Cận Bình ngày càng khiến các đại gia Trung Quốc lo sợ. Không còn mấy ai dám mạnh dạn mua hàng đắt tiền để khoe khoang hay quà cáp.
Đầu năm nay, doanh thu của LVMH tại châu Á, ngoại trừ Nhật Bản, giảm 6 %. Trong trường hợp khả quan nhất, nhu cầu tiêu thụ hàng hạng sang ở Trung Quốc trong năm 2024 cũng chỉ tăng 4 % là cùng. Đã xa rồi thời kỳ tiêu thụ ở Hoa Lục và Hồng Kông tăng 30-40 % một năm.
Dân Trung Quốc nghèo đi hơnMột thống kê của Trung Quốc cho thấy trong năm 2022 « tầng lớp những người cực giàu ở Trung Quốc - với tài sản hơn 30 triệu đô la - bị giảm đi mất 7 % » so với hồi trước đại dịch Covid. Đáng lo ngại hơn nữa, « đây mới chỉ là điểm khởi đầu » khi mà người dân Trung Quốc có thói quen đầu tư 70 % của cải vào địa ốc và đang trông thấy tài sản của họ « tan như tuyết dưới ánh nắng mặt trời ».
Thêm vào đó, chỉ số chứng khoán trên các thị trường ở Thượng Hải, Thâm Quyến hay Hồng Kông đều giảm mạnh từ hơn một năm nay.Trong hoàn cảnh đó những thành phần có tiền, đã tìm cách đầu tư ở nước ngoài, với những điểm đến dễ dàng như Singapore và trong một chừng mực nào đó là tại Nhật Bản.
Tuy nhiên sự đình đốn của nền kinh tế số 2 toàn cầu cũng như chính sách kinh tế của Trung Quốc không giải thích tất cả những khó khăn mà nhiều hãng hiệu hạng sang của Pháp đang vấp phải.
Một nền công nghiệp hạng sang Trung Quốc đang hình thành
Bruno Lavagna, nói đến một sự cạnh tranh trực tiếp xuất phát từ những nhãn hiệu de luxe made in China. Ngành công nghiệp hạng sang không là một ngoại lệ : người Trung Quốc học hỏi rất nhanh, nhất là khi lại được chính những chuyên gia về marketing hàng đầu của Pháp và châu Âu tiếp sức :
« Các hãng Trung Quốc dựa vào những bí quyết của châu Âu và mời một chuyên gia trong ngành thời trang hạng sang của châu Âu về điều hành tập đoàn. Thí dụ như trong trường hợp của Shang Xia, nhãn hiệu này nổi lên từ 2007 và là một phiên bản Trung Quốc của nhà thời trang rất cao cấp Hermès. 90 % vốn của Shang Xia thuộc về Hermès, bởi tập đoàn thời trang hạng sang này của Pháp ý thức rằng túi xách tay kiểu Kelly hay Birkin (mang tên những ngôi sao điện ảnh nổi tiếng người Mỹ và người Anh) rất được khách hàng Trung Quốc yêu thích, nhưng tại sao lại không nghĩ đến việc cung cấp những sản phẩm hạng sang 100 % mang sắc mầu Trung Quốc ? Chính vì thế mà Hermès nảy sinh ý tưởng đưa những nét đặc thù của Trung Quốc vào thời trang, thí dụ như khai thác cổ áo vét kiểu Mao, hay đồ gốm Trung Quốc… Trái lại thì cũng có những nhãn hiệu là do Trung Quốc phát triển. Tôi muốn nói đến Icicle. Đây là một thương hiệu 100 % vốn Trung Quốc, do các nhà tạo mẫu và thời trang Trung Quốc điều hành với khẩu hiệu là Made in Earth. Họ dùng toàn những chất liệu tự nhiên. Nhưng họ cũng cần có một nhà lãnh đạo người châu Âu để vươn ra quốc tế và thậm chí là nhắm tới các thị trường phương Tây. Đừng quên rằng Icicle có cửa hàng ở đại lộ George V, một trong những trục lộ sang trọng nhất ở khu tam giác vàng Paris. Nhãn hiệu Trung Quốc này cần cắm rễ vào châu Âu ».
Trong số những tập đoàn hạng sang của Trung Quốc bắt đầu nổi lên, thì phải kể đến hai nhà kim hoàn Chow Tai Fook và Queelin, đến hãng sản xuất rượu quý Moutai với trị giá của tập đoàn nay đã lên tới 12 tỷ đô la, tương đương với hãng xe hơi Đức BMW. Nhãn hiệu thời trang Icicle thì một chiếc áo thun rất tầm thường hay một chiếc ví da khá nhỏ được bán ở Paris với giá vài ngàn euro, đắt không kém hàng Louis Vuitton hay Céline.
Cũng ông Lavagna, tác giả cuốn sách nói về yếu tố địa chính trị trong lĩnh vực hàng hạng sang, cho rằng các mặt hàng xa xỉ là một công cụ ngoại giao mà bất kỳ một quốc gia nào cũng có thể dùng để gây sức ép hay để mặc cả với các đối tác.
Tháng 5/2024 khi chủ tịch Tập Cận Bình công du nước Pháp, mọi chú ý đã hướng về thông báo của Bắc Kinh về việc Trung Quốc có đánh thuế nhắm vào rượu mạnh cognac và armagnac của Pháp hay không. Đây là một đòn răn đe và trừng phạt Paris, đầu tàu của Liên Hiệp Châu Âu, nếu Bruxelles mạnh tay đánh thuế ô tô điện của Trung Quốc nhập cảng vào thị trường chung châu Âu.
Lên cầm quyền hôm 05/07/20214, thủ tướng Keir Starmer bên Công Đảng cam kết đưa đất nước ra khỏi 14 năm « hỗn loạn » dưới các chính quyền của phe bảo thủ. Một trong những việc cần làm đầu tiên là sưởi ấm quan hệ với Liên Hiệp Châu Âu, đặc biệt là với Pháp sau nhiều năm nguội lạnh vì Brexit.
Sang Washington dự thượng đỉnh NATO, tân thủ tướng Anh trấn an Hoa Kỳ là Luân Đôn khởi động lại bang giao với Liên Hiệp Châu Âu trong bối cảnh an ninh toàn châu Âu bị Nga đe dọa từ khi khởi động chiến tranh Ukraina. Ngày 18/07/2024, trong cương vị chủ nhà, trước khi tiếp lãnh đạo gần 40 quốc gia châu Âu đến Luân Đôn dự hội nghị Cộng Đồng Chính Trị Châu Âu, cũng ôngg Starmer tiếp riêng tổng thống Pháp, Emmanuel Macron. Luân Đôn và Paris nhất trí tăng cường các mối hợp tác trên những hồ sơ then chốt. Đứng đầu trong số đó là chính sách phòng thủ và hồ sơ gai góc về nhập cư.
Sang trang Brexit vì quyền lợi của nước AnhVào lúc công luận Anh càng lúc càng có vẻ ân hận đã rời xa Liên Âu, thủ tướng Starmer báo trước ông không có ý định trở lại với mái nhà chung châu Âu, với thị trường chung châu Âu và liên minh thuế quan châu Âu. Nhưng 4 năm sau khi chính thức « bước ra khỏi » Liên Hiệp Châu Âu, khối 27 thành viên vẫn là đối tác thương mại quan trọng nhất của Anh Quốc, chiếm gần 50 % tổng trao đổi mậu dịch của nước Anh với phần còn lại của thế giới. Luân Đôn khép lại thời kỳ sóng gió và chấm dứt giai đoạn đối đầu với Bruxelles để hướng tới một mối bang giao hài hòa hơn, có lợi cho cả đôi bên. Trước hết là giảm nhẹ bớt một số những thủ tục cản trở giao thương giữa Anh và Liên Âu.
Thông tín viên Nguyễn Giang từng làm việc tại Luân Đôn và hiện đang công tác ở Singapore trước hết cho biết cụ thể là quá trình Brexit đã đặt ra những khó khăn nào cho các doanh
Nguyễn Giang : « Sau khi Anh chính thức ra khỏi Liên minh thuế quan với Liên hiệp châu Âu (EU) từ ngày đầu tiên của năm 2021 -một trong nhiều điều kiện phải thực hiện sau thỏa thuận ly hôn Brexit – các tác động của quá trình này về thương mại, nguồn lao động và đầu tư mới bắt đầu có tác động xấu tới các ngành kinh tế Anh. Tuy thế, không dễ đánh giá riêng tác động của việc mất đi nguồn trao đổi mậu dịch 550 tỷ bảng Anh, bằng 670,5 tỷ euro một năm, của Anh với Liên Âu, vì ngay sau đó thì còn đại dịch Covid và khủng hoảng năng lượng toàn châu Âu sau cuộc chiến Nga xâm lăng Ukraine đầu năm 2022.
Tác động xấu thứ nhất là nguồn đầu tư vào Anh. Theo viện nghiên cứu UK in a Changing Europe, so với năm 2016, đầu tư nước ngoài vào Anh đáng nhẽ ra phải cao hơn thời điểm hai năm sau Brexit là 25%. Thế nhưng nó đã không cao như vậy và tỷ phú Anh, Sir Richard Branson cho rằng các giấy tờ, quy định mới sau Brexit “cản trở đầu tư nước ngoài”, dù quan điểm của ông bị một số thinktank khác nói là không đúng.
Tác động trực tiếp nữa của Brexit là nguồn lao động và nhân lực có tay nghề từ Liên Hiệp Châu Âu giảm hẳn đi, thấy rõ trong dịch vụ y tế công, các ngành xây dựng và buôn bán lẻ. Trung tâm nghiên cứu và tư vấn mang tên Centre for European Refor” nêu con số thị trường lao động Anh thiếu đi 330 nghìn nhân công từ EU sau hai năm thực hiện Brexit ».
Cái bóng của EU vẫn quá lớnRFI : Nhìn rộng ra hơn thì sau gần 4 năm thực sự có hiệu lực, việc ra khỏi Liên Hiệp Châu Âu có lợi gì không cho kinh tế của Anh hay không. Đồng thời vì không còn thị trường 27 nước trong khối này nữa nên Luân Đôn đã mở rộng quan hệ thương mại với các đối khác nhưng hiệu quả đến đâu thưa anh ?
Nguyễn Giang : « Tác động bao trùm của Brexit là sự ngưng trệ về mậu dịch quốc tế ngay sau khi thực hiện Brexit từ đầu 2021. Anh ký liên tiếp gần 80 hiệp định thương mại tự do với các nước khác, để bù vào lỗ hổng mậu dịch với EU nhưng đa số các hiệp định mới này, như với Việt Nam, chỉ là bản sao của hiệp định Anh có với các nước kia khi còn là thành viên Liên Âu, chứ không đem lại ưu thế gì mới.
Quan trọng nhất là Hoa Kỳ không ký hiệp định tự do mậu dịch với Anh, còn các hiệp định với Úc và New Zealand chỉ bù lại không đáng kể phần mất đi từ quan hệ thương mại với láng giềng lớn là Liên Âu. Hai hiệp định này không chỉ cần nhiều năm mới phát huy tác dụng tốt cho kinh tế Anh, mà còn tác động xấu ngay lập tức là đe dọa nhà nông Anh bán các hàng tương tự với hàng Úc và New Zealand ra thị trường, ví dụ thịt cừu, sữa bò. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Anh đều bối rối với các thay đổi về luật lệ, giấy tờ xuất nhập khẩu trong hoàn cảnh mới.
Tuy thế, ngoài mối lợi cho các nhà xuất khẩu nông sản Anh, trị giá chừng 5 tỷ bảng (5,88 tỷ euro), theo một đánh giá của giới kinh tế Anh mà BBC đăng tải hồi tháng 1/2023, thì nhìn chung bài toán Brexit gây thiệt hại cho nước này ».
EU không còn là một đối thủRFI : Anh Quốc vừa có chính phủ mới, Công Đảng trở lại cầm quyền sau 14 năm. Tân thủ tướng Keir Starmer đã tổ chức hội nghị Cộng Đồng Chính Trị Châu Âu ngay trong những ngày đầu nhiệm kỳ. Đó là dấu hiệu Luân Đôn muốn thắt chặt trở lại quan hệ với châu lục với Liên Hiệp Châu Âu nói riêng từ sau Brexit trong nhiều lĩnh vực chứ không chỉ riêng gì vế kinh tế và thương mại.
Nguyễn Giang : « Chính phủ của Sir Keir Starmer đã làm được một việc là thay đổi ngôn từ về EU, từ chỗ Anh coi EU như đối thủ xấu xa thời đảng Bảo thủ cầm quyền, tới chỗ Luân Đôn nhìn nhận thực tiễn về Liên Âu, bỏ cách ứng xử mang tính đối đầu.
Tuy thế, chưa có nhiều chính sách cụ thể của tân chính phủ Anh về quan hệ với EU. Trong cương lĩnh tranh cử của Công đảng có ghi mục tiêu là làm sao Anh giảm nhẹ việc kiểm soát biên giới về thuế quan cho hàng thực phẩm, nhằm giúp giảm giá cả hàng ăn, đồ uống từ EU xuất khẩu vào Anh Quốc tăng lên. Trên thực tế thì chi phí thuế quan đã khiến các mặt hàng này tăng 6% so với giai đoạn trước Covid nhưng cũng khó đánh giá cụ thể là vì thương mại với EU bị gián đoạn bởi Brexit, hay vì lạm phát tại Anh từ 2022 sang 2023 tăng vọt do giá xăng dầu quốc tế tăng.
Công đảng cũng muốn giải quyết các việc nhỏ, đỡ cho các nghệ sĩ Anh đi trình diễn ở EU phải xin nhiều giấy phép, hay mong có thừa nhận song phương về bằng cấp, về quy trình kiểm tra thú y, về miễn visa ngắn hạn cho các chuyến học sinh dã ngoại hai bên, tức là những điều không quá quan trọng.
Điều cần làm nhất là làm sao đặt Anh vào một quan hệ thương mại tương đồng nhất có thể về các tiêu chuẩn, thủ tục xuất nhập khẩu với EU, nhưng quan chức EU chưa ngỏ ý sẵn sàng về một quy chế đặt thù nào cho Anh cả.
Tính đến tháng 7 năm nay, Anh chưa đả động gì về chuyện có mở lại, xem xét thỏa thuận mậu dịch với EU (UK-EU Trade Cooperation Agreement) hay là không. Hai bên cũng chưa thể nào xem xét việc này khi Liên Hiệp Châu Âu sau bầu cử Nghị viện chưa chọn ra tân lãnh đạo mảng thương mại. Và giả sử hai bên có đồng ý xem xét thỏa thuận thương mại trụ cột của Brexit này thì đàm phán sẽ phải kéo dài ít nhất tới 2026.
Trước mắt, Anh nhấn mạnh vào việc thiết lập một cơ chế hợp tác chặt về an ninh- quốc phòng với EU, theo lời tân Bộ trưởng Ngoại giao David Lamy trong chuyến thăm châu Âu tháng 7 vừa qua. Ông Lamy cũng nói hợp tác tạo niềm tin trong mảng quốc phòng, rồi mảng năng lượng, sẽ tạo đà cho các cuộc nói chuyện tiếp. Về hợp tác giáo dục, trước khi Công đảng lên cầm quyền, Anh và EU đã ký thỏa thuận tái hợp tác đầu tư khoa học mang tên Horizon (Chân Trời) trị giá 95,5 tỷ euro, có hiệu lực tới 2027 để các viện nghiên cứu, các đại học lớn Anh-EU trao đổi và cùng đầu tư vào nghiên cứu. Nay, Anh hy vọng chương trình trao đổi sinh viên Erasmus sẽ được đem ra bàn thảo vào năm 2025, thậm chí phục hồi. Thế nhưng các nước thành viên của Liên hiệp Vương quốc Anh lại có các ý tưởng riêng. Xứ Wales muốn có chương trình mang tên Taith thay cho Erasmus, Scotland có tính toán khác và ở xứ Anh có dự án gọi là Erasmus Plus Alliance nhưng chỉ mang tính vận động cho trao đổi sinh viên với EU, không phải cơ quan chính phủ. Bắc Ireland thì trên thực tế vẫn đang hưởng quy chế của Erasmus cho Cộng hòa Ireland trên cùng hòn đảo nên không phải lo chuyện này ».
« Reset » quan hệ với Bruxelles cả về kinh tế thương mại để giảm bớt căng thẳng về lạm phát cho người dân Anh ; sưởi ấm quan hệ với Liên Âu và nhất là với Pháp để ngăn chận các làn sóng nhập cư trái phép vào Anh Quốc, vào lúc mà chủ đề này nuôi dưỡng các phong trào cực hữu bài ngoại trên đất Anh ; khởi động lại quan hệ với các đối tác châu Âu trong bối cảnh an ninh của châu lục này đang bị đe dọa vì cuộc chiến Ukraina : Đó là những mục tiêu mà thủ tướng Keir Starmer đang nhắm tới trong 100 ngày đầu nhiệm kỳ.
Ngành công nghiệp quốc phòng Pháp đang thuận buồm xuôi gió. Với nhiều lợi thế, các nhà sản xuất của Pháp đang dẫn đầu cuộc đua tại châu Âu nhưng còn nhiều thách thức để giữ được vị trí « số 2 » trong số các nhà xuất khẩu vũ khí cho thế giới.
Theo báo cáo của Viện Nghiên Cứu Hòa Bình Bình Quốc Tế SIPRI công bố tháng 3/2024, trong giai đoạn 2019-2023, Pháp thay thế Nga để trở thành nhà xuất khẩu vũ khí thứ nhì trên thế giới, chiếm 11 % thị phần - nhưng vẫn thua xa Hoa Kỳ (42 %). Trong cùng thời kỳ, khối lượng vũ khí châu Âu mua vào đã tăng lên gần gấp đôi (tăng 94 %) dưới tác động của chiến tranh Ukraina từ đầu 2022. Cũng vì chiến tranh Ukraina mà ngân sách quốc phòng của Pháp tăng mạnh : luật tài chính dành cho các khoản chi tiêu quân sự trong giai đoạn 2024-2030 tăng 22 %, vượt quá 413 tỷ euro. Cũng lần đầu tiên Pháp dành đến đến 2% GDP cho ngân sách quốc Phòng, hưởng ứng kêu gọi của NATO.
Những nỗ lực đầu tư vào công nghiệp quốc phòng của Pháp từ gần ba năm qua đã bắt đầu được trông thấy nhân Hội Chợ Quốc Tế về Quốc Phòng và An Ninh Eurosatory 2024 hồi tháng 6 vừa qua. Trả lời RFI tiếng Việt đại tá Sandoz đã rất hãnh diện giới thiệu lớp xe bọc thép bánh lốp Scorpion đời mới, bắt đầu phục vụ cho bên Bộ Binh, hiện đã có 700 chiếc đang từng bước được triển khai.
« Thế hệ xe thiết giáp đời mới được cải thiện về mặt lưu động, về hệ thống bọc thép, khả năng can thiệp tinh tế và sắc bén hơn. Chúng được trang bị những công cụ kết nối để có thể hợp tác và chia sẻ thông tin gần như trực tiếp với các xe đang thi hành cùng một nhiệm vụ. (…) Trong lớp Scorpion, có các loại Griffon, Serval và Jaguar : Griffon chủ yếu được dùng trong công tác vận chuyển quân và để quan sát. Chúng được trang bị pháo cối có tầm bắn đến gần 10 km. Thiết giáp Serval gần tương đương với dòng Griffon nhưng tương đối nhẹ hơn một chút và thường được dùng trong các đơn vị pháo binh, bên công binh và cả ở khâu chỉ huy. Cuối cùng, dòng Jaguar có trang bị hệ thống súng đa nòng 40 mm. Cũng từ thiết giáp Jaguar có thể phóng đi tên lửa nhắm tới các mục tiêu ở cách xa 4 km »
Khi chiến tranh lạnh kết thúc với việc bức tường Berlin sụp đổ năm 1989 châu Âu tưởng chừng không còn cần đầu tư quá nhiều cho lĩnh vực quân sự. Suốt 20 năm đầu thế kỷ 21, các cuộc xung đột diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới, những vụ tấn công khủng bố ngay trên châu lục cũng không làm các nhà cầm quyền của châu Âu nao núng.
Trái hẳn với Hoa Kỳ hay Trung Quốc, nhiều thành viên trong Liên Hiệp Châu Âu vẫn tiếp tục cắt giảm ngân sách quốc phòng. Năm 2016 khi Donald Trump lên cầm quyền, dọa rút Mỹ ra khỏi NATO, đòi các thành viên trong Liên Minh Bắc Đại Tây Dương tăng ngân sách phòng thủ. Kêu gọi của tổng thống Pháp Emmanuel Macron xây dựng một « chính sách phòng thủ chung châu Âu » từ 2017 không được một ai hưởng ứng.
Một nền kinh tế phục vụ chiến tranh ?Phải đợi đến tháng 2/2022 Nga đưa quân xâm chiếm Ukraina, chiến tranh diễn ra ngay sát cạnh cửa ngõ Liên Hiệp Châu Âu, căng thẳng giữa Matxcơva với NATO không ngừng gia tăng, Paris lại lên tuyến đầu cho rằng đã đến lúc châu Âu cần huy động các nguồn lực kinh tế chuẩn bị đối phó với chiến tranh. Emmanuel Macron nói đến một nền « kinh tế chiến tranh ». Trả lời đài truyền hình France 24 tướng Patrick Dutartre, cựu phi công Không Quân Pháp, trước hết giải thích thế nào là khái niệm « một nền kinh tế chiến tranh »
« Đây trước hết là việc tập hợp các doanh nghiệp trong lĩnh vực quốc phòng, bao gồm luôn cả chính sách khuyến khích các công ty của Pháp quay trở lại nguyên quán. Tạo điều kiện để sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự với những khối lượng lớn, tức là sản xuất nhiều hơn, nhanh hơn và vẫn phải chú trọng đến chất lượng cao. Cho đến hiện tại, Pháp không thể sản xuất nhiều nhưng hàng Pháp luôn được đánh giá cao và rất được ưa chuộng. Các đối tác của chúng tôi, nhất là Ukraina, rất bằng lòng khi mua vũ khí của Pháp ».
Trước mắt, sau khi chuyển giao vũ khí cho Ukraina từ đầu năm 2022 Pháp cần « tạo dựng lại » các kho vũ khí, đạn dược đã vơi đi, cần sản xuất nhiều hơn các phụ tùng sử dụng trong ngành công nghiệp quốc phòng. Tuy nhiên các chuyên gia về quân sự cũng lưu ý rằng, trong trường hợp hiện tại, nói rằng đặt nước Pháp trong tình trạng của một nền kinh tế chiến tranh là không chính xác.
Không thể nói tới một nền kinh tế chiến tranh với 2 % GDP dành cho ngân sách quốc phòng.
Bởi thứ nhất Pháp không trực tiếp phải đối mặt với một cuộc « xung đột vũ trang ở cường độ cao ». Paris yểm trợ Kiev về tài chính, về quân sự, đào tạo cho các quân nhân Ukraina, cung cấp vũ khí đủ loại giúp Ukraina giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ nhưng Pháp không trực tiếp tham gia vào cuộc chiến mà ông Vladimir Putin đang tiến hành.
Điểm quan trọng thứ nhì là một nền « kinh tế chiến tranh » đòi hỏi cả một sự tổ chức lại trong xã hội và các hoạt động kinh tế chỉ để phục vụ mục tiêu quân sự. Điều đó cũng có nghĩa là các nhu cầu tiêu thụ trong cuộc sống hàng ngày của người dân bị đẩy vào hàng thứ yếu. Hiện tại, kịch bản này không xảy ra.
Lý do thứ ba chưa thể nói là Pháp đã hay đang tiến tới một nền kinh tế chiến tranh do tỷ lệ GDP huy động vì mục tiêu phòng thủ vẫn còn rất thấp. Đành rằng Paris tăng 15 % ngân sách quốc phòng, nhưng trước đó, « trong gần 60 năm liên tiếp, Pháp đã cắt giảm chi phí quân sự ». Cho dù hy sinh nhiều khoản chi tiêu khác để tăng cường khả năng phòng thủ, nhưng mãi đến tháng 4/2024 ngân sách quân sự của Pháp mới đạt ngưỡng 2 % GDP.
Để so sánh, trong Thế Chiến Thứ Nhất (1914-1918) Paris huy động từ 15 đến 20 % tổng sản phẩm nội địa để tài trợ chiến tranh. Trong Thế Chiến Thứ Hai (1939-1945) nỗ lực quân sự của Hoa Kỳ chiếm tới 40 % GDP, còn đối với Đức là 75 %. Hiện tại chỉ có Ukraina phải huy động 1/3 các nguồn lực kinh tế để đương đầu với đội quân của Nga. Trong lúc bản thân Matxcơva cũng chỉ dành có 6 % GDP để tài trợ « chiến dịch quân sự đặc biệt tại Ukraina ».
Khủng hoảng do lớn quá nhanh ?Từ khi Ukraina bị Nga xâm chiếm, viện trợ quân sự của Paris cho chính quyền Kiev lên tới 2,7 tỷ euro, thấp hơn rất nhiều so với Mỹ nhưng không thể phủ nhận là các nhà sản xuất của Pháp nói riêng, của châu Âu nói chung, hoạt động « với công suất tối đa ». Mặt trái của đồng tiền là 30 % các nhà máy trong ngành công nghiệp quốc phòng của Pháp gặp khó khăn trong việc mua nguyên và nhiên liệu, đặc biệt là mua kim loại hiếm và phụ tùng điện tử. Không ít trong số này lo ngại chuỗi sản xuất bị gián đoạn vì thiếu hàng.
Nhà báo Anne Bauer của tờ Les Echos, chuyên theo dõi các hồ sơ về công nghiệp quốc phòng lưu ý : để hoàn thành mục tiêu « huy động kinh tế phục vụ cho chiến tranh » các tập đoàn sản xuất vũ khí của Pháp cần vượt qua một số điều kiện tiên quyết :
« Để sản xuất nhiều và nhanh đòi hỏi một số điều kiện : một là ngành công nghiệp quốc phòng của Pháp phải có đủ dự trữ nguyên liệu, hai là phải xây dựng lại các nhà máy, các chuỗi lắp ráp để sản xuất theo số nhiều và ba là phải nhanh chóng tuyển dụng thêm nhân viên, thậm chí là sản xuất ngày đêm với ba ê-kíp và mỗi nhóm làm việc 8 tiếng một ngày. Công suất của tập đoàn Nexter chế tạo hệ thống pháo tự hành Caesar đã được nhân lên gấp đôi và sắp tới là gấp 3 hay gấp 4 từ nay đến cuối năm. Điều đó đòi hỏi tập đoàn này phải đào tạo nhân công … và đó là cả một hệ thống mà chúng ta cần phải khởi động lại ».
Nền tảng vững chắc nhưng Pháp vẫn là một chú lùnKhông phải tình cờ mà Pháp vươn lên hàng thứ 4, rồi thứ 3 và tạm thời là thứ 2 thế giới trong số các nguồn xuất khẩu vũ khí của thế giới. Các chuyên gia nói đến một « mạng lưới công nghiệp vững chắc » với 9 đại tập đoàn như Airbus Defense, Thales, Nexter hay Arquus, Dassault … với trên dưới 4.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong số đó có đến hơn ¼ thuộc diện « chiến lược ». Hơn 210.000 nhân viên Pháp làm việc trong ngành quốc phòng, doanh thu trong ngành lên tới hơn 30 tỷ euro, trong đó 12 tỷ là nhờ vào xuất khẩu.
Nhưng nếu như so sánh với cỗ máy sản xuất vũ khí và thiết bị quân sự của Hoa Kỳ thì Pháp vẫn là một chú lùn. Vào lúc Hoa Kỳ chiếm 42 % thị trường trên thế giới, Pháp đang hoạt động hết công sức mới chỉ dành được có 11 % thị phần quốc tế, mà đó là nhờ Nga vắng mặt từ khi bị quốc tế trừng phạt và vũ khí của Nga ưu tiên được điều sang chiến trường Ukraina.
Về phía Trung Quốc thì nước này sản xuất trước hết là để phục vụ nhu cầu nội địa và mới chỉ rụt rè vươn ra thế giới và hàng « made in China » chưa tạo được uy tín lớn với « bên ngoài ». Do vậy theo tướng Patrick Dutartre nền công nghiệp quốc phòng của Pháp là đầu tàu của châu Âu nhưng cần được 26 thành viên khác trong Liên Âu tiếp sức.
« Thứ nhất, Pháp phải là một con chim đầu đàn trong Liên Hiệp Châu Âu. Thứ hai là toàn khối này cũng phải huy động lực lượng để nâng cao khả năng phòng thủ, để đẩy mạnh cỗ máy công nghiệp phòng. Khả năng của các nhà sản xuất vũ khí châu Âu thường bị đánh giá không đúng mức. Đừng quên răng Liên Âu là một khối 27 quốc gia với 550 triệu dân, trong lúc Nga chỉ có 145 triệu và GDP của Liên Âu lớn gấp 7 lần so với của nước Nga. Liên Hiệp Châu Âu phải nỗ lực để có được một nền công nghiệp quốc phòng có trọng lượng và khả năng phòng thủ của khối này phải đủ sức trong trường hợp Liên Âu bị đẩy vào một cuộc xung đột ở cường độ cao. Đương nhiên, không ai mong muốn chiến tranh cả ».
Thách thức của những cuộc chiến trong tương laiThêm vào đó, vị thế của ngành công nghiệp quốc phòng Pháp trên thị trường quốc tế luôn bị đe dọa vì uy tín của các nhà sản xuất Nga vẫn còn rất lớn, vì những tiến bộ về công nghệ chế tạo vũ khí của Hàn Quốc, vì thái độ mềm mỏng của các nhà đàm phán xứ kim chi.
Hơn nữa, các cuộc xung đột hiện nay từ ở Gaza đến Ukraina đều cho thấy đấy cũng là những cuộc chiến của công nghệ cao, của công nghệ kỹ thuật số, của trí tuệ nhân tạo. Chiến tranh trong hiện tại và tương lai là những cuộc chiến tranh về cyber, là những xung đột diễn ra trên bộ, trên không, trên biển và dưới lòng biển (các quang, ống dẫn khí đốt ...)
Do vậy bên cạnh việc chế tạo chiến xa, chiến đấu cơ …các nhà sản xuất của Pháp đã tập trung phát triển drone, sử dụng công nghệ kết nối trong công tác dò mìn, sử dụng những thiết bị càng lúc càng nhỏ trong công tác thu thập thông tin … Đó là những khoản đầu tư để « chuẩn bị đối phó với một cuộc chiến trong tương lai », càng lúc càng tinh vi.
Kết thúc Hội Nghị Trung Ương 3, Khóa 20 của đảng Cộng Sản Trung Quốc, một thông cáo và một bản nghị quyết định hướng kinh tế cho tới năm 2029 được công bố ngay sau đó. Cả hai cùng « rỗng tuếch » và thể hiện một sự tê liệt trong nội bộ Đảng. Trên đây là nhận định của chuyên gia về Trung Quốc, Alex Payette, đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius, trụ sở tại Montréal, Canada về « Tầm nhìn mới phát triển kinh tế » cho giai đoạn 5 năm sắp tới.
Những hứa hẹn « cải tổ », « mở cửa và phát triển kinh bằng những phát minh về công nghệ cao » của Trung Quốc còn giá trị gì nữa hay không ? Tuần báo Anh The Economist (25/07/2024) nhắc lại, từ khi lên cầm quyền cuối 2012, ông Tập Cận Bình luôn hứa hẹn « để thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phân bố các nguồn lực » và mở rộng vị trí cho các công ty tư nhân vào những lĩnh vực vốn vẫn được đặt dưới sự thống trị của các doanh nghiệp nhà nước. Hơn một chục năm sau, toàn cảnh kinh tế Trung Quốc đang ảm đạm.
Kinh tế ảm đạmTheo các thống kê công bố hôm 15/07/2024, đúng ngày khai mạc Hội Nghị, tăng trưởng của Trung Quốc chỉ đạt 4,7 % trong một năm, thấp hơn so với chỉ tiêu 5 %. Trong 5 quý liên tiếp, kinh tế nước này bị giảm phát và điều ấy phản ánh tiêu thụ nội địa bị đóng băng. Khối lượng xe hơi bán ra trong 6 tháng đầu năm 2024 giảm 6 % so với cùng thời kỳ năm ngoái, trong lúc ngành địa ốc lún sâu thêm vào khủng hoảng. Các doanh nghiệp và các nhà đầu tư tại Hoa Lục trong trạng thái « chờ đợi », hoãn các kế hoạch mua thêm trang thiết bị sản xuất và ngừng tuyển dụng thêm nhân viên.
Trong bối cảnh này, nhiều người chờ đợi, giới lãnh đạo ở Bắc Kinh đề ra những biện pháp cụ thể nhanh chóng khởi động lãi cỗ máy kinh tế. Thế nhưng thông cáo tổng kết nội dung 4 ngày họp và văn bản mang tên « Quyết định của Ban Chấp Hành Trung Ương về việc sâu sắc hóa toàn diện chính sách cải tổ và thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa theo kiểu của Trung Quốc » gây nhiều thất vọng.
Bản nghị quyết kết thúc Hội nghị gồm 60 phần với danh sách tổng cộng 300 đề xuất nhằm cải thiện đời sống kinh tế và xã hội cho đất nước.
Trả lời RFI Việt ngữ, chuyên gia về Trung Quốc, Alex Payette, đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius, trụ sở tại Montréal, Canada nói đến những khẩu hiệu trống rỗng : « đẩy mạnh tiến trình cải tổ », « nâng cao tiêu thụ nội địa », « phát huy tốt hơn vai trò của cơ chế thị trường » tạo môi trường « công bằng và có sức sống mạnh hơn », « tối ưu hóa năng suất và tối đa hóa hiệu quả phân phối các nguồn lực ».
Alex Payette : « Có một số điểm thú vị. Văn bản này cho thấy giới lãnh đạo ở Bắc Kinh bắt mạch đúng tình hình, họ ý thức là có nhiều việc phải làm và có thiện chí để thay đổi tình thế. Tuy nhiên tất cả chỉ dừng lại ở đó, tức là các giới chức Trung Quốc ghi nhận vấn đề mà không đưa ra bất kỳ một giải pháp nào để khắc phục tình trạng này cả. Điều đó khiến các nhà quan sát thất vọng. Tôi xin đơn cử thí dụ Trung Quốc tuyên bố muốn đẩy mạnh hợp tác với quốc tế, cởi mở hơn để thu hút thêm đầu tư và doanh nhân nước ngoài, Trung Quốc cũng chủ trương đẩy mạnh các phát minh để tạo đà cho tăng trưởng, kích thích tiêu thụ nội địa… Nhưng đó là những mục tiêu được đưa ra sau Hội Nghị Trung Ương lần này, nhưng hoàn toàn không có gì mới mẻ bởi từng được đưa ra từ nhiều năm nay. Trong khi đó kinh tế của Trung Quốc cần có những biện pháp mới để thích nghi với tình huống -mà theo tôi thì nhẽ ra Bắc Kinh cần đổi mới từ 4 hay 5 năm nay chứ không phải đợi đến bây giờ … »
Ưu tiên của Bắc Kinh vẫn là an ninhVẫn theo Alex Payette vào lúc kinh tế Trung Quốc đang bị một cuộc khủng hoảng địa ốc, giảm phát, khủng hoảng niềm tin của người tiêu dùng đe dọa thì nghị quyết của Ban Chấp Hành Trung Ương năm nay lại tập trung vào vế « tăng cường an ninh quốc gia »
Alex Payette : «Tôi nghĩ là Trung Quốc cần tạo một lực đẩy cho kinh tế. Bây giờ không phải là lúc để tiếp tục tập trung vào mục tiêu bảo vệ an ninh cho chế độ. Càng chăm lo vào vế an ninh, Trung Quốc càng gây khó khăn cho vế phát triển kinh tế. Hơn nữa Trung Quốc thực sự cần có những cơ cấu vững chắc để thu hút các doanh nhân nước ngoài, khuyến khích họ trở lại Hoa Lục. Bởi vì có như thế Bắc Kinh mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài mạnh dạn trở lại Trung Quốc, mở cơ sở kinh doanh… Chính đầu tư và doanh nghiệp nước ngoài sẽ kéo lĩnh vực kinh tế tư nhân của Trung Quốc đi lên. Nhờ thế mới hy vọng là Trung Quốc lại có những tập đoàn lớn trỗi dậy, có những Alibaba hay ANT Financial khác nữa… Trong những điều kiện hiện tại không mấy ai muốn lao vào cuộc, mở doanh nghiệp… để rồi một ngày nào đó họ lại bị đưa ra trước vành móng ngựa hay là công ty của họ bị chia năm xẻ bảy…
Kinh tế tư nhân dưới sự kiểm soát của nhà nướcVẫn đồng sáng lập viên cơ quan tư vấn Cercius trụ sở đặt tại Montréal, ghi nhận bản nghị quyết kết thúc Hội Nghị Trung Ương 3 của Trung Quốc vừa qua đã dành hẳn 2 chương đề cao vai trò của lĩnh vực kinh tế tư nhân và « quyết tâm hỗ trợ » các doanh nghiệp tư nhân nhưng ngay trong khổ đầu tiên của chương này, Bắc Kinh nhấn mạnh đó phải là một sự « phát triển dưới sự kiểm soát » của Đảng và Nhà nước.
Một điểm đáng chú ý khác là cụm từ « hiện đại hóa » đất nước theo mô hình Trung Quốc cũng đã được nhắc lại hầu như trong mỗi đoạn của văn bản chính thức kết thúc Hội Nghị Trung Ương 3. The Economist ghi nhận một lần nữa giới lãnh đạo ở Bắc Kinh bị mục tiêu phát triển công nghệ và dựa trên « phát minh » để hiện đại hóa cỗ máy kinh tế của nước này ám ảnh. Điều đó phản ánh « suy nghĩ » của ông Tập Cận Bình cho rằngTrung Quốc đang bị một cuộc « cách mạng về công nghệ của thế giới bao vây » và do vậy đảng Cộng Sản dưới sự lãnh đạo của ông phải thoát ra khỏi vòng vây đó.
Theo Alex Payette, đảng Cộng Sản Trung Quốc như vậy muốn kiểm soát tất cả và đối với công luận ở trong và ngoài nước, đây không là một tín hiệu tốt.
Vào lúc mọi người chờ đợi Hội Nghị Trung Ương vừa qua thông báo những biện pháp kích thích tiêu thụ nội địa, ngăn chận hiện tượng giảm phát tai hại, thì tài liệu chính thức chỉ gián tiếp nói đến việc khắc phục hậu quả kèm theo từ khủng hoảng địa ốc, chẳng hạn như cam kết Trung Ương sẽ không ban hành thêm các khoản thuế khóa, tránh gây thêm gánh nặng cho các chính quyền ở cấp địa phương…
Đấu đá nội bộ và « cái Tôi » quá lớn của họ TậpVề câu hỏi tại sao trước tình hình bị cho là khá cấp bách, Bắc Kinh lại chậm đưa ra những liều thuốc để vực dậy kinh tế, chuyên gia người Canada Alex Payette giải thích đây trước hết là một vấn đề chính trị, và hiện tại ở Trung Quốc, nhân vật quyền lực nhất là ông Tập Cận Bình dường như không có ý định thay đổi đường lối, tức là cần « kiên định không dời khỏi con đường phát triển chính trị chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc, kiên trì và hoàn thiện chế độ chính trị căn bản » của quốc gia này.
Alex Payette : « Đúng là Trung Quốc cần đưa ra những biện pháp cụ thể để vực dậy kinh tế nhưng đấy thường là những gì đi ngược lại với ý của ông Tập Cận Bình, thành thử khó để nói đến một chương trình cải tổ, theo mô hình kinh tế theo thị trường… Thay vào đó, giới lãnh đạo ở Bắc Kinh sau Hội Nghị Trung Ương vừa qua có khuynh hướng trở về với thời kỳ của Mao Trạch Đông. Trong lĩnh vực nông nghiệp chẳng hạn, báo cáo kết thúc hội nghị nhấn mạnh đến việc mở rộng vai trò của hợp tác xã, thúc đẩy và khuyến khích các văn phòng quản lý nông nghiệp nỗ lực hơn trong mục tiêu phát triển nông nghiệp Trung Quốc… Làm thế nào để giới tư bản nước ngoài tin tưởng để đầu tư vào Hoa Lục trước những biện pháp phi kinh tế thị trường như vậy ? Các doanh nghiệp nước ngoài thận trọng khi mà Bắc Kinh nói một đàng, làm một nẻo ».
Bản nghị quyết kết thúc Hội Nghị Trung Ương 3 vừa qua chỉ là một danh sách « những điều cần làm » và thể hiện những mâu thuẫn trong những mục tiêu mà Trung Quốc muốn hướng tới, và đã không trấn an các đối tác kinh tế tại Hoa Lục và các nhà đầu tư nước ngoài, theo Alex Payette, bởi Trung Quốc đang đứng trước « một vấn đề rất lớn » :
Alex Payette : « Đương nhiên là có một sự đấu đá ở bên trong, chính vì thế mà trong tài liệu được công bố sau Hội Nghị Trung Ương vừa qua đã có rất nhiều thứ, liên quan đến rất nhiều chủ đề, bao phủ lên nhiều lĩnh vực. Nhưng không có gì cụ thể cả. Khóa họp vừa rồi chỉ ghi nhận vấn đề, đưa ra những khẩu hiệu chung chung, tản mạn… mà không thể tìm ra được một tiếng nói chung, dù chỉ là trên một vài chủ đề cụ thể. Điều đó chứng tỏ là nội bộ đảng Cộng Sản Trung Quốc có nhiều ý kiến khác nhau và không ai dám lên tiếng vì họ sợ rằng ông Tập Cận Bình chưa sẵn sàng cho một cuộc cải tổ thực sự. Theo tôi thì đảng Cộng Sản Trung Quốc đang bị chia ra thành ba nhóm : nhóm thứ nhất ý thức được là kinh tế Trung Quốc đang gặp khó khăn và cần phải điều chỉnh lại chính sách, nhưng số này bất lực vì tiếng nói của họ không được lắng nghe. Nhóm thứ nhì, biết là có vấn đề nhưng không muốn thay đổi và còn nghe ngóng, đón bắt ý kiến chỉ đạo của Tập Cận Bình. Nhóm thứ ba cũng thừa biết là kinh tế đang bị trục trặc nhưng đối với họ thì sự tồn tại của Đảng mới là ưu tiên và họ vẫn tập trung mọi nỗ lực củng cố vị thế của Đảng. Không chắc đây là điều tốt cho kinh tế của Trung Quốc ở thời điểm này ».
Trong một bài tham luận đăng trên báo mạng Asialyst hôm 03/08/2024 Alex Payette nêu lên một điểm thú vị khác liên quan đến cá nhân ông Tập : từ khóa 19 Tập Cận Bình đã muốn gột tẩy tên người tiền nhiệm Đặng Tiểu Bình khỏi hai chữ Cải Tổ. Ông cũng không muốn đi vào sử sách như một người tiếp nối công cuộc cải tổ của họ Đặng mà muốn Tập Cận Bình phải là « trung tâm » của cuộc cải tổ kinh tế, hiện đại hóa đất nước. Do vậy trong tài liệu chính thức của đảng Cộng Sản Trung Quốc được công bố sau Hội Nghị Trung Ương 3, Trung Quốc nói đến tiến trình « Cải tổ của một thời đại mới ».
Kinh tế, ưu tiên số 3 sau chính trị và địa chính trịBáo Nhật Bản The Diplomate hôm 01/08/2024 cũng nêu bật nhiều lý do khiến mọi người cần thận trọng với những ý định của Trung Quốc sau hội nghị trung tuần tháng 7 vừa rồi : thứ nhất 60 chương và 300 cam kết để cải thiện tình hình kinh tế cho đất nước trong văn bản lần này không có gì mới mẻ so với những cam kết và mục tiêu cũng chính Tập Cận Bình đã đề ra nhân Hội Nghị Trung Ương 3 khóa 18 (năm 2013).
Điểm thứ nhì là văn bản này chỉ đưa ra những đường lối chung chung, những hứa hẹn và cam kết mà không có bất kỳ một điều gì bảo đảm là Trung Quốc thực hiện được một phần những mục tiêu đó trước năm 2029.
Sau cùng văn bản này có đầy những mâu thuẫn khi mà dưới thời đại Tập Cận Bình « cải tổ » và « mở cửa » không thu hẹp ở phạm vi kinh tế mà còn bao hàm cả chủ trương « tăng cường khả năng tự chủ của Trung Quốc trong trường hợp xảy ra khủng hoảng hay xung đột vũ trang ». Đó mới là mục tiêu chính của Hội Nghị Trung Ương 3 năm nay và trong mục tiêu đó « đại đa số người dân Trung Quốc và các doanh nghiệp tư nhân đừng hy vọng sớm được trông thấy điều kiện của họ được cải thiện ». Nói cách khác kinh tế chỉ đứng hạng thứ ba trong số những ưu tiên của đảng Cộng Sản Trung Quốc, sau những mục tiêu chính trị và địa chính trị.
Từ khi thay Joe Biden ra tranh cử tổng thống, Kamala Harris từng bước định hình chính sách kinh tế. Dưới chính quyền Biden, kinh tế Hoa Kỳ đang trong một chu kỳ « thịnh vượng » sau đại dịch Covid, thất nghiệp đang ở mức thấp nhất, nhưng phần lớn trong công luận Mỹ « có cảm tưởng » là tình hình đang xấu đi và tin rằng Donald Trump mới là vị cứu tinh.
Chưa chính thức được đảng Dân Chủ chỉ định ra tranh cử tổng thống, nhưng gần như chắc chắn đương kim phó tổng thống Kamala Harris là người thay Joe Biden lao vào cuộc chạy đua giành chìa khóa Nhà Trắng. Bà sẽ đọ sức với ông Donald Trump bên đảng Cộng Hòa.
« Tất cả tùy thuộc vào thành quả kinh tế », đó là câu nói để đời của James Carville hồi 1992 khi ứng viên tổng thống Bill Clinton bên đảng Dân Chủ bất ngờ đánh bại tổng thống mãn nhiệm, một chính khách dày dặn kinh nghiệm bên đảng Cộng Hòa là George H. Bush, chỉ vì một năm trước bầu cử, thất nghiệp ở Hoa Kỳ đã tăng mạnh. Khẩu hiệu của Carville năm xưa có còn tính thời sự nữa hay không và kinh tế có còn là ưu tiên hàng đầu khi cử tri Mỹ tháng 11/2024 chọn người lãnh đạo đất nước trong nhiệm kỳ 4 năm tới?
Bất mãn vì lạm phátNếu tranh cử tổng thống Hoa Kỳ là một cuộc chạy tiếp tức, thì ngày 21/07/2024, ông Biden đã chuyền « tín gậy » lại cho Kamala Harris vào lúc thất nghiệp ở Mỹ đang ở mức thấp nhất từ gần nửa thế kỷ nay. Lạm phát đang từ 9 % năm 2022 dưới tác động chiến tranh Ukraina đã được khống chế ở mức 3 %. Tổng sản phẩm nội địa tăng 3 %, cao gấp đôi so với của châu Âu. Chỉ số chứng khoán Wall Street đi từ kỷ lục này đến kỷ lục khác.
Dù vậy, từ hơn một năm nay, các thăm dò đều cho thấy dân Mỹ vẫn không hài lòng với những thành quả kinh tế dưới thời Biden: 45 % những người được hỏi « bất mãn vì chính sách nhập cư » của cặp bài trùng Biden–Harris ; 58 % « không tán đồng » chính sách kinh tế mang tên ông Biden. Tệ hơn nữa, 2/3 cử tri « nghĩ rằng » kinh tế Mỹ « tồi tệ hơn », đời sống của họ « chật vật hơn » so với thời tổng thống Trump, vì vật giá leo thang.
Năm 2022, giá nhu yếu phẩm đã tăng gần 11 % trước khi được khống chế còn 2,2 %. Dân Mỹ cũng cảm thấy sức mua của họ bị sụt giảm: so với thời điểm ông Biden lên cầm quyền hồi tháng 1/2021, chỉ số giá cả tại Mỹ tăng 19,2 % trong khi lương trung bình chỉ tăng có 17%.
Chênh lệnh không nhiều, nhưng công luận vẫn cảm thấy bất công.Trả lời tuần báo Express cuối tháng 2/2024, kinh tế trưởng quỹ đầu tư Carmignac của Pháp, ông Raphael Gallardo, nêu lên một nghịch lý của cử tri Hoa Kỳ: Từ 2021 đến nay, thế giới phải đối mặt với ba cuộc xung đột vũ trang ảnh hưởng đến kinh tế toàn cầu, đó là chiến tranh Ukraina, xung đột giữa Israel và Hamas ở Gaza và những đợt tấn công của lực lượng Yemen Houthi tại Hồng Hải, một trong những trục giao thương chủ yếu của thế giới… Nhưng dân Mỹ vẫn muốn « giá một lon Coca Cola phải được giữ nguyên như hồi năm 2020 », cho dù lương trung bình trong cùng thời kỳ đã tăng thêm 17 %.
Thêm một điểm lạ trong cách nhìn của dân Mỹ về kinh tế và quyền lợi, được giới phân tích ghi nhận, là cho dù lạm phát tại Hoa Kỳ giờ đây đã rơi xuống còn 3 %, đối với đại đa số những người được hỏi, tỷ lệ đó vẫn là « từ 8 đến 10 % » tức là cao gấp đôi, gấp ba so với thực tế.
Mối lo « bị người nhập cư cướp việc làm »Một yếu tố khác cho thấy chưa chắc kinh tế đã là mối quan tâm hàng đầu của cử tri Hoa Kỳ. Theo nhiều cuộc thăm dò, chính sách nhập cư của tổng thống Biden là chủ đề số một gây bất mãn, trước cả những lo lắng của dân chúng về tăng trưởng kinh tế, lạm phát hay thất nghiệp.
Cũng kinh tế gia Gallardo lưu ý, công luận Mỹ không quan tâm đến việc nhờ có nguồn lực lao động nhập cư mà Hoa Kỳ tránh được tình trạng khan hiếm nhân công, để rồi giới chủ phải tăng lương cho nhân viên, qua đó gây lạm phát. Những nạn nhân chính, người lao động Mỹ, bị thiệt thòi.
Công luận chỉ trông thấy người nhập cư là một mối đe dọa « cướp » mất việc làm của người Mỹ. Phe ủng hộ ứng cử viên tổng thống Cộng Hòa trông đợi rất nhiều vào hứa hẹn của Donald Trump, cắt giảm số người nhập cư hợp pháp vào Hoa Kỳ và mạnh tay trục xuất các thành phần « bất hợp pháp » để bảo vệ 11 triệu công việc làm cho người Mỹ.
Năm 2016 nhà tỷ phú Donald Trump từng đắc cử nhờ 2 khẩu hiệu « America First » và « Make America Great Again », thuyết phục được những người bị tiến trình toàn cầu hóa bỏ rơi, những nạn nhân của hiện tượng « phi công nghiệp hóa ».
Bốn năm sau, đối thủ của ông bên đảng Dân Chủ Joe Biden chủ trương xây dựng lại một nền tảng công nghiệp mới cho nước Mỹ để thu hút trở lại thành phần cử tri đã dồn phiếu cho Trump. Thông tín viên của hãng tin Anh Reuters tại Nhà Trắng, Trevor Honeycut điểm lại một trong những vế quan trọng nhất trong chính sách kinh tế được gọi là Bidenomics :
« Joe Biden đã gây ngạc nhiên khi ông huy động một số người từng cộng tác với thượng nghị sĩ Elizabeth Warren, một trong những đối thủ của ông trong các vòng bầu cử sơ bộ. Bà Warren có nhiều ý tưởng cấp tiến và trong nhóm làm việc với ông Biden cũng đã có không ít người muốn đem lại một số thay đổi, thí dự như trong chính sách cạnh tranh và cả về chính sách công nghiệp của Mỹ. Đội ngũ các cộng tác viên và cố vấn của ông Biden tin rằng Mỹ cần phát triển công nghệ bán dẫn, thúc đẩy ngành chế tạo bình điện cho xe hơi … Nhiều người đã phấn khởi trước viễn cảnh chính quyền Biden sẽ mang lại phúc lợi cho tầng lớp công nhân ».
Trong mục tiêu xây dựng lại một nền công nghiệp cho nước Mỹ với đạo luật IRA (Inflation Reduction Act), chính quyền Biden dành ưu tiên cho ngành sản xuất xe hơi và các tập đoàn trong ngành chế tạo chip điện tử, linh kiện bán dẫn. Thế nhưng, theo các thống kê của Washington, lực lượng lao động trong ngành công nghiệp tại Hoa Kỳ hiện là 13 triệu và tỷ lệ này vẫn không thay đổi so với hồi 2022.
Một chính xách xã hội quá xa lạ với công luận MỹVế thứ nhì quan trọng không kém trong chiến lược kinh tế của tổng thống Biden mang tính xã hội và thường được ví như một « New Deal » đời tổng thống Franklin Roosevelt.
Howard Schneider cũng của Reuters bên cạnh Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ tán đồng tầm nhìn táo bạo của tổng thống Biden nhưng phóng viên này lấy làm tiếc là, do không có được đa số ở Hạ Viện, tổng thống Mỹ thứ 46 đã không áp dụng được chương trình của mình :
«Về mặt chiến lược, thì rõ ràng là đã có quyết tâm đẩy mạnh mảng công nghiệp. Về phương diện xã hội, tôi thấy tổng thống Biden nỗ lực giảm bớt gánh nặng nợ nần cho sinh viên… tiếc là những nỗ lực đó không hoàn toàn thành công. Thế rồi, ông Biden cũng đã cố gắng giúp đỡ tầng lớp trung lưu. Chính sách đó không chỉ là bảo đảm cho những bà mẹ đơn thân có thu nhập thấp vẫn có điều kiện chu cấp cho con cái, hay tạo điều kiện để giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho các sinh viên phải đi vay để đóng tiền học, mà còn rộng hơn thế nữa. Chính quyền Biden muốn đầu tư cho tương lại để những thế hệ trẻ không phải mang nợ suốt đời mà có thể yên tâm xây dựng cuộc sống một khi tốt nghiệp đại học » .
Cho đến tận 100 ngày trước bầu cử tổng thống Mỹ, biện pháp giảm thuế cho sinh viên Hoa Kỳ của chính quyền Biden vẫn là mục tiêu tấn công. Một phần chương trình mang tính xã hội của chính quyền Biden-Harris ngay từ đầu đã bị Hạ Viện bác bỏ, vì cho là quá tốn kém.
Ngân sách dự trù 1000 tỷ đô la để thay đổi bộ mặt của Mỹ đã bị giảm mất gần một nửa. Nửa còn lại, 500 tỷ đô la chủ yếu là để đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Trong khitheo Laurence Nardon, Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI, tầng lớp trung lưu ở Hoa Kỳ bất mãn vì những bất bình đẳng quá lớn trong xã hội. Pierre André Chiappori giáo sư kinh tế đại học Columbia, cũng cho rằng đầu tư vào giáo dục là cần thiết vì đây là một nguyên nhân lớn dẫn tới bất bình đẳng xã hội.
Chính sách bảo hộ : Khác lọ cùng nướcVề chính sách ngoại thương, tổng thống Dân Chủ Joe Biden thực sự tiếp tục đường lối của người tiền nhiệm. Samy Chaar kinh tế gia thuộc ngân hàng Lombard Odier nhắc lại : Biden tuy có những lời lẽ ngoại giao hơn với Bắc Kinh và đã tỏ thái độ « hợp tác với các đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ, nhưng ông không hề hủy các biện pháp đánh thuế vào hàng nhập khẩu của Trung Quốc mà chính quyền Trump đã ban hành ». Trái lại chính quyền Biden có những bộ luật bảo vệ người lao động Mỹ, để bảo đảm rằng các doanh nghiệp của Hoa Kỳ phải được đối xử công bằng.
Áp dụng một chính sách bảo hộ là một trong những mẫu số chung hiếm hoi giữa hai đảng Dân Chủ và Cộng Hòa.
Khác biệt duy nhất, theo chuyên gia kinh tế ngân hàng Lombard Odier là, như Biden, trong cương vị tổng thống, bà Kamala Harris sẽ không hành xử thô bạo như Donald Trump. Trong nhiệm kỳ đầu, Trump đã không chỉ « trừng phạt » Trung Quốc đánh cắp việc làm của người lao động Mỹ, mà còn không nương nhẹ các đồng minh, từ Nhật Bản, Hàn Quốc đến Liên Hiệp Châu Âu.
Trước Đại Hội đảng Dân Chủ Chicago từ 19-22/08/2024, Kamala Harris đã lao vào cuộc vận động tranh cử và đang hé lộ dần chính sách kinh tế và xã hội.
Một số nhà quan sát ghi nhận: Harris tiếp tục con đường mà tổng thống Biden đã vạch ra, nhưng bà sẽ nhấn mạnh thêm một số điểm: trợ cấp gia đình để mỗi đứa trẻ ở Hoa Kỳ được nuôi dưỡng trong điều kiện tử tế, đó là điểm khởi đầu cho việc chấm dứt những bất bình đẳng và bất công trong xã hội.
Tạo điều kiện để người Mỹ được chăm sóc về y tế tốt hơn, đẩy mạnh vai trò của các công đoàn bảo vệ quyền lợi người lao động … sẽ là một vài mục tiêu mà ban vận động tranh cử của bà Harris đang nhắm tới. Đó là những mục tiêu khó hoàn thành. Kinh tế gia Raphael Gallardo trong bài trả lời phỏng vấn trên tuần báo l’Express nói đến mâu thuẫn của cử tri Hoa Kỳ : người Mỹ bất mãn vì bất công xã hội, nhưng dân biểu Mỹ thì lại liên tục chống đối các biện pháp về y tế hay giáo dục để thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, tạo sân chơi bình đẳng cho mọi người cùng thăng tiến.
Trevor Honeycut
« Joe Biden đã gây ngạc nhiên khi ông huy động một số người từng cộng tác với thượng nghị sĩ Elizabeth Warren, một trong những đối thủ của ông trong các vòng bầu cử sơ bộ. Bà Warren có nhiều ý tưởng cấp tiến và trong nhóm làm việc với ông Biden cũng đã có không ít người muốn đem lại một số thay đổi, thí dự như trong chính sách cạnh tranh và cả về chính sách công nghiệp của Mỹ. Đội ngũ các cộng tác viên và cố vấn của ông Biden tin rằng Mỹ cần phát triển công nghệ bán dẫn, thúc đẩy ngành chế tạo bình điện sử dụng trong công nghiệp xe hơi … Nhiều người đã phấn khởi trước viễn cảnh chính quyền Biden sẽ mang lại phúc lợi cho tầng lớp công nhân ».
Howard Schneider :
« Về mặt chiến lược, thì rõ ràng là đã có quyết tâm đẩy mạnh mảng công nghiệp. Về phương diện xã hội, thì tôi thấy là tổng thống Biden nỗ lực giảm bớt gánh nặng nợ nần cho sinh viên… tiếc là những nỗ lực đó không hoàn toàn thành công. Thế rồi ông Biden cũng đã cố gắng giúp đỡ tầng lớp trung lưu. Chính sách đó không chỉ đơn thuần là bảo đảm cho những bà mẹ độc thân có thu nhập thấp vẫn có điều kiện chu cấp cho con cái hay tạo điều kiện để giảm nhẹ gắng nặng tài chính cho các sinh viên đã phải đi vay để đóng tiền học mà còn rộng hơn thế nữa. Chính quyền Biden muốn đầu tư cho tương lại để những thế hệ trẻ không phải mang nợ suốt đời mà có thể yên tâm xây dựng cuộc sống một khi tốt nghiệp đại học » .
Pháp nổi tiếng về ẩm thực, các đầu bếp Pháp cũng có tham vọng phá rất nhiều kỷ lục của Thế Vận Hội Paris 2024. Phục vụ 15.000 vận động viên Olympic và Paralympic một cách chu đáo nhất, cung cấp 13 triệu bữa ăn trong vòng 70 ngày, với 550 thực đơn khác nhau ... Nước chủ nhà đã huy động những đầu bếp danh tiếng nhất cho sự kiện này và tựa như một vận động viên, mỗi ông vua bếp đều đã có một sự chuẩn bị « nhiều năm ».
Một tuần trước lễ khai mạc Olympic Paris 2024, Pháp đã khánh thành « nhà hàng lớn nhất thế giới » tại làng Thế Vận Hội khu vực Saint Denis, ngoại ô phía bắc Paris. Nhà hàng hoạt động 24 giờ mỗi ngày và 7 ngày trong tuần.
Nhà hàng XXLĐến thăm làng Thế Vận hôm 22/07/2024, tổng thống Emmanuel Macron đã ăn trưa với một số các vận động viên Pháp tại nhà hàng với 3.500 chỗ ngỗi, phục vụ mỗi ngày 40.000 bữa ăn, từ bữa điểm tâm cho đến bữa ăn tối. Ủy Ban Thế Vận đã ủy ký hợp đồng hơn 60 triệu euro với Sodexo Live chuyên cung cấp các dịch vụ ăn uống tại các sự kiện, đặc biệt là các sự kiện thể thao lớn như Cúp bóng bầu dục thế giới, Giải quần vợt quốc tế Roland Garros. Từ hai năm qua, Sodexo đã tuyển dụng thêm 6.000 nhân viên, trước nhu cầu mỗi ngày cần 600 người phục vụ « ở trong bếp », và 500 nhân viên « chạy bàn ».
Nhà hàng này được chia thành 4 khu vực, chuyên về ẩm thực Pháp, ẩm thực Châu Á, Châu Phi –vùng biển Caribe và nhất là một khu vực mang tên « Les Cuisines du Monde ». Từ nay cho đến khi Paralympic bế mạc ngày 08/09/2024, bất kể giờ nào cũng có sẵn những gian thịt nướng, những quầy với đủ các loại súp, đủ các loại hoa quả, nước uống, những món bánh tráng miệng, một quầy phó mát, buffet đồ ăn nóng … chờ đợi thực khách.
Cũng tại khu vực nhà hàng Olympic này, có hẳn một « lò bánh mì » với các nghệ nhân nướng bánh tại chỗ và mỗi ngày 40.000 ổ « baguettes » vàng hườm và thơm phức và nhiều loại bánh mì khác nữa rất Pháp.
Les Plats - signaturesNhưng độc đáo hơn cả là khi mà khách tham quan và các vận động viên trên toàn thế giới được tận mắt trông thấy 3 trong số rất nhiều đầu bếp trứ danh của Pháp thực hiện những món ăn đặc biệt « Plat - signature » chỉ phục vụ tại nơi này.
Ba đầu bếp phục vụ mỗi ngày từ 200 đến 300 bữa ăn cao cấp đó đều là những tên tuổi lớn của làng ẩm thực Pháp. Alexandre Mazzia chẳng hạn là chủ nhân nhà hàng 3 sao trong Guide Michelin ở Marseille. Trước khi « đứng bếp », anh từng là một nhà thể thao chuyên nghiệp, chơi bóng rổ ở hạng A toàn quốc. Còn ông vua bếp Akrame Bennallal, giải thưởng Ẩm Thực Pháp của Guide Gault&Millau năm 2011, mới hơn 40 tuổi, ngoài nhà hàng Paris, trong khu vực « tam giác vàng » quận 8, đã mở thêm 2 nhà hàng tại Hồng Kông và Manila. Còn Amadine Chaignot của nhà hàng Pouliche quận 10 Paris là « bà vua bếp » phục vụ tại khu vực « Cuisine étoilée » trong nhà hàng Olympic.
Chưa có tên trong bảng vàng của hai cuốn hướng dẫn ẩm thực là Guide Michelin hay Gault &Millau, nhưng Amandine đã để lại nhiều dấu ấn trong những nhà hàng và khách sạn sang 5 sao tại Paris, hay Luân Đôn như Le Crillon, Hotel Ritz tại ở Anh và nhất là từng phục vụ trong nhà hàng Le Meurice dưới sự điều khiển một tên tuổi lớn trong nền ẩm thực Pháp là Alain Ducasse …
Đài truyền hình Pháp France 24 đã gặp được Amandine Chaignot khi cô đang nấu thử một món Pintade aux Ecrevisses đặc biệt giành cho thực khách của ngôi làng Olympic và cô hoàn toàn ý thức được rằng đây là một trọng trách rất lớn :
« Tôi đang nấu gà châu Phi, nấu lửa nhỏ.Thịt vẫn còn hơi lòng đào, mềm và rất ngọt … Vâng, đây thực sự là một thử thách rất lớn, bao hàm nhiều biểu tượng nữa : tôi được đại diện cho nước Pháp, vốn nổi tiếng với nghệ thuật ẩm thực, nổi tiếng với phong cách sống của người Pháp. Đồng thời phục vụ một khối lượng khách rất, rất lớn trong suốt mùa Thế Vận Hội và Paralympic không phải chuyện đùa ! »
Chủ nhà hàng Pouliche trông thấy nhiều điểm tương đồng của một đầu bếp với một vận động viên thể thao :
« Có rất nhiều điểm tương đồng giữa giới thể thao và những người đứng bếp : thứ nhất là chúng tôi làm việc trong tinh thần đồng đội, khai thác những điểm mạnh của mỗi cá nhân, phối hợp lại tất cả những điểm son đó để lập nên chiến công. Tất cả mọi người đều phải vượt lên trên những khó khăn của chính mình, chứ không thể ỷ lại vào kinh nghiệm đã có và mỗi món ăn đem đến cho thực khách đều là là một thành tích của nhóm đầu bếp ».
Nghiên cứu 800 thực đơn để giữ lại 5 đề nghị cuối cùngĐể chọn được 5 thực đơn ưng ý mang đến làng Olympic ở Saint Denis, đầu bếp Alexandre Mazzia đã tham khảo 800 thực đơn khác nhau trong « một góc nhỏ » của kho tàng ẩm thực Pháp. Từng là một nhà thể thao chuyên nghiệp, chủ nhà hàng 3 sao Michelin này thích nghi những thực đơn của mình với nhu cầu dinh dưỡng của các vận động viên :
« Các vận động viên có những thói quen, giờ giấc ăn uống hoàn toàn khác với chúng ta, họ có nhu cầu được phục vụ bất luận ngày, đêm … Chúng tôi phải để ý đến yếu tố đó. Ngoài ra, quan trọng nhất là chế độ dinh dưỡng của các vận động viên. Chúng tôi phải điều chỉnh thực đơn của mình để đáp ứng tốt nhất những tiêu chuẩn đó ».
Sodexo Live, vị « nhạc trưởng » trong hệ thống nhà hàng OlympicSodexo Live được chọn để phục vụ 13 triệu bữa ăn trong 70 ngày suốt thời gian diễn ra Thế Vận Hội và Paralympic Paris. Frank Chavevas, giám đốc Sodexo đặc trách các sinh hoạt tại Pháp và Tây Ban Nha ngay từ đầu đã đề ra mục tiêu Nhà hàng trong Ngôi làng Thế Vận phải đáp ứng hai tiêu chí :
« Nhà hàng trong ngôi làng Olympic phải đáp ứng được một số tiêu chuẩn như là phù hợp với nhu cầu về dinh dưỡng của các vận động viên, và hai là chúng ta đang ở Paris, mà nghệ thuật ẩm thực của Pháp lại rất nổi tiếng. Đây là cơ hội để vinh danh nghệ thuật ẩm thực của Pháp ».
Ông Laurent Pasteur điều hành Làng Olympic nhấn mạnh thêm :
« Mục tiêu là phục vụ tất cả các vận động viên của 206 phái đoàn quốc tế đến dự Thế Vận Hội từ bữa điểm tâm cho đến bữa ăn tối. Thực đơn phải thích nghi với nhu cầu về dinh dưỡng để các vận động viên có thể thi đấu trong những điều kiện tốt nhất ».
Protéine từ rau củ quảVào lúc ngày càng có nhiều vận động viên quốc tế « ăn chay », chỉ tiêu thụ rau, củ quả, nên lần đầu tiên trong lịch sử Olympic, 1/3 các món ăn tại chỗ là « đồ chay » và 40 % các thực phẩm sử dụng là những « sản phẩm sạch ». Trong tinh thần này, bếp trưởng của Sodexo Charles Guilloy đã tìm đủ mọi cách để chiều lòng những thực khách « khó tính nhất » :
« Thông thường tôi thích sử dụng các loại đậu để chế biến. Đậu gà rất giàu chất protéine và rất thích hợp với chế độ dinh dưỡng của các vận động viên (…) Dịch vụ ăn uống ảnh hưởng đến thành tích của các vận động viên, thành thử ra chúng tôi phải tôn trọng thói quen và nhu cầu dinh dưỡng của họ. Chúng tôi đề nghị những thực đơn đa dạng nhất để họ có nhiều chọn lựa và qua đó họ đem lại những thành tích tốt nhất trong trong mùa Thế Vận Hội lần này (…) Các bạn chớ nhầm ăn chay không phải là chúng ta chỉ ăn rau, củ. Mỗi món ăn chay ở đây là cả một sự sáng tạo, để kết cấu những hương vị, những sản phẩm khác nhau thành một món ăn lạ miệng … »
Khoai tây hay những củ « Sâm đất »Để giành được hợp đồng với Ủy Ban Thế Vận Hội Paris, Sodexo năm nay đã phải đáp ứng một số tiêu chí đặc biệt khác: không sử dụng những sản phẩm trái mùa ; 80 % thực phẩm phải được sản xuất tại Pháp và 25 % trong số này do các nhà cung cấp không cách làng Olympic hơn 250 km. Mục tiêu đề ra là hạn chế tối đa mức độ phát thải khí làm hâm nóng trái đất. Chính vì thế nông trại Vaulerand, cách làng Thế Vận Hội chưa đầy 25 km, được chọn để cung cấp rau củ cho sự kiện. Trong những tuần lễ sắp tới nông trại này cung cấp 18 tấn khoai tây cho các đầu bếp ở làng Olympic. Lionel Plasmans, chủ tịch tổng giám đốc nông trại nói đùa, khoai tây này là « những củ sâm đất » đối với các lực sĩ :
« Tôi thực sự cầu mong các vận động viên có nhiều sức lực để thi đấu nhờ ăn khoai tây mà chúng tôi cung cấp ».
Sodexo và tham vọng Olympic Los Angeles 2028Đối với Jennifer Barginsen, cũng trong êkip của Sodexo từ Mỹ được huy động sang giúp các đồng nghiệp châu Âu trong mùa Thế Vận Hội lần này, cô nói huy chương vàng Olympic không chỉ giành riêng cho các vận động viên, mà nhân viên dịch vụ ăn uống cũng muốn đoạt chức vô địch :
« Chúng tôi huy động đội ngũ ở khắp nơi trên thế giới. Tôi đến Paris và làm việc như thể tôi vẫn đang ở Hoa Kỳ. Sodexo Live có một đội ngũ giỏi nhất trên thế giới và tựa như các nhà thể thao đang tập hợp về Paris, chúng tôi cũng muốn đoạt huy chương vàng ».
Bên cạnh nhà hàng trong khuôn viên làng Thế Vận, ở mỗi nơi diễn ra các cuộc tranh tài đều có những « điểm hẹn của những người có tâm hồn ăn uống » và đây cũng là dịch vụ Sodexo Live được độc quyền cung cấp.
Sodexo là một đại tập đoàn của Pháp với gần 2 tỷ doanh thu một năm, nhưng địa bàn chính lại là Hoa Kỳ (58 % doanh thu). Nhà cung cấp dịch vụ ăn uống trong các sự kiện thể thao này không che giấu tham vọng « giành được thêm hợp đồng » cho Thế Vận Hội 2028, tổ chức tại thành phố Thiên Thần Los Angeles.
Quá trễ để « tách » khỏi Trung Quốc ? Trong ít nhất 4 lĩnh vực công nghệ cao, qua các dự án đầu tư chồng chéo, Liên Âu và Mỹ đã « gắn kết » quá chặt với Trung Quốc. Tại sao chỉ với 12% đầu tư vào công nghệ cao của Trung Quốc, các doanh nghiệp Âu Mỹ bị cho là đã giúp một « đối thủ » cất cánh, để rồi Hoa Kỳ không còn là tâm điểm của thế giới về công nghệ mũi nhọn, châu Âu thì hoàn toàn mờ nhạt trong cuộc đua ?
Âu-Mỹ không chỉ lo những con chim đầu đàn trong những lĩnh vực công nghệ mũi nhọn của mình bị một đối thủ đáng gờm như Trung Quốc thâu tóm. Từ 2018 Bruxelles và Washington theo dõi chặt chẽ hơn các dự án đầu tư của Âu-Mỹ vào Hoa Lục, Hồng Kông và Macao.
Chuyên nghiên cứu về các công nghệ mới, về chính sách công nghệ của Hoa Kỳ và Trung Quốc tại Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp IFRI, tháng 7/2024 Mathilde Velliet công bố nghiên cứu mang tựa đề « Tài trợ cho đối thủ. Khi Mỹ và châu Âu đầu tư vào công nghệ Trung Quốc ». Tác giả tập trung vào những khoản đầu tư của châu Âu và Hoa Kỳ tại Trung Quốc trong giai đoạn 2003-2023. Đấy là thời điểm công nghệ mới tại Trung Quốc đã cất cánh rất nhanh. Công nghệ sinh học và trí tuệ nhân tạo của Trung Quốc là hai lĩnh vực sớm được các đối tác phương Tây quan tâm.
Ngoài ra, Mathilde Velliet đã nêu bật những khác biệt trong chính sách đầu tư của Mỹ và của Liên Hiệp Châu Âu và không mấy ngạc nhiên khi thấy một số nhà đầu tư châu Âu và Mỹ đã dễ dàng hợp tác với những đối tác Trung Quốc đang trong tầm ngắm của các giới chức an ninh Hoa Kỳ.
Tuy nhiên trong nghiên cứu, bà Velliet giải thích bà căn cứ vào số lượng các dự án mà tránh đề cập đến các trị giá các các dự án đầu tư vì các dữ liệu liên quan đến trị giá các khoản đầu tư thường được các bên tài trợ và nhận tài trợ giấu kín.
1.602 dự án của MỹTrả lời ban Việt ngữ RFI Mathilde Velliet trước hết cho biết mục đích chính của công trình là nhằm điểm lại xem rằng trong số những dự án đầu tư của Âu, Mỹ vào Trung Quốc có thuộc diện « đặt ra vấn đề » đối với an ninh, chiến lược của Washington cũng như Bruxelles hay không, chẳng hạn như do liên hệ giữa các công ty Trung Quốc với quân đội nước này.
Mathilde Velliet : « Tôi đã tập trung vào bốn lĩnh vực công nghệ mang tính chiến lược, gồm trí tuệ nhân tạo, công nghệ bán dẫn, công nghệ sinh học và thông tin lượng tử. Đây là bốn chìa khóa của toàn bộ ngành công nghiệp trong tương lai, liên quan đến cả vế thương mại lẫn quân sự. Bốn lĩnh vực này cũng đang là tâm điểm của những mối căng thẳng tại Washington và Bruxelles chung quanh chính sách đầu tư của Âu, Mỹ ra nước ngoài ».
Trong số các nhà đầu tư ngoại quốc vào công nghệ cao Trung Quốc, Liên Hiệp Châu Âu bị bỏ xa lại phía sau. Trong Liên Hiệp Châu Âu, thì Đức dẫn đầu với 49 dự án, Pháp về nhì với 36 thương vụ và Hà Lan đứng hạng 3, với 12 dự án. Tập đoàn Trung Quốc Didi, (tương đương với Uber), ông trùm về data center Tenglong Holding, hay Alibaba trong ngành mua bán trên mạng internet, đều đã phát triển nhờ có ít nhất là một nhà đầu tư Hoa Kỳ (Mathilde Velliet, p.49).
12 % đầu tư của Âu Mỹ tại Trung QuốcNhìn về tổng thể, trên 100 dự án đầu tư vào công nghệ cao tại Trung Quốc, 75 % do nước chủ nhà đảm nhiệm. Hoa Kỳ và Liên Hiệp Châu Âu chỉ hiện diện trong 12 % các dự án và gần như luôn phải « đồng hành », dưới nhiều khía cạnh khác nhau, với các đối tác Trung Quốc.
Mathilde Velliet : « Khác biệt chính giữa Mỹ và châu Âu là về số lượng các dự án đầu tư. Trong cả bốn lĩnh vực vừa nêu (trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học, công nghệ bán dẫn, tin học lượng tử), Hoa Kỳ là nguồn đầu tư ngoại quốc lớn nhất vào Trung Quốc với tổng cộng 1602 dự án trong hai thập niên qua. Con số này cao hơn rất nhiều so vớ 149 dự án của Liên Hiệp Châu Âu trong cùng thời kỳ. Ngoài ra, châu Âu chú ý nhiều vào các chương trình hợp tác trong lĩnh vực trí tuệ nhân tạo để sử dụng trong một vài lĩnh vực công nghiệp cụ thể, như trong ngành sản xuất xe hơi hay ngành kỹ thuật hóa học. Thí dụ như Đức đầu tư vào các dự án với Trung Quốc giúp ích cho công ngành sản xuất xe hơi.
Trái lại, các dự án của Mỹ đa dạng hơn, bao gồm cả bốn lĩnh vực tôi đã nêu bật trong nghiên cứu của mình. Khác biệt thứ ba giữa các dự án đầu tư của châu Âu và Mỹ vào Trung Quốc mang tính chiến lược : Đành rằng cả Bruxelles lẫn Washington cùng cân nhắc về mức độ rủi ro trong các dự án đầu tư vào Trung Quốc. Nhưng Nhà Trắng đã thông qua sắc lệnh để hạn chế đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Mỹ vào Trung Quốc, trong lúc Liên Âu thì vẫn còn đang trong giai đoạn suy nghĩ và tránh nhắm thẳng vào Trung Quốc ».
Bắc Kinh kiểm soát đầu tư nước ngoàiVẫn bài nghiên cứu của Mathilde Velliet, Viện Quan Hệ Quốc Tế Pháp ghi nhận : trong 4 lĩnh vực then chốt bà quan tâm, Âu-Mỹ đặc biệt chú ý đến trí tuệ nhân tạo và công nghệ sinh học. Nhưng phương Tây chỉ chiếm thiểu số trong cả 4 mảng công nghệ mới nói trên. Trung Quốc và các ngân hàng của nước này đài thọ 78 % các dự án phát triển công nghệ sinh học và bán dẫn ; 77 % trí tuệ nhân tạo ; Trung Quốc đảm nhiệm 84 % đầu tư vào các phương tiện tin học lượng tử. Đến nay Mỹ trực tiếp tham gia vào hai chương trình đầu tư phát triển tin học lượng tử cho Bắc Kinh, Ý là một dự án. Tuy nhiên trong tất cả những lĩnh vực nhậy cảm vừa nêu, 3/4 trong số các dự án Âu, Mỹ được phép tham gia, đều là những mối « liên doanh » với các hãng của Trung Quốc.
Câu hỏi kế tiếp là tại sao Mỹ và Liên Hiệp Châu Âu lo ngại về các khoản đầu tư dù khá ít ỏi (so sánh về số lượng dự án) vào Trung Quốc ?
Mathilde Velliet : « Các dữ liệu được thống kê trong 20 năm qua cho thấy, Mỹ và Liên Âu đầu tư vào công nghệ bán dẫn, vào trí tuệ nhân tạo, vào công nghệ sinh học và bất ngờ hơn cả là vào công nghệ thông tin lượng tử của Trung Quốc. Bất ngờ do chúng ta biết công nghệ thông tin lượng tử là một chìa khóa trong các cuộc chạy đua về công nghệ cao. Điều đó không cấm cản Mỹ đã đầu tư vào hai dự án và Liên Âu tham gia vào một chương trình hợp tác với Trung Quốc. Giờ đây điều khiến Washington lo ngại không vì Trung Quốc đã phát triển nhờ gặt hái được những thành quả từ các khoản đầu tư trực tiếp của Mỹ. Mối nguy hiểm, theo đánh giá của Washington, nằm ở chỗ qua 1 dự án hợp tác, phía Trung Quốc tiếp cận được nhiều đối tác của Mỹ, với nhiều nhà đầu tư Mỹ, tạo được uy tín để thu hút thêm các dự án đầu tư khác … Chính hiện tượng vết dầu loang đó đã giúp cho công nghệ cao của Trung Quốc nhanh chóng phát triển ».
Thế còn về phía châu Âu ?
Mathilde Velliet : « Bruxelles đặc biệt quan ngại trước viễn cảnh đầu tư của châu Âu cho phép Trung Quốc nâng cao khả năng quân sự, phát triển những công cụ để tấn công tin học … và đó có thể là những mối đe dọa trực tiếp nhắm vào an ninh và hòa bình của thế giới. Chính điều này khiến Liên Hiệp Châu Âu trăn trở. Bruxelles ít quan tâm hơn đến vế cạnh tranh trực tiếp về công nghệ. Tôi xin lưu ý, thông thường, không phải lúc nào Liên Hiệp Châu Âu cũng tuân thủ những đòi hỏi của Hoa Kỳ nhưng riêng trên hồ sơ công nghệ, thì sở dĩ Bruxelles quan tâm đến các khoản đầu tư của châu Âu vào Hoa Lục do phía Mỹ khẩn khoản kêu gọi Liên Âu đề cao cảnh giác với Trung Quốc ».
Chính châu Âu và Mỹ phá rào ?Nghiên cứu mang tựa đề « Tài trợ cho đối thủ. Khi Mỹ và châu Âu đầu tư vào công nghệ Trung Quốc », Mathilde Velliet ghi nhận :
Có ít nhất hai dự án của Đức tại Trung Quốc liên quan trực tiếp đến các thực thể bị Hoa Kỳ đưa vào danh sách đen, do hoặc có liên hệ với quân đội Trung Quốc, hoặc do vi phạm nhân quyền, hoặc do hoạt động trong một lĩnh vực « trái ngược với lợi ích của Mỹ ».
Pháp đầu tư vào Trung Quốc qua trung gian Cathay Capital nhưng từ đầu tháng 1/2024, một trong những thành viên của Cathay bị Washington đưa vào danh sách trừng phạt.
Ngay bản thân Hoa Kỳ, cũng có không ít các nhà đầu tư Mỹ - như quỹ đầu tư GGV Capital - trong tầm ngắm của Hạ Viện Hoa Kỳ; « 7 trong số 10 nhà đầu tư lớn nhất của Mỹ đã bỏ vốn vào 4 lĩnh vực chiến lược của Trung Quốc, cộng tác với các doanh nghiệp Trung Quốc bị Washington trừng phạt ».
Trong số 1.602 dự án đầu tư của Mỹ vào Trung Quốc, có 12 thực thể Trung Quốc trong các lĩnh vực trí tuệ nhân tạo và công nghệ bán dẫn trong « danh sách đen ».
Phần lớn các hợp đồng được ký kết trước khi bộ Ngân Khố Hoa Kỳ công bố danh sách trừng phạt. Tuy nhiên nghiên cứu của viện IFRI cũng chỉ ra rằng, không ít các khoản đầu tư của Mỹ đã được đổ vào một số các doanh nghiệp nổi tiếng là hoạt động trong quỹ đạo của quân đội Trung Quốc, như Megvii, 4Paradigm, hay Intellifusion … Trường hợp một doanh nghiệp Mỹ hợp tác với 1 thực thể Trung Quốc đã có tên trong danh sách bị Hoa Kỳ trừng phạt cũng không phải là hiếm.
5 điểm kết luậnTrong phần kết luận, Mathilde Velliet đưa 5 điểm chính : Thứ nhất, trong tất cả 4 lĩnh vực công nghệ cao bà nghiên cứu, trọng lượng của đầu tư Âu, Mỹ vào Trung Quốc là « rất ít », 75 % vẫn phụ thuộc vào Bắc Kinh. Qua đó « tác động rất hạn chế » khi cho rằng đầu tư của phương Tây giúp công nghệ cao của Trung Quốc cất cánh và đây là kết luận thứ nhì của tác giả bài nghiên cứu.
Điểm thứ ba là trong 2 thập niên, châu Âu chỉ hiện diện trong 149 dự án đầu tư vào công nghệ cao của Trung Quốc, đó là một con số quá thấp để cho rằng Liên Hiệp Châu Âu đã biến Trung Quốc thành một mối đe dọa tiềm tàng …
Để trả lời câu hỏi tại sao dù với vị trí khiêm tốn Liên Hiệp Châu Âu và nhất là Hoa Kỳ lại sợ rằng đã « tài trợ cho một đối thủ » để giờ đây bị Trung Quốc bỏ lại phía sau, Mathilde Velliet tiếc rằng do thiếu một sự minh bạch cả từ hai phía (Âu - Mỹ và Trung Quốc) những dữ liệu bà khai thác không cung cấp những thông tin đáng tin cậy để giải đáp một cách nghiêm túc. Đó là kết luận thứ tư của tác giả.
Nhưng bài nghiên cứu của viện IFRI cho thấy mức độ phức tạp và chồng chéo trong mối liên hệ giữa các tập đoàn của Mỹ, của châu Âu với lại Trung Quốc. Đó là kết luận thứ 5 được tác giả nêu bật. Điểm cuối cùng này phần nào cho phép nghĩ rằng, không dễ áp dụng những sắc lệnh trừng phạt các công ty Trung Quốc khi mà số này đã gắn kết quá chặt chẽ với chính những tập đoàn công nghệ cao hàng đầu của Mỹ, với các quỹ đầu tư lớn nhất của Hoa Kỳ.
The podcast currently has 192 episodes available.
209 Listeners
18 Listeners
0 Listeners
22 Listeners
1 Listeners
6 Listeners
11 Listeners
171 Listeners
0 Listeners
13 Listeners
35 Listeners
5 Listeners
26 Listeners
0 Listeners
5 Listeners