Những vấn đề xã hội Việt Nam và trên thế giới qua lăng kính RFI
... moreShare Tạp chí xã hội
Share to email
Share to Facebook
Share to X
Tháng 05/2024, cựu thủ tướng Anh Rishi Sunak đã gửi lời xin lỗi công khai đến người dân vì một bê bối truyền máu nhiễm bệnh, khiến hàng chục nghìn người nhiễm HIV và viêm gan C. Một bê bối từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước, mà chính ông Sunak cũng phải thừa nhận rằng đó là “sự suy thoái đạo đức kéo dài hàng thập kỷ trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe” của chính phủ Anh.
Sự thật được phơi bày sau nhiều thập kỷBê bối bắt đầu từ những năm 1970-1980 tại Anh khi có hàng ngàn người cần truyền máu. Những người này được chia thành hai nhóm chính, một là những bệnh nhân thiếu máu trong quá trình phẫu thuật, trong các điều trị y tế, hay những phụ nữ vừa sinh con…
Nhóm thứ hai là những người mắc bệnh máu khó đông, một căn bệnh di truyền do thiếu hụt Yếu tố VIII hoặc IX, những yếu tố cần thiết cho quá trình tạo cục máu đông. Theo hãng tin AP, vào đầu những năm 1970, các bác sĩ đã phát hiện ra một phương pháp điều trị mới, được gọi là Yếu tố đông máu 8 (Factor VIII) và được ca tụng là phương thuốc kỳ diệu. Đây là loại thuốc được tách ra từ huyết tương người, do vậy cần một số lượng lớn nguồn cung huyết tương để sản xuất. Nhu cầu sớm vượt quá nguồn cung trong nước, vì vậy các quan chức y tế Anh đã bắt đầu nhập khẩu huyết tương từ Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, điều đáng nói là lý lịch của những người hiến máu gây nhiều lo ngại vì vào thời điểm đó, Yếu tố VIII được lấy từ máu của hàng chục ngàn người hiến tại Hoa Kỳ. Những người này hiến máu để kiếm tiền. Họ thường là tù nhân, những người làm nghề mại dâm hoặc những người nghiện. Chính điều này làm tăng đáng kể nguy cơ huyết tương bị nhiễm bệnh, mà chỉ cần một người hiến máu bị nhiễm bệnh thì toàn bộ lô sản phẩm đều sẽ bị nhiễm bệnh theo.
Theo ước tính từ cuộc điều tra kéo dài 6 năm mà chính phủ của thủ tướng Theresa May ra lệnh tiến hành năm 2017, hơn 30.000 người đã nhiễm virus viêm gan C hoặc HIV qua truyền máu hoặc do điều trị bằng Yếu tố VIII. Hơn 3000 người chết và hàng chục nghìn người phải sống chung với bệnh tật. Nhiều người còn lây sang gia đình và người thân của mình. Thẩm phán Brian Langstaff, người đứng đầu cuộc điều tra về bê bối “máu bẩn”, đã tố cáo rằng thảm hoạ này hoàn toàn “không phải một tai nạn” mà bắt nguồn từ sự tác trách, coi thường tính mạng của người dân. Giới chức Anh lúc đó đã bỏ qua các cảnh báo nguy hiểm, bỏ qua các phương pháp sàng lọc và xử lý nguồn máu vì lý do kinh tế, bỏ qua cả các quy tắc đạo đức.
Sai lầm nối tiếp sai lầm. Sau khi phát hiện ra những ca nhiễm HIV và viêm gan C do được truyền máu, chính phủ của cố thủ tướng Magaret Thatcher thời điểm đó, những người phải chịu trách nhiệm chính cho vụ việc này, thay vì dừng lại, nhận lỗi và sửa sai thì lại cố gắng che đậy, đưa thông tin sai sự thật đến người dân và tiêu huỷ các bằng chứng. Để rồi hơn 50 năm sau, người dân Anh mới được nhận lời xin lỗi công khai đầu tiên tới từ chính phủ Rishi Sunak. Đáng tiếc là hàng ngàn nạn nhân đã không còn sống để được nghe lời xin lỗi mà họ vẫn mong chờ.
“Vô hại”“Vô hại” là những gì mà chính phủ nói với công chúng. Theo nhật báo Anh The Guardian, tháng 11/1983, cựu bộ trưởng y tế Ken Clarke đã mạnh mẽ khẳng định trước báo giới rằng “không có bằng chứng thuyết phục” nào cho thấy HIV có thể lây truyền qua đường máu và nguy cơ virus viêm gan C gây bệnh là “rất thấp và không nghiêm trọng”. Để công chúng thêm tin tưởng, các bộ trưởng cũng liên tục nhắc lại rằng người dân Anh “đang nhận được sự điều trị tốt nhất hiện có”. Báo cáo điều tra của thẩm phán Langstaff còn chỉ ra rằng các bác sĩ cũng đóng góp một phần không nhỏ công sức vào việc lừa dối người dân. Các bác sĩ không những không thông báo cho bệnh nhân những nguy cơ tiềm ẩn trước khi bệnh nhân tham gia điều trị mà thậm chí cả khi những người này đã nhiễm virus HIV hay viêm gan C, các bác sĩ cũng che giấu thông tin về nguyên nhân và tình trạng bệnh của họ, dẫn đến những chậm trễ trong việc tiếp cận điều trị chuyên khoa.
“Vô trách nhiệm”“Vô trách nhiệm” là những gì công chúng nói về họ. Họ ở đây là chính phủ Anh thời điểm đó, và cụ thể hơn là Hệ thống Y tế Quốc gia Anh (National Health Service - NHS). Nhiệm vụ chủ đạo của cơ quan này là chăm sóc, nâng cao sức khoẻ cho người dân, ưu tiên và tôn trọng sinh mạng của bệnh nhân. Thế nhưng họ đã làm gì? ...
Họ làm ngơ trước những hiểm hoạ mà họ biết rõ. Theo đài BBC và tờ The Guardian của Anh, ngay từ những năm 1930, người ta đã biết rõ rằng việc truyền máu có thể làm lây nhiễm nhiều loại bệnh chết người. Virus gây ra bệnh viêm gan C đã xuất hiện ít nhất từ giữa những năm 1970, còn việc lây truyền HIV qua đường máu thì đã được giới khoa học xác nhận vào năm 1982.
Không chỉ vậy, họ còn biết rằng việc nhập khẩu máu và các chế phẩm máu thương mại sản xuất tại Mỹ mang nhiều rủi ro và ít an toàn hơn so với các phương pháp điều trị trong nước. Vào giữa những năm 1970, một giáo sư đã cảnh báo rằng các sản phẩm máu này được lấy “100% từ những người vô gia cư ở các khu vực tồi tàn”, trong khi đó Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kêu gọi các quốc gia tự chủ về nguồn máu để bảo đảm an toàn. NHS cũng tiến hành tăng quy mô của các bể chứa để sản xuất Yếu tố VIII dù biết như vậy có thể làm tăng đáng kể nguy cơ lây truyền virus.
Biết rõ là vậy nhưng giới chức y tế nước này đã không có những biện pháp cần thiết để bảo vệ người dân. Họ không những không đình chỉ việc nhập khẩu các sản phẩm máu thương mại từ Mỹ, mà cũng chẳng kiểm soát việc phân phối chúng. Việc triển khai xét nghiệm virus HIV và viêm gan C trong các sản phẩm máu được hiến cũng bị trì hoãn. Chính phủ cũng không đầu tư nghiên cứu các phương pháp làm bất hoạt virus, chẳng hạn như qua xử lý nhiệt.
Họ làm ngơ trước tính mạng của người dân. Dù tôn chỉ hành động là “tôn trọng mọi sinh mệnh, không phân biệt đối xử, luôn mang lòng trắc ẩn và sự tử tế” nhưng NHS đã sử dụng các học sinh khuyết tật tại trường Treloar's College như những con chuột bạch để thử nghiệm Yếu tố VIII. Vẫn theo báo cáo điều tra năm 2017, từ năm 1974 đến 1987, 122 đứa trẻ mắc bệnh máu khó đông (haemophilia) đã được điều trị tại ngôi trường này bằng phương pháp mới, một thứ phương pháp “kỳ diệu” khiến ít nhất 72 trong số này tử vong. Họ đa phần đều chết vì nhiễm HIV và các loại virus viêm gan A, B, C.
“Vô vọng”“Vô vọng” có lẽ là cảm giác mà những nạn nhân của bê bối này phải chịu đựng. Theo chân thông tín viên RFI Emeline Vin tại Anh, chúng ta sẽ cùng lắng nghe câu chuyện của chính những nạn nhân và người nhà của họ.
Rất nhiều người đã chết, trong đó có Collin Smith :
“Collin Smith là nạn nhân nhỏ tuổi nhất bị nhiễm bệnh. Cậu bé được chẩn đoán nhiễm Sida ngay trước sinh nhật năm hai tuổi. Mái tóc vàng và khuôn mặt tinh nghịch, cậu bé đã mất năm 1990, khi mới chỉ 7 tuổi. Bố mẹ của Collin cho biết :
“Trước khi chết, thằng bé rất gầy, nó chỉ còn da bọc xương. Khi đó nó nặng 6 kg, chỉ nặng hơn đứa trẻ mới sinh một chút. Hai tháng cuối dường như kéo dài vô tận với chúng tôi. Chúng tôi rất tuyệt vọng. Chẳng đêm nào chúng tôi ngủ được. Ít nhất bây giờ chúng tôi đã đủ dũng cảm để nhắc về thằng bé. Collin có tính cách rất đặc biệt. Là một đứa trẻ vui vẻ, thằng bé lúc nào cũng tươi cười, nó thường hay trêu chọc mọi người.”
Với những nạn nhân đã qua đời, nỗi đau để lại cho người thân, gia đình của họ. Vậy những người may mắn vẫn sống sót thì sao?
Vào những năm 80, Bob Naylor đã được truyền máu trong một cuộc phẫu thuật và đã bị nhiễm virus viêm gan C từ đó. Bob cho biết : “Tôi thường xuyên cảm thấy không khoẻ. Cảm giác mệt mỏi, uể oải khủng khiếp. Mỗi lần tôi đi ngủ, chân tôi lại bắt đầu bị chuột rút và co thắt. Tôi đau bụng và đau lưng, những cơn đau này chẳng bao giờ biến mất. Một hôm cô y tá đã nói với tôi rằng : Bob, anh biết không, cả đời này anh sẽ phải gặp chúng tôi. Tôi hỏi vì sao thì cô ấy trả lời : Gan của anh đã bị tổn hại nên anh sẽ luôn phải đi viện kiểm tra. Anh sẽ phải lấy máu 6 tháng một lần, siêu âm 6 tháng một lần, làm xét nghiệm Fibroscan 2 đến 3 năm một lần. Anh đã bị suy gan cấp tính.”
Không chỉ có những nỗi đau về thể xác, tinh thần của nạn nhân cũng bị khủng hoảng nghiêm trọng.
“Vào thời điểm đó, những người nhiễm HIV đều bị kỳ thị. Tại một thành phố nhỏ ở xứ Wales, Robert đã phải chịu sự phân biệt đối xử vì bị Sida. Anh cho biết : “Tôi đã kể việc mình bị nhiễm HIV cho chị gái mình và ngay sáng hôm sau, tất cả mọi người đều biết. Trên tường nhà của chúng tôi bị sơn chữ “Gia đình SIDA”. Cửa nhà thì bị vẽ chữ X. Gia đình tôi nhận được hàng tá cuộc điện thoại yêu cầu gửi tôi ra một hòn đảo hoang. Chúng tôi đã phải bỏ trốn, như thể là tôi đã giết người vậy. Thậm chí trong gia đình tôi, có người còn nói với con cái họ rằng đừng động vào đĩa của Robert, đừng động vào cốc của Robert. Nếu chính gia đình mình còn chẳng thể cảm thông với mình thì sao tôi có thể trông đợi là những người lạ ngoài kia sẽ hiểu cho tôi.”
“Vô tội”Nếu nạn nhân cảm thấy vô vọng thì những người chịu trách nhiệm chính trong vụ việc này cảm thấy gì? Có thể họ cảm thấy mình “vô tội”. Ta cần quay lại vụ bê bối tương tự, diễn ra tại Pháp vào cùng khoảng thời điểm trên. Theo Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA), khi đứng trước toà vào tháng 01/1992, cựu bộ trưởng phụ trách các vấn đề xã hội, bà Georgina Dufoix, vẫn không can tâm và phát biểu một câu “đi vào lịch sử” rằng : “Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm nhưng không cảm thấy mình có tội.”
Dù chưa khảng khái trả lời như cựu bộ trưởng Dufoix tại Pháp, nhiều người vẫn tự hỏi rằng phải chăng giới chức Anh lúc đó cũng đã không cảm thấy tội lỗi. Vì nếu thấy có tội, thấy cắn rứt lương tâm, họ đã đứng ra chịu trách nhiệm, họ sẽ không để người dân phải chờ tới vài thập kỷ mà vẫn chưa nhận được lời xin lỗi. Xin nhắc lại rằng lời xin lỗi hồi tháng 05/2024 đến từ cựu thủ tướng vừa miễn nhiệm Rishi Sunak, chứ hoàn toàn không đến từ những quan chức trong chính phủ Anh thời điểm đó, những người trực tiếp đứng sau thảm hoạ này.
Có lẽ trong bê bối này, từ “vô tội” chỉ được dành cho những nạn nhân, những người đã chết, đã nhiễm bệnh vì tin tưởng vào các bác sĩ, vào hệ thống y tế quốc gia, vào chính phủ. “Vô tội” cũng là những học sinh khuyết tật của trường Treloar’s College thời điểm đó, những đứa trẻ được đem ra làm thí nghiệm.
Điều đáng ngạc nhiên ở bê bối máu bẩn là nó không chỉ xảy ra ở Anh, mà còn ở rất nhiều nước khác trên thế giới, từ Pháp, Nhật Bản đến Trung Quốc. Dù quy mô của thảm hoạ khác nhau, nhưng điểm chung của tất cả các bê bối này là các quan chức thời điểm đó đã làm việc tắc trách và không tôn trọng tính mạng của người dân.
Năm 2023, bất chấp lạm phát, khủng hoảng kinh tế, người dân Pháp vẫn duy trì lòng hảo tâm, đóng góp cho các tổ chức thiện nguyện, dù là tổ chức giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ trẻ em, giáo dục hay nghiên cứu y khoa, chăm sóc động vật … Dẫu có những người do hạn hẹp về tài chính đã phải cắt giảm các khoản quyên tặng, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều người giàu có tích cực đóng góp hơn.
Để hiểu thêm về tình hình quyên góp cho các tổ chức thiện nguyện, vừa qua, RFI Tiếng Việt đã có cuộc trao đổi với bà Nadège Rodriguez, giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités. Đây là nghiệp đoàn chuyên nghiệp của các hiệp hội và tổ chức kêu gọi lòng hảo tâm của người dân Pháp, năm 2024 quy tụ khoảng 150 tổ chức, được xem là những tổ chức phục vụ lợi ích chung của cộng đồng.
RFI : Xin chào Nadège Rodriguez. Bà là giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités. Xin bà giải thích cho thính giả, độc giả của đài RFI Tiếng Việt biết liệu trong thời gian qua, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, lạm phát, liệu người dân Pháp có còn hào phóng và nhiệt tình quyên góp tiền cho các hiệp hội và quỹ thiện nguyện ?
Nadège Rodriguez : Tôi xin giải thích là chúng tôi dựa vào các nghiên cứu thường niên có tên gọi Thước đo lòng hảo tâm của người Pháp năm 2023, năm có tỉ lệ lạm phát cao, lên đến 4,9%. Chúng tôi nhận thấy là số tiền người Pháp hảo tâm quyên tặng tăng 2,1% tính theo trị giá đồng euro hiện tại. Đối với chúng tôi, đây là một điều đáng nói trong bối cảnh khả năng chi tiêu của người Pháp đã bị giảm sút. Thông tin mới này không tệ như chúng tôi lo nghĩ ban đầu.
Giải thích điều này thế nào ư? Tại sao người Pháp vẫn tiếp tục lòng hảo tâm trong khi tài chính hạn hẹp hơn ư ? Vâng, đúng là có nhiều người mong muốn quyên tặng tiền cho các tổ chức. Dựa vào một cuộc khảo sát khác liên quan đến những người Pháp có thể đã quyên tặng nhiều hơn trong năm nay, lý do chính của họ là trong họ có niềm tin là họ giúp đỡ được người khác và mong muốn được giúp đỡ mọi người, mong muốn giúp đỡ những hiệp hội đang gặp khó khăn.
Với tình trạng bất bình đẳng gia tăng mạnh, có nhiều người cần được các tổ chức này hỗ trợ hơn, và trong bối cảnh lạm phát này, các tổ chức cũng phải gánh chịu tình trạng chi phí gia tăng, họ phải đương đầu với nhiều khó khăn. Và người dân Pháp đã nghe và thấu hiểu những lời kêu gọi giúp đỡ của các hiệp hội, tổ chức, họ mong muốn đóng góp, nên ai có khả năng thì họ quyên tặng nhiều hơn cho các tổ chức này. Nhờ vậy mà chúng tôi ghi nhận tỉ lệ quyên góp từ thiện tăng.
RFI : Theo các nghiên cứu của France Générosités, ai là những người tích cực đóng góp từ thiện nhất tại Pháp ? Sự tăng hay giảm quyên góp tiền thì liên quan chủ yếu đến nhóm người nào tại Pháp ?
Nadège Rodriguez : Có lẽ tôi xin trả lời câu hỏi thứ hai của chị trước. Quả thực, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta nên xem xét một chút về số tiền quyên tặng. Về năm 2023, chúng tôi quan sát thấy có sự sụt giảm số khoản quyên tặng dưới 150 euro, số khoản quyên tặng dưới 50 euro thậm chí còn giảm mạnh hơn.
Chúng tôi thấy có một mối liên hệ chặt chẽ ở đây, nhất là chúng tôi đã dựa vào các cuộc khảo sát, và thấy là những người bị ảnh hưởng nhiều hơn về sức mua đã không thể quyên góp, họ tạm thời ngừng quyên góp. Hoặc có nhiều hiệp hội cần lòng hảo tâm nên họ phải quyết định đưa ra lựa chọn. Như vậy, những người có điều kiện tài chính khiêm tốn nhất cuối cùng đã ngừng đóng góp tiền hoặc quyên góp ít hơn nhiều. Nhưng phần chệnh lệch này cũng đã được bù đắp, bởi lòng hảo tâm của những người ít chịu ảnh hưởng hơn từ những cuộc khủng hoảng liên tiếp xảy ra và hào phóng hơn, nhờ đó số tiền quyên góp đã tăng lên. Và nếu quan sát các khoản tiền quyên góp nói chung thì chúng tôi thấy mỗi năm chúng ngày càng tập trung vào những nhóm người giàu có nhất. Con số mà hiện giờ chúng tôi có là 1% những nhà hảo tâm hào phóng nhất quyên tặng tới 22% tổng số tiền. Thật không may là có ngày càng nhiều người, do khả năng chi tiêu giảm sút, đã không thể quyên góp tiền.
RFI : Theo bà thì đâu là những hiệp hội, quỹ, tổ chức nhận được nhiều tiền quyên tặng nhất? Và hoạt động thiện nguyện nào nhận được nhiều sự ủng hộ nhất?
Nadège Rodriguez : Câu hỏi này khá khó trả lời bởi vì đáp án thay đổi tùy theo từng cuộc khảo sát, tùy theo câu hỏi được đặt ra. Chúng tôi hàng năm cứ vào tháng 03 thì cũng tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến cùng với Viện Ifop. Câu hỏi chúng tôi đặt ra : « Đâu là những hoạt động thiện nguyện mà quý vị cho rằng cần được ưu tiên nhất ? ». Và từ 10 năm nay, khi đặt câu hỏi này với người dân Pháp, chúng tôi thấy rằng hoạt động được ưu tiên nhiều nhất là giúp đỡ và cứu trợ trẻ em.
Tiếp theo đó, theo khảo sát năm 2023, hoạt động được ưu tiên thứ hai là bảo vệ động vật. Hoạt động này từ nhiều năm nay đã vươn lên top đầu và hiện giờ thì nằm ở vị trí thứ 2. Nhưng cách nay 10 năm thì nó không thu hút được nhiều lòng hảo tâm như thế đâu. Xu hướng này khá là mới. Từ 3-4 năm nay, chúng tôi quan sát thấy mọi người quan tâm nhiều hơn đến việc giúp đỡ các tổ chức bảo vệ động vật. Đứng ở vị trí thứ 3 là tài trợ nghiên cứu y học. Đây là một lĩnh vực thu hút được rất nhiều tiền quyên tặng, chúng tôi đặc biệt ghi nhận những nhà tài trợ cao tuổi nhất. Tôi xin nói một chút như vậy về 3 lĩnh vực mà theo mọi khảo sát thì đều nằm trong số 2-3 lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của người dân Pháp.
RFI : Vậy người Pháp hào phóng nhất vào những dịp nào ? Trong những năm qua, sự kiện nào thu hút được nhiều nhà hảo tâm nhất ?
Nadège Rodriguez : Trong nghiên cứu thường niên, chúng tôi đều tìm hiểu về điều này, từ 20 năm nay rồi. Quý 3 tháng cuối năm tập trung 41% tổng số tiền quyên góp của người dân Pháp. Có nhiều điều xảy ra vào cuối năm và tháng 12 thực sự là tháng người Pháp tham gia quyên góp nhiều, thực sự là năm nào cũng vậy. Trái lại, quả thực là mỗi năm chúng tôi cũng tìm hiểu cả theo bối cảnh. Và thật không may, ngày càng có nhiều cuộc khủng hoảng cứ nối tiếp nhau, đòi hỏi có lòng hảo tâm của mọi người để đối phó với khủng hoảng, một cách nhanh chóng, khẩn trương và với sự huy động tích cực của các tổ chức để khẩn cấp giúp đỡ những người đột ngột bị tác động.
Về những năm qua, chắc là tôi cũng không cần phải nhắc lại cuộc khủng hoảng Covid. Nhưng đúng là khủng hoảng Covid rất mạnh, mang tính toàn cầu. Tại Pháp, đã có 111 cuộc phát động các chiến dịch quyên góp lớn vào thời điểm đó. Đúng là năm 2020 cũng là năm mà số tiền quyên tặng lên đến đỉnh rất cao, cho dù khủng hoảng chỉ bắt đầu từ tháng 03/2020. Chúng tôi đạt mức quyên góp cao nhất vào thời điểm đó và tiền quyên tặng còn được bổ sung thêm trong suốt cả năm. Nhưng thật không may là cuộc khủng hoảng bùng nổ ở Ukraina vào tháng 03/2022. Chúng tôi cũng đã kêu gọi quyên góp để giúp đỡ người dân Ukraina và đỉnh điểm là số tiền chúng tôi nhận được đã chiếm tới 4-5% tổng số tiền quyên được hàng năm.
Rồi thì trận động đất kinh hoàng năm 2023 ở Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 02, động đất ở Maroc vào tháng 09 cũng làm tăng bùng phát số tiền quyên tặng một cách đột xuất. Người dân Pháp đã muốn giúp đỡ, đã huy động tiền bạc để quyên góp giúp đỡ mọi người. Trong những đợt kêu gọi quyên góp khẩn cấp, thì đó là những thời điểm huy động sự hào phóng, lòng hảo tâm của người Pháp đã được truyền thông loan báo rộng rãi và người Pháp đã đáp lại. Điều này thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và cam kết của người Pháp trong việc cứu giúp những người cần sự trợ giúp nhất.
RFI Tiếng Việt : Nadège Rodriguez, là giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités, vậy theo quan sát của bà, các hình thức quyên tặng liệu có những thay đổi theo thời gian ? Có những xu hướng mới nào ? Và đâu là những hình thức quyên góp được ghi nhận nhiều nhất ?
Nadège Rodriguez : Không thể phủ nhận là sự xuất hiện mạnh mẽ của công nghệ số trong đời sống của tất cả mọi người cũng đã ảnh hưởng đến cách thức liên hệ và kêu gọi lòng hảo tâm. Đơn cử một con số, hồi năm 2019, hình thức quyên góp trực tuyến mới chỉ chiếm 20%. Nhưng chỉ 4 năm sau, đến năm 2023, con số này đã tăng lên thành 30%. Theo các phân tích xu hướng thì tăng 10% chỉ trong khoảng thời gian ngắn như vậy là rất nhiều đấy. Và vào thời phong tỏa (chống dịch Covid-19) thì xu hướng này lại càng tăng nhanh nếu so với việc sử dụng công nghệ số trong cuộc sống hàng ngày và để thanh toán.
Về phía các tổ chức vì lợi ích chung, họ cũng biết cách đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cách giao tiếp, liên lạc và kêu gọi quyên tặng với mọi kỹ thuật có được nhờ công nghệ số. Đây thực sự là một cuộc cách mạng diễn ra mạnh mẽ, một sự tăng tốc chuyển đổi nhanh chóng các phương thức quyên góp.
RFI Tiếng Việt : Chúng ta đều biết là ủng hộ các hoạt động thiện nguyện không chỉ là cho tặng tiền, mà ví dụ còn là góp thời gian, phương tiện vật chất hay sức lực, công sức. Vậy người Pháp có tích cực tham gia vào các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng như vậy hay không ?
Nadège Rodriguez : Về câu hỏi này, thì quả thực cũng đã có 1 nghiên cứu về tình đoàn kết, tương thân tương ái, được tiến hành hàng năm liên quan đến hoạt động tình nguyện của người Pháp. Chúng tôi ước tính rằng hiện nay có 16 triệu tình nguyện viên trong các hiệp hội, còn tính tổng thể thì con số này là 20 triệu. Như vậy là rất nhiều. Nếu so với con số 5 triệu hộ gia đình quyên tặng tiền thì số tình nguyện viên như vậy là đông hơn số người quyên tặng tiền.
Và xu hướng mà chúng tôi quan sát thấy là có sự tích cực cống hiến thời gian, đồng thời cũng có sự thay đổi. Thường thì đó là những người cao tuổi, có nhiều thời gian và cống hiến thời gian đều đặn, tuần nào họ cũng thường xuyên dành thời gian cho các hiệp hội. Thế rồi dịch Covid-19 đã khiến thói quen này thay đổi nhanh chóng. Không phải người lớn tuổi nào cũng đều trở lại sau thời gian phong tỏa chống dịch, và công việc của họ được những người trẻ tuổi tiếp quản. Và chúng tôi thực sự thấy rằng có một sự nhiệt tình, một sự tham gia mạnh mẽ và được thúc đẩy nhanh chóng trong giới trẻ để cống hiến thời gian cho các tổ chức vì lợi ích chung của cộng đồng. Nhưng họ làm theo cách khác những người đi trước. Sự đóng góp, cống hiến thời gian của họ mang tính bột phát nhiều hơn. Điều này đòi hỏi các tổ chức phải kêu gọi, huy động tình nguyện viên. Và hoạt động tình nguyện là điều cần thiết để triển khai sứ mệnh của các tổ chức này. Các tổ chức phải tiến hóa, thích ứng với những thay đổi trong cách tham gia hoạt động tình nguyện của người Pháp.
RFI Tiếng Việt : Về phía các tổ chức, hiệp hội, theo bà thì đâu là những thách thức lớn nhất trong tương lai ? Đối với bà, điều gì là đáng lo ngại nhất ?
Nadège Rodriguez : Tôi xin nói đến những hiệp hội và quỹ kêu gọi lòng hảo tâm, tức là hoạt động với mô hình kinh tế, theo đó tiền quyên góp là nguồn chính để họ tiếp tục thực hiện các sứ mệnh vì lợi ích chung. Thách thức lớn là phải dự báo, chuẩn bị trước và tìm nguồn thay thế cho những người vốn là những nhà hảo tâm từ lâu năm và nay đã cao tuổi. Hiện nay, độ tuổi trung bình của những người hảo tâm hay quyên góp là 62 tuổi, cao nhất là 75 tuổi. Đối với những người trong độ tuổi 35-55, chúng tôi biết rằng khó vận động họ đóng góp hơn. Đó là nhóm người ít quyên góp nhất.
Như tôi đã nói ở trên, việc quyên góp tập trung nhiều ở nhóm người ít bị tác động nhất bởi các cuộc khủng hoảng xảy ra liên tiếp, tức là nhóm những người giàu có nhất. Chính vì thế, cần phải tìm kiếm vận động những người đến nay vẫn ít quan tâm đến việc quyên tặng và cũng cần nói chuyện thêm với những người trẻ tuổi để họ phát huy sự hào phóng. Đó thực sự là thách thức, bởi vì tôi cũng xin nhắc lại là chúng ta đang ở trong bối cảnh mà ngày càng có nhiều người cần được giúp đỡ, hỗ trợ, những người bắt đầu lâm vào cảnh ít nhiều bấp bênh và các tổ chức thiện nguyện mong muốn giúp đỡ. Ngày càng có nhiều người cần được giúp đỡ và không may là chúng tôi cũng có nhiều mối lo, tài trợ công thì cũng bị giảm. Vậy nên, nếu các tổ chức này muốn tiếp tục vận hành hàng ngày thì họ phải vượt qua được những thách thức đó.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn bà Nadège Rodriguez, giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités đã tham gia chương trình hôm nay !
Tại cuộc triển lãm công nghệ Vivatech ở Paris cuối tháng 5/2024, bao trùm lên hết là trí tuệ nhân tạo ( Artificial intelligence - AI ), với vô số các ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực. Đặc biệt trí tuệ nhân tạo được sử dụng ngày càng nhiều trong việc cải thiện cuộc sống của những người tàn tật, trong đó có người mù và khiếm thị.
Nhờ những tiến bộ của trí tuệ nhân tạo (AI), các công nghệ hỗ trợ bằng giọng nói giờ đây trở nên hiệu quả hơn bao giờ hết, giúp người mù và người khiếm thị vượt qua những trở ngại đang hạn chế họ.
Chẳng hạn như công ty Israel Orcam, được thành lập năm 2010, đã phát triển một loại camera mang trên Orcam MyEye, với giá khoảng hơn 2.000 euro, gắn trên mắt kính, với ứng dụng trí tuệ nhân tạo để giúp cho người mù và người khiếm thị hiểu được các văn bản và xác định được các vật thể nhờ giọng nói mô tả những gì mà họ không nhìn thấy được.
Tại Triển lãm Điện tử Tiêu dùng CES ở Las Vegas, Hoa Kỳ, đầu năm nay, công ty khởi nghiệp Lumen của Rumani đã giới thiệu một loại mắt kính có thể thay thế chó dẫn đường. Công nghệ này sử dụng các cảm biến, tai nghe để hướng dẫn người mù, người khiếm thị. Khi phát hiện một thứ gì đó đang chặn đường, tai nghe sẽ rung ở bên phải hoặc bên trái để hướng dẫn đổi hướng. Có 6 camera và sử dụng trí tuệ nhân tạo, loại mắt kính này coi như mô phỏng các đặc điểm chính của chó dẫn đường.
Bên cạnh đó còn có những trợ lý giọng nói, chẳng hạn như Siri, Google Assistant và Amazon Alexa, có thể đáp lại các lệnh thoại, cung cấp thông tin theo thời gian thực và thậm chí thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Do đó, đối với người khiếm thị và mù, những trợ lý giọng nói này trở thành người bạn đồng hành kỹ thuật số cho phép họ truy cập thông tin.
Trong việc hỗ trợ người mù và người khiếm thị, người ta cũng sử dụng ngày càng nhiều những chatbots, tức là những chương trình trí tuệ nhân tạo được thiết kế nhằm mô phỏng lại các cuộc trò chuyện với người dùng thông qua nền tảng internet. Các chatbot đó được thiết kế đặc biệt để đáp ứng nhu cầu của người khiếm thị và người mù. Các chatbot này sử dụng giao diện giọng nói và văn bản để cho phép giao tiếp liền mạch. Họ có thể hiểu và trả lời các câu hỏi, đưa ra lời khuyên, hỗ trợ. Sử dụng trí thông minh đàm thoại, các chatbot được điều chỉnh này được cá nhân hóa và dễ tiếp cận cho những người khiếm thị và người mù.
Chính là theo chiều hướng này mà một ê kíp ở vùng Paris đã phát triển một loại điện thoại với ứng dụng chatbot dành riêng cho người mù và người khiếm thị. Điện thoại hiện được bán với giá khoảng gần 385 euro, cộng thêm tiền thuê bao mỗi tháng 12 euro.
Nói chung, trí thông minh nhân tạo với chức năng đàm thoại đang cách mạng hóa khả năng tiếp cận cho người khiếm thị và người mù. Nhờ công nghệ hỗ trợ giọng nói, họ trở nên độc lập hơn và hòa nhập xã hội tốt hơn.
Nhưng những sáng chế về trí thông minh nhân tạo hỗ trợ cho người mù và người khiếm thị không chỉ dừng ở đó. Có mặt tại triển lãm VivaTech cuối tháng 5/2024, công ty khởi nghiệp Biped.ai, trụ sở tại Lausanne, Thụy Sĩ, đã giới thiệu một sản phẩm mang tên NOA, một dây nịt được trang bị thiết bị định vị GPS và máy tính kết hợp với trí tuệ nhân tạo tổng hợp để phát hiện chướng ngại vật cho người mù và khiếm thị.
Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm Vivatech, đại diện của công ty Biped.ai, kỹ sư tin học Paul Prevel, cho biết:
“Công ty của chúng tôi đã được thành lập từ 3 năm nay và chúng tôi đã bỏ ra 2 năm để nghiên cứu phát triển NOA, huy động 250 người thử nghiệm beta. Năm nay, chúng tôi bước vào giai đoạn thương mại hóa, chuẩn bị mở thị trường Hoa Kỳ, châu Âu và Úc. Sản phẩm sẽ được bán với giá 4.300 euro. Mục đích là tạo một giải pháp với giá cả dễ tiếp cận hơn.
Dĩ nhiên là ở mỗi nước chúng tôi sẽ làm việc với các nhà phân phối để sản phẩm được hoàn trả một phần hay toàn bộ, tùy theo quy định của các nước. Ở Pháp, các cơ quan cấp tỉnh đặc trách về những người tàn tật sẽ hoàn trả đến 65% giá mua sản phẩm.”
Nói là dây nịt nhưng thật ra NOA là một dây đai đeo trên vai, với camera góc rộng ở bên trái ngực, một máy tính nhỏ ở bên phải và một pin phía sau cổ. Nhờ trí tuệ nhân tạo, NOA xác định các mối nguy hiểm, hướng dẫn và mô tả môi trường xung quanh người sử dụng. Toàn bộ dây nịt nặng chưa tới 1 kg.
Tham vọng của những người sáng lập công ty khởi nghiệp Biped là tạo ra một sự đổi mới có thể thay đổi cuộc sống của những người mù, người khiếm thị và có thể giúp họ tự khám phá những địa điểm mới, hoàn toàn an toàn và tự chủ. Ý tưởng là phát triển một “phi công phụ” lấy cảm hứng từ phương tiện tự hành, có khả năng đọc văn bản, nhận diện khuôn mặt, phát hiện các lối qua đường dành cho người đi bộ và cung cấp khả năng điều hướng khi di chuyển bên trong các tòa nhà.
Công ty khởi nghiệp này đã hợp tác với viện nghiên cứu Honda. Sản phẩm cùng tên của họ tự quảng cáo là “dây nịt phát hiện các chướng ngại vật đang đến gần và cung cấp hướng dẫn GPS, tất cả trong một, kèm theo phản hồi bằng âm thanh”. Các mô hình nhận dạng đối tượng bằng thuật toán xác định chướng ngại vật (tĩnh hoặc chuyển động) và dự đoán rủi ro va chạm. Người dùng được thông báo bằng tín hiệu âm thanh qua tai nghe Bluetooth.
Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm Vivatech, kỹ sư tin học Paul Prevel giải thích thêm:
“ NOA có 3 chức năng. Chức năng thứ nhất là dẫn đường, làm sao đưa người mù tới một điểm đến mới. Chức năng thứ hai là phát hiện các chướng ngại vật, những vật thể mà “gậy trắng”, tức là gậy trang bị cho người mù không thể phát hiện được, chẳng hạn như những vật ngang đầu hay những hố mà “gây trắng” không thể dò được. Chức năng thứ ba là vận dụng trí tuệ nhân tạo, mô tả bằng giọng nói những gì mà camera thấy được.
Ứng dụng dẫn đường chủ yếu dùng thiết bị định vị GPS, nhưng trên đường đi, trí tuệ nhân tạo sẽ được sử dụng những khi phải băng qua đường, hướng dẫn người mù đến làn dành cho người đi bộ, bấm nút để chờ đèn xanh. Hệ thống sau đó sẽ hướng dẫn đi như thế nào để lúc nào cũng ngay giữa lối đi, có đông người đi không, có xe nào dừng kế bên không. Camera sẽ thu thập tất cả những thông tin ba chiều chung quanh người mù để cảnh báo là có một cái hố hay một cây cột trên đường, hay có một người đi từ phía trước đến.
Khi tới điểm đến dự kiến, hệ thống sẽ hướng dẫn đến cửa vào tòa nhà, cửa có mở hay không, cầu thang nằm ở đâu.”
Lý tưởng nhất là dây nịt này bổ sung cho gậy hoặc chó dẫn đường cho người mù và người khiếm thị. Giải pháp NOA cũng có thể được áp dụng cho thế giới việc làm, hỗ trợ những người mù và người khiếm thị làm công việc hàng ngày trong công ty của họ. Về lâu dài, những người đồng sáng lập Biped hy vọng công nghệ của họ thậm chí sẽ có thể giúp người dùng chạy hoặc thậm chí trượt băng.
Trên toàn thế giới có hơn 300 triệu người khiếm thị và 40 triệu người bị mù hoàn toàn. Giải pháp của biped.ai có tiềm năng trở thành giải pháp cứu mạng nhiều người: bằng cách kết hợp xử lý tín hiệu và thị giác bằng máy tính tiên tiến, biped.ai có thể cung cấp thông tin chi tiết nhanh hơn tới 10 lần so với các “đối thủ” cạnh tranh.
Giải pháp NOA cũng bắt đầu được ứng dụng trong hệ thống giao thông công cộng ở Thụy Sĩ. Từ tháng 6 năm nay, trên tuyến tàu điện ngầm M2 ở Lausanne, một tổ hợp gồm công ty Biped.ai, TL (Giao thông công cộng vùng Lausanne) và SME Urbagestion phát triển một giải pháp di chuyển độc đáo trên thế giới: hành trình hoàn toàn tự động đầu tiên dành cho người mù tới một điểm đến mới. Theo Maël Fabien, giám đốc và người đồng sáng lập công ty Biped.ai, dự án này "nhằm chứng minh rằng người mù có thể đến một cuộc hẹn mà không cần biết trước lộ trình”.
Trên thực tế, mục tiêu là điều chỉnh phát minh này cho phù hợp với điều kiện giao thông công cộng và bên trong các tòa nhà, nơi tín hiệu GPS không đi qua được.
Đầu tháng 06/2024, thông tin về vụ bê bối gian lận của ngành sản xuất xe hơi Nhật Bản lan tràn trên khắp các mặt báo. Hàng loạt các hãng xe lớn bị réo tên, từ Toyota, Honda, Mazda, Yamaha đến Suzuki.
Lãnh đạo các doanh nghiệp cũng ngay lập tức tham gia họp báo và gửi lời xin lỗi đến khách hàng. Thoạt nghe, nhiều người không khỏi hoan nghênh tinh thần dám nhận sai và dám sửa sai của các công ty. Nhưng chỉ khi đi vào phân tích hàm ý sâu xa của mỗi lời xin lỗi, người ta mới thấy đằng sau những cái cúi đầu nhận lỗi lại là văn hóa đổ lỗi của các doanh nghiệp.
Toàn cảnh vụ bê bối gian lậnVụ bê bối bắt đầu bị phanh phui từ cuối tháng 12 năm 2023 khi một hội đồng độc lập đã tiến hành điều tra các vấn đề an toàn liên quan đến 64 mẫu xe của Daihatsu. Theo hội đồng này, Daihatsu, công ty con của Toyota đã gian lận trong các cuộc kiểm tra an toàn va chạm bên hông được thực hiện với 88.000 chiếc xe, hầu hết được bán dưới tên Toyota. Nhưng sau đó, theo Reuters, đi sâu vào điều tra, hội đồng này tiết lộ rằng phạm vi của vụ bê bối đi xa hơn nhiều so với những gì họ ước tính trước đó và phát hiện ra là Daihatsu đã làm giả hồ sơ kiểm tra an toàn va chạm từ những năm 1980 như kiểm tra kích hoạt hệ thống túi khí.
Đây cũng chính là điểm khởi đầu cho một loạt điều tra sau đó của chính phủ Nhật nhắm vào các doanh nghiệp sản xuất ô tô của nước này. Theo trang Nikkei Asia, bộ Giao Thông Nhật Bản đã yêu cầu 85 công ty trong lĩnh vực sản xuất xe hơi và phụ tùng tự điều tra về những bất thường trong những đăng ký chứng nhận mẫu xe của họ. Sau yêu cầu trên, 5 công ty sản xuất xe hơi lớn của Nhật bao gồm Toyota, Honda, Mazda, Yamaha, Suzuki đã thừa nhận có những sai sót trong quá trình sản xuất. Bộ đã ra lệnh cho các công ty này tạm dừng vận chuyển các mẫu xe liên quan cho đến khi xác nhận chúng đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng quốc gia.
Theo tổng hợp từ tờ Japan Times và kênh BFM TV, những gian lận trên bao gồm :
- Toyota: gửi dữ liệu sai lệch trong các cuộc thử nghiệm bảo vệ người đi bộ, sửa đổi gian lận phương tiện thử nghiệm
- Mazda: viết lại phần mềm điều khiển động cơ trong quá trình thử nghiệm xuất xưởng, gian lận sửa đổi xe thử nghiệm trong quá trình thử nghiệm va chạm
- Yamaha: Các cuộc kiểm tra tiếng ồn được thực hiện trong điều kiện kiểm tra không phù hợp đối với một mẫu xe hiện đang được sản xuất và trình bày sai kết quả kiểm tra còi đối với hai mẫu xe đã sản xuất trước đó.
- Honda: khẳng định sai về kết quả kiểm tra độ ồn của 22 mẫu xe sản xuất trước đó.
- Suzuki: khai báo sai trong báo cáo thử nghiệm hệ thống phanh của mẫu ô tô đã sản xuất trước đó.
Các doanh nghiệp chân thành xin lỗi …Đứng trước cơn bão lớn sắp ập đến, mà theo Reuters có khả năng “làm hoen ố hình ảnh các công ty” hay theo NHK có thể “làm lung lay niềm tin của khách hàng”, các nhà sản xuất Nhật đã có một lựa chọn khôn ngoan : thừa nhận trách nhiệm và xin lỗi khách hàng. Theo dõi buổi họp báo của các tập đoàn, thông tín viên RFI, Bruno Duval tại Nhật Bản tường thuật :
“Họ cúi gập người từ 65 tới thậm chí là 90 độ. Cái cúi đầu thật lâu, tưởng như sẽ kéo dài vô tận. Quy tắc ở đây là thế. Khi bạn mắc lỗi chỉ xin lỗi thôi là không đủ. Đặc biệt là trong trường hợp này, khi ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản, với gần 6 triệu nhân công, đã chứng kiến vụ gian lận có hệ thống và rộng khắp.”
Đầu tiên phải kể tới Akio Toyoda, chủ tịch tập đoàn Toyota, thương hiệu xe hơi hàng đầu Nhật Bản. Trang tin NHK trích lời ông Toyoda, cho biết : “Với tư cách là người đứng đầu tập đoàn Toyota, tôi xin gửi lời xin lỗi chân thành tới các khách hàng, những người yêu xe và tất cả các bên liên quan.” Khi được hỏi về nguyên nhân của những sai phạm này, ông Sato Koji, tổng giám đốc Toyota, trả lời rằng điều này bắt nguồn từ khâu trao đổi giữa ban giám đốc và các công nhân trong nhà xưởng. Cụ thể, theo báo Pháp Les Echos, những người quản lý đã không đủ khả năng hiểu toàn bộ và theo dõi các chi tiết về những công việc tại xưởng sản xuất. Đồng thời, công nhân phải chịu áp lực vì ngành công nghiệp sản xuất xe hơi đang ngày càng cạnh tranh. Để tránh cho tình trạng tái diễn, công ty sẽ cải thiện trao đổi thông tin giữa ban giám đốc và các công nhân, xây dựng một hệ thống quản lý chặt chẽ hơn, chỉ định một “giám sát viên nội bộ” chuyên trách về vấn đề thử nghiệm.
Tương tự như vậy, giám đốc điều hành tập đoàn Mazda Masahiro Moro cho biết : “Cả công ty chúng tôi sẽ nỗ lực để ngăn chặn những sự cố như vậy xảy ra lần nữa bằng cách giải quyết các vấn đề được phát hiện trong cuộc điều tra này và sẽ nỗ lực hết sức để khôi phục niềm tin của mọi người đối với chúng tôi”. Còn tổng giám đốc tập đoàn Honda, Tochihiro Mibe thì trả lời : “Chúng tôi rất coi trọng vấn đề này … Chúng tôi xin lỗi sâu sắc” và sau đó cúi đầu thật thấp. Tóm lại, điểm chung trong câu trả lời của các lãnh đạo doanh nghiệp là : rất xin lỗi và hứa sẽ nỗ lực ngăn chặn những sự cố tương tự.
“Lỗi sai” chứ không phải là “sai phạm”Dù vậy những lời xin lỗi này vẫn bị nhiều người coi là chưa đủ thuyết phục. Nhiều tờ báo như Capital hay La Tribune đã phân tích rằng các doanh nghiệp chỉ thừa nhận có “lỗi sai” chứ không phải là “sai phạm” như những gì bộ trưởng Đất đai, Hạ tầng, Giao Thông và Du lịch Nhật Bản Tetsuo Saito đã khẳng định. Cụ thể trong buổi họp báo ông Saito cho biết : “Thật vô cùng đáng tiếc khi tiếp tục phát hiện thêm những hành vi sai phạm. (…) Các hoạt động gian lận liên quan đến việc chứng nhận các mẫu xe đã làm suy yếu niềm tin của người dùng và làm lung lay nền tảng hệ thống các quy tắc chứng nhận an toàn xe.” Tưởng như là đồng nghĩa, nhưng những từ như “lỗi sai” hay “sai sót” dễ khiến người nghe hiểu rằng đây là những hành động vô ý, trong khi từ “sai phạm” hay “gian lận” như bộ trưởng Giao Thông sử dụng đã chỉ rõ tính chủ đích của các hành động này. Và liệu có thể nói rằng việc khai báo sai trong báo cáo thử nghiệm hay thay đổi điều kiện thử nghiệm là các hành động “không cố ý”?
Nhận lỗi rồi lại đổ lỗiTiếp tục đi vào phân tích những lời xin lỗi của các doanh nghiệp, thông tín viên Bruno Duval cho biết :
“Chúng ta có thể thấy ngành công nghiệp xe hơi Nhật Bản vẫn đang phủ nhận và tự biện minh chứ không phải hối lỗi. Trên thực tế có sự tương phản rất lớn giữa một bên là tư thế cúi gập người của các giám đốc, một bên là những “yếu tố ngôn ngữ” trong lập luận của họ. Họ cho rằng “đó là câu chuyện đã cũ” vì 32 trên tổng số 38 mẫu xe bị ảnh hưởng không còn được bán trên thị trường.”
Lập luận này khiến cho người nghe dễ quên đi rằng 6 mẫu xe còn lại vẫn đang hàng ngày được giao tới tay người tiêu dùng. Những mẫu xe này đa phần được đưa vào tiêu thụ tại thị trường Đông Nam Á như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Cam Bốt và Việt Nam cùng một vài nước Trung và Nam Mỹ như Mêhicô, Ecuador, Peru, …
Ngoài ra, theo thông tín viên Duval, các chủ doanh nghiệp còn khẳng định :
“Chúng tôi là những người chuyên nghiệp”. Nói cách khác: các nhà sản xuất biết rõ hơn ai hết cách thiết kế, sản xuất và thử nghiệm xe. Ngụ ý: vấn đề ở đây là các tiêu chí chứng nhận chính thức của quốc gia. Chúng đã lỗi thời (có từ năm 1951), không phù hợp với tốc độ sản xuất và quá cứng nhắc. Kết luận: chúng ta phải sửa đổi các tiêu chí này để tránh gây bất lợi cho các nhà sản xuất Nhật Bản so với đối thủ cạnh tranh nước ngoài.”
Theo trang Nikkei, quả thực hãng xe Toyota tự đưa ra những tiêu chuẩn đôi khi còn cao hơn so với tiêu chuẩn quốc gia. Chẳng hạn như để kiểm tra nguy cơ rò rỉ nhiên liệu trong trường hợp va chạm từ phía sau, Toyota đã sử dụng một xe đẩy nặng 1.800 kg, trong khi đó tiêu chuẩn pháp lý chỉ là 1.100 kg. Tuy nhiên, một vài tiêu chuẩn cao hơn, vậy còn các tiêu chuẩn khác của Toyota thì sao? Có lẽ không nên đánh đồng rằng tất cả các tiêu chí của Toyota đều nghiêm ngặt hơn chuẩn quốc gia. Và chính chủ tịch Toyota cũng không thể phủ nhận là đã bỏ qua và/hoặc làm giả một số tiêu chuẩn để xe được lăn bánh. Càng đáng nói hơn là những điều này chỉ được thừa nhận sau khi có sự vào cuộc của chính quyền. Vậy nếu không bị tố giác, các doanh nghiệp sẽ che đậy những thông tin này đến khi nào? Họ sẽ giao đến cho khách hàng những chiếc xe được gắn mác “đạt chuẩn quốc gia” đến khi nào?
Từ lâu, các sản phẩm đến từ Nhật Bản vẫn luôn chiếm được niềm tin của người tiêu dùng Việt. Không chỉ các sản phẩm mới mà cả những sản phẩm đã qua sử dụng, hay thường được gọi là hàng Nhật bãi, cũng được nhiều gia đình tin tưởng. Vậy nhưng sau nhiều vụ bê bối như thép Kobe hay dược phẩm Kobayashi, và giờ lại tới các hãng xe hơi, nhiều người không khỏi hoài nghi về chất lượng và uy tín của các thương hiệu Nhật. Đối mặt với sự cạnh tranh gắt gao từ những thị trường mới nổi hay những sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc, người tiêu dùng hy vọng các nhà sản xuất của Nhật Bản không bị cuốn vào vòng xoáy này và quên đi những giá trị cốt lõi đã được gây dựng từ bao năm nay.
Tại triển lãm VivaTech 2024 ở Paris ( 22 - 25/05/2024 ), triển lãm lớn nhất châu Âu về các công nghệ mới, bao trùm lên hết vẫn là trí tuệ nhân tạo (AI), một công nghệ được sử dụng ngày nhiều trong mọi lĩnh vực, trong đó có y tế. Đặc biệt, trí tuệ nhân tạo đang dần dần trở thành một đồng minh đắc lực trong cuộc chiến chống ung thư tại những quốc gia có nền y khoa tiên tiến như Pháp.
Một số công ty công ty khởi nghiệp của Pháp đã không bỏ lỡ cơ hội VivaTech để giới thiệu các giải pháp dùng AI hỗ trợ chẩn đoán ung thư. Chẳng hạn như công ty Hope Valley AI đang phát triển hình ảnh y khoa để phát hiện ung thư vú dựa trên siêu âm và trí tuệ nhân tạo để sàng lọc hiệu quả hơn và sớm hơn.
Bà Hakima Berdouz, đồng sáng lập công ty Hope Valley AI, cho biết: “Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số lượng đáng kể bệnh nhân được phát hiện mắc bệnh ung thư vú trước đây có các triệu chứng rất nhẹ và không thể nhìn thấy được. Mặc dù cứ tám phụ nữ thì có một người mắc bệnh ung thư vú trong suốt cuộc đời, nhưng căn bệnh này được điều trị tốt và có thể chữa khỏi ở chín trên mười ca. Nhưng mỗi ngày vẫn có 33 phụ nữ chết vì căn bệnh này ở Pháp và gần 1.800 người trên toàn thế giới.”
Tại triển lãm VivaTech năm nay, công ty khởi nghiệp còn rất trẻ này đã giới thiệu phiên bản đầu tiên của ứng dụng điện thoại thông minh giúp phát hiện sớm các tín hiệu yếu về các bất thường ở vú, báo trước bệnh ung thư. Ứng dụng này nhằm mục đích nâng cao nhận thức và hướng dẫn phụ nữ, nhờ vào AI đàm thoại, để tự kiểm tra lâm sàng lần đầu tiên. Ứng dụng sẽ được ra mắt chính thức trong chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh ung thư vú mang tên “Tháng Mười Hồng” ( Octobre rose )
Tham vọng của Hope Valley AI là ứng dụng điện thoại thông minh của họ phải là viên gạch đầu tiên để phát triển “thuốc ngừa siêu cá nhân hóa”. Thứ hai sẽ là “hệ thống chụp nhũ ảnh của tương lai”. Không giống như các thiết bị hiện tại, “Mammope” đang được chuẩn bị sẽ không sử dụng tia X mà sử dụng hệ thống hình ảnh đa phương thức (siêu âm, đo nhiệt độ hồng ngoại, thị giác máy tính) và sẽ sử dụng trí tuệ nhân tạo.
Cũng trong lĩnh vực chống ung thư, tại VivaTech 2024, có một công ty khởi nghiệp khác là Primaa, một công ty công nghệ y khoa do hai chị em Marie, Fanny Sockeel và người anh họ Stéphane Sockeel thành lập năm 2018. Các sáng lập viên một người là bác sĩ, một người là nhà khoa học dữ liệu và một người là nhà kinh doanh.
Công ty này cung cấp các giải pháp chẩn đoán các bệnh ung thư để có thể đề ra phương pháp điều trị thích ứng hơn và tăng cơ hội phục hồi cho bệnh nhân. Chính xác hơn, Primaa chuyên về lĩnh vực gọi là giải phẫu bệnh học ( anapathologie ). Hiện nay, công ty này đang tiếp thị sản phẩm của họ cho các bệnh viện và phòng xét nghiệm ở Châu Âu và đang chuẩn bị mở rộng thị trường sang Mỹ.
Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm VivaTech, cô Fanny Sockeel, đồng sáng lập viên công ty Primaa, giải thích:
“Giải phẫu bệnh học là giai đoạn ngay sau khi chụp X quang, là lúc mà chúng ta có thể chẩn đoán các bệnh ung thư và các bệnh hiểm nghèo khác. Khi chụp X quang, chúng ta có thể nhận biết một khối u và có thể đánh giá sơ bộ đó là u lành tính hay u ác tính. Nhưng ở giai đoạn này chúng ta chưa biết chắc chắn đó có phải là ung thư hay không, và nếu đúng là ung thư, thì mức độ nguy hiểm thế nào và đã phát triển đến đâu, và nhất là không nắm được những dấu ấn sinh học ( biomarker ) của khối u để có thể vạch ra hướng điều trị thích ứng.
Cách duy nhất để biết được là làm sinh thiết ( biopsie ), tức là lấy một mẫu mô từ khối u để bác sĩ chuyên khoa bệnh lý học phân tích. Chính bác sĩ chuyên khoa này chẩn đoán bệnh và đề ra phương pháp điều trị.
Từ các hình ảnh y khoa mà chúng tôi gọi là những “dương bản được số hóa”, chúng tôi phát triển một phần mềm trí tuệ nhân tạo dựa trên các cơ sở dữ liệu của chúng tôi để hỗ trợ các bác sĩ chẩn đoán một cách toàn diện và nhanh chóng.”
Như cô Fanny Sockeel có nói ở trên, để có thể hỗ trợ chẩn đoán, phần mềm trí tuệ nhân tạo của Primaa phải dựa vào những cơ sở dữ liệu. Cụ thể đó là những cơ sở dữ liệu nào, đại diện công ty giải thích:
“ Chúng tôi làm việc với rất nhiều cơ sở dữ liệu của Pháp và của châu Âu, bằng cách mua hoặc thiết lập các đối tác. Mục tiêu của chúng tôi là có được một cơ sở dữ liệu càng rộng và càng đồng nhất càng tốt, để phần mềm của chúng tôi thật hiệu quả, có thể phân tích mọi loại dữ liệu, hình ảnh scanner. Hiện nay công ty chúng tôi có cơ sở dữ liệu lớn nhất châu Âu, nhờ vậy mà chúng tôi có thể thiết kế và “huấn luyện” một phần mềm có khả năng phát hiện rất cao, dù đó là dữ liệu đó đến từ đâu.”
Như vậy công ty Primaa hỗ trợ như thế trong tiến trình chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ung thư, bà Fanny Sockeel cho biết thêm:
“Chúng tôi hỗ trợ bác sĩ giải phẫu học trong việc chẩn đoán ung thư và một khi việc chẩn đoán được đầy đủ, tức là có đủ các dấu hiệu sinh học, bác sĩ này hội chẩn với các bác sĩ chuyên khoa khác, như khoa ung thư, khoa X quang, khoa di truyền học …, để cùng nhau đề ra phương pháp điều trị ung thư, chủ yếu dựa trên các dữ liệu của bác sĩ giải phẫu học.
Hiện nay chúng ta có rất nhiều phương pháp điều trị ung thư, không chỉ có giải phẫu, hóa trị, mà còn có điều trị bằng hormone ( hormonothérapie ), điều trị bằng kháng thể ( immunothérapie ), hay điều trị thích ứng với từng bệnh nhân, những phương pháp chỉ áp dụng cho một số loại bệnh nhân đặc biệt. Chính là với những loại bệnh nhân rất chuyên biệt này mà phần mềm trí tuệ nhân tạo tỏ ra rất hiệu quả, cụ thể là phát hiện rất chính xác những dấu hiệu sinh học, nhờ vậy mà chẩn đoán tốt hơn và từ đó đề ra phương pháp điều trị thật sự thích ứng với tình trạng của bệnh nhân.”
Có thể nói công nghệ trí tuệ nhân tạo đang mở ra rất nhiều triển vọng, hỗ trợ chẩn đoán ngày càng nhiều bệnh ung thư, theo lời cô Fanny Sockeel:
“Phạm vi nghiên cứu rất là lớn. Hiện giờ chúng tôi đã hoàn tất phần mềm trí tuệ nhân tạo hỗ trợ chẩn đoán ung thư vú và ung thư da và đang phát triển thêm công cụ để hỗ trợ chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt và ung thư cổ tử cung cho những năm tới. Đó là hướng đầu tiên.
Hướng thứ hai là nghiên cứu về dự báo, tức là không chỉ dựa trên cách chẩn đoán cổ điển, mà tìm ra những nhân tố mới có thể cho tới nay không được chú ý đến, vì bác sĩ chưa nhìn thấy mối liên hệ giữa những yếu tố đó. Lợi thế to lớn của công nghệ trí tuệ nhân tạo là có thể dựa trên những cơ sở dữ liệu rất dồi dào để tìm ra những phân khúc ung thư mà cho tới nay chưa được biết. Đó chính là tiềm năng của trí tuệ nhân tạo trong việc chẩn đoán ung thư.”
Tại Paris, Viện Curie đã đi đầu việc tạo ra công cụ dựa trên trí tuệ nhân tạo có khả năng xác định nguồn gốc của những căn bệnh ung thư đặc biệt nguy hiểm, với tỷ lệ thành công rất cao. Nói cách khác, trí tuệ nhân tạo có khả năng phát hiện nguồn gốc của một số bệnh ung thư với độ chính xác và tốc độ cao hơn nhiều so với các nhà chuyên môn, có thể giúp điều chỉnh các phương pháp điều trị tốt hơn và do đó tăng tỷ lệ sống sót của hàng ngàn người Pháp mỗi năm.
Công cụ AI đầy hứa hẹn này phần lớn chính là nhờ công lao của bà Sarah Watson, vừa là bác sĩ chuyên khoa ung thư, vừa là nhà nghiên cứu tại Viện Curie. Bà Watson chủ yếu nghiên cứu về các khối u hiếm gặp, trong đó có các khối u gọi là “ung thư chưa rõ nguyên phát” (cancers de primitifs inconnus - CPI).
Trên kênh truyền hình Pháp BFMTV ngày 13/11/2023, bác sĩ Sarah Watson giải thích: “CPI là bệnh ung thư xuất hiện ở giai đoạn di căn, tức là có những tổn thương ở những vị trí khác nhau trên cơ thể, nhưng chúng tôi không biết những di căn này đến từ đâu. Vấn đề là ngày nay trong ngành ung thư, chúng ta không điều trị ung thư ban đầu xuất phát từ vú, đại tràng, thận, v.v. với cùng một phương pháp.”
Vì vậy, nếu không biết nguồn gốc của bệnh ung thư thì không thể điều trị chính xác được và hiệu quả sẽ bị ảnh hưởng. Bác sĩ Sarah Watson nhấn mạnh: “Chúng tôi mất rất nhiều thời gian để cố gắng xác định khối u nguyên phát. Các bệnh nhân mắc loại ung thư này có thời gian sống chưa đầy một năm kể từ khi được chẩn đoán”.
Để cải thiện việc chăm sóc các ca ung thư CPI (khoảng từ 6.000 đến 7.000 bệnh nhân mỗi năm ở Pháp), bác sĩ Sarah Watson quyết định sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo. Nhà nghiên cứu của Viện Curie dựa trên giả thuyết: “Có lẽ các đặc điểm phân tử của những di căn này vẫn giữ lại những dấu hiệu đặc biệt về nguồn gốc mô của chúng”. Nói cách khác, các di căn phân bố khắp cơ thể có lưu giữ, trên “thẻ căn cước” di truyền của chúng, một dấu vết cụ thể về khu vực xuất phát của chúng.
Vậy điều này có thể giúp định vị nó và từ đó điều trị ung thư tận gốc không? Để nghiên cứu theo hướng này, Viện Curie, hợp tác với các chuyên gia từ một số trung tâm khác ở Pháp, đã “huấn luyện” một phần mềm chuyên trách nhiệm vụ duy nhất: nhận biết nguồn gốc của ung thư từ chuỗi RNA của các khối u được lấy sinh thiết ( biopsie ).
Công cụ AI này đã được thử nghiệm trên khoảng 50 khối u vốn không thể xác định được nguồn gốc bằng các công cụ thông thường. Bác sĩ Sarah Watson cho biết: “Trong hơn 80% trường hợp, AI có thể cho chúng tôi biết mô gốc với tỷ lệ chính xác rất cao. Những bệnh nhân mà chúng tôi có thể xác định được mô gốc có thời gian sống sót cao gấp ba lần so với những bệnh nhân trong trường hợp ngược lại”.
Nằm giữa hành trình vắt ngang hay bờ biển đầy những danh thắng miền nam nước Ý, Matera là một điểm dừng chân không thể bỏ lỡ của du khách. Cùng với Pompei bên bờ Tây vùng Campanie, nhà hát Hy lạp cổ đại Syracuse trên đảo Sicile, Matera góp mặt vào những địa danh cổ xưa nhất của lịch sử các nền văn minh cổ đại hàng ngàn năm trước trên vùng đất này.
Được mệnh danh là “cái nôi của nhân loại” bởi các di chỉ khảo cổ cho thấy dấu vết sinh sống liên tục của người tiền sử trải suốt từ cuối thời đồ đá cũ đến thời kỳ đồ đá mới, thành phố thuộc Basilicata này là 1 trong 3 thành phố cổ đại nhất trên trái đất, cùng với Alep của Syria và Jéricho ở Cisjordanie. Những dấu vết người tiền sử trong hang đá vẫn còn giữ được đến ngày nay trong các hang sâu dưới lòng thành phố.
Một trong 3 ngôi làng có niên đại cổ nhất thế giớiNếu mới liếc qua vài bức hình quảng bá du lịch, du khách không thể hình dung ra ngôi làng thực tế lại khác hoàn toàn với tưởng tượng khi xem ảnh! Trong hình, Matera hiện ra giống như nhiều ngôi làng dựng trên đỉnh một ngọn đồi cao, nhìn từ xa đã thấp thoáng chóp nhà thờ cao vút, các nếp nhà lô xô thoải dần xuống chân đồi. Nhưng thực tế lại khác xa, nên Matera còn hay được gọi là “điểm đến gây kinh ngạc”! Như trò đùa, khách thăm quan lần theo bản đồ, khu thành phố cổ dường như ngay bên cạnh họ, nhưng xung quanh bằng phẳng, chẳng nhìn thấy ngọn đồi hay đỉnh tháp nào cả! Bước thêm vài bước, qua những vòm cong khiêm tốn, đến bên một lan can nhỏ… ta mới hiểu vì sao Matera lại đáng kinh ngạc đến vậy. Trải ra trước mắt là cả một lòng chảo sâu hút, lớn gấp mấy lần đấu trường Colisée, và cả ngôi làng kỳ vĩ gọt đẽo trong vách đá vôi, sừng sững toạ lạc dưới chân du khách!
Những ngôi nhà chồng chất lên nhau, những cầu thang thoắt ẩn thoắt hiện, như một bức tranh đánh lừa thị giác. Thêm vào đó, sự khép kín trong lòng vách đá và sự điệp màu đá khối của Matera làm nó mang một sự đồng nhất đáng kinh ngạc và một nét bí ẩn, xưa cũ đặc biệt.
Khu thành cổ đồ sộ với kiểu nhà ở đào sâu vào trong hang đá này mang tên Sassi, khởi đầu là những hang khai thác đá vôi, sau chuyển thành nơi ở. Trong các ngôi nhà dạng mái vòm thấp này, ngay cả chỗ nằm nghỉ, vách ngăn, bàn ăn, bếp lò hay băng ghế ngồi, đều được đẽo gọt từ vách đá. Vì địa hình đá vôi không thể giữ thảm nước ngầm, người dân và các thầy tu từ xa xưa đã đào một khu hang động chứa nước mưa lớn, với sức chứa 5 triệu mét khối nước, mang tên Palombaro Lungo, và đưa nước về giữa khu dân cư thông qua hệ thống những đường kênh đào dẫn nước trong lòng núi đá. Quần thể đô thị này còn đặc biệt giá trị khi quy tụ hơn 150 nhà thờ, tu viện cổ đại xây tạc trong vách đá bởi các thầy tu Byzantin từ thế kỷ VIII. Khách tham quan có thể được chiêm ngưỡng những bức tranh tường lớn mang nội dung tôn giáo vẫn còn được lưu giữ trong những nhà thờ này.
Từ đô thị thịnh vượng thành khu ổ chuộtMảnh đất này chính thức được định danh Matheola, dưới thời cai trị của Đế chế La Mã vào năm 251 trước Công nguyên. Matera đặc biệt phát triển thịnh vượng trong khoảng thế kỷ thứ X do nằm trên trung điểm của các con đường giao thương nối hai bờ biển Adriantique và Tyrrhénienne. Ngôi thành này lần lượt nằm dưới sự cai trị của các nền văn minh từ Lombards, Byzantins, Normands, qua đến Ả Rập rồi sang đế chế Ottoman đến sự chiếm đóng của người Aragon (Tây Ban Nha) vào thế kỷ XV. Vì vậy, nơi đây chứng kiến nhiều văn hóa đến từ nhiều dân tộc đa dạng, cũng như biết bao đổi rời, từ hưng thịnh đến suy tàn.
Khôi phục lại vị thế, trở thành thủ phủ của vùng Basilicata vào thế kỷ XVI, Matera bắt đầu xây dựng rộng ra phần bờ vách phía trên, chia cắt dần dần thành hai khu vực : giới trung lưu tư sản ở khu Civita phía trên, nông dân, dân nghèo sống chật chội trong những khu nhà sassi cổ dưới vách núi. Khu vực này không được đầu tư chăm sóc, dần bị đẩy ra bên lề. Tình trạng quá tải dân cư làm điều kiện sống ở đây đã không được cải thiện, lại ngày càng xuống cấp tệ hại. Hậu quả của việc không có sự tác động lớn nào trong suốt nhiều thế kỷ, là khu vực này trở nên lạc hậu trong thời đại mới. Đến tận đầu những năm 50 của thể kỷ XX, những người dân cư ngụ tại đây vẫn phải sống trong điều kiện ở như thời Trung Cổ: không có đường điện, nước sinh hoạt, nước thải thoát thẳng ra cống lộ thiên. Với dân cư quá tải trầm trọng, kiến trúc nhà ở như những hang động đào sâu trong núi khiến thông thoáng kém, bệnh dịch tràn lan và vệ sinh không đảm bảo. Tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh vượt ngưỡng 40%, bệnh lao phổi, sốt rét phổ biến, thêm vào đó là nạn mù chữ tăng cao. Khu nhà ở này trở thành một khu ổ chuột khổng lồ bị bỏ lại bên rìa xã hội.
Một trong nhiều cây bút đã viết miêu tả về sự khốn cùng chứng kiến tại Matera, nhà văn, nhà báo Carlo Levi, và đồng thời là chính trị gia Ý, đã viết trong tiểu thuyết hồi ký nổi tiếng của mình, “Chúa Kito đã dừng lại ở Eboli”: “tôi liếc nhìn vào trong những ngôi nhà chỉ được chiếu sáng và lấy thoáng qua cửa vào. Một số thậm chí còn không có cả cửa vào, bạn vào nhà từ trên nóc, qua một nắp lật để xuống thang. (..) Mỗi gia đình có 1 cái hang duy nhất là nơi diễn ra mọi sinh hoạt, người lớn phụ nữ, trẻ con và động vật đều ngủ cùng nhau.(..) Hai mươi ngàn người sống như vậy. Những người phụ nữ với những đứa trẻ suy dinh dưỡng và bẩn thỉu bám trên bộ ngực khô héo, chào đón tôi bằng sự tử tế buồn bã và cam chịu : tôi tưởng như, dưới ánh mắt trời lóa mắt này, lạc vào giữa một thành phố đang bị dịch hạch hoành hành”. Cùng với sự thành công của cuốn sách, sự thật về Matera bị phơi bày, như tác giả so sánh “như Địa ngục của Danté”. Các nhà chức trách Ý thời bấy giờ coi Matera và khu nhà ở Sassi như “nỗi hổ thẹn của nước Ý”!
Từ nỗi xấu hổ thành niềm tự hào của nước Ý
Vào năm 1953, không thể làm ngơ, chính quyền buộc di rời toàn bộ dân cư ra những khu tái định cư mới bên ngoài. Lần đầu tiên, khu đô thị 8.000 năm tuổi không còn người sinh sống! Cùng với việc thảo đồ án quy hoạch vùng, các nhà chuyên môn và quản lý quyết định coi Matera như một phòng thí nghiệm cho chính sách tái định cư và cải tạo đô thị. Các lý thuyết đô thị theo chủ nghĩa duy lý, chức năng được nghiên cứu. Các đô thị mới được xây dựng để di dân, tái định cư. Suốt 1 thập kỷ sau đó, Sassi bị bỏ hoang. Quá xuống cấp và hoàn toàn không ở được, phương án phá dỡ để xây lại đô thị mới được tính đến - không khó hiểu trong bối cảnh tư duy kiến trúc hiện đại những năm 50. Sau gần chục ngàn năm trường tồn qua biến thiên lịch sử, mảnh đất ghi bao dấu ấn văn hóa nhân loại, với khối kiến trúc độc đáo Sassi xây “âm bản” đào sâu trong lòng vách núi đá vôi trắng, đứng trước bước ngoặt định mệnh, có nguy cơ hoàn toàn bị san phẳng!
Chỉ đến giữa những năm 60, cùng với những quan điểm khai mào về bảo tồn di sản được đánh dấu bằng Hiệp ước Venise - Charte Venise, câu hỏi ứng xử với khu vực bỏ hoang một thập kỷ qua lại trỗi dậy. May mắn thay, nước Ý đã đặt cược vào một kế hoạch trùng tu và hồi sinh quy mô tổng thể đô thị cổ này. Một cuộc thi quốc tế cải tạo đô thị được phát động, đặt khu Sassi vào vai trò trung tâm lịch sử đô thị và cảnh quan của thành phố Matera. Hàng loạt quảng trường mới được thiết kế, cùng với chỉnh trang, mở rộng những trục tiếp cận, để kết nối và đặt khu thành cổ vào một tổng thể lõi lịch sử. Những trục phố, lối cầu thang mới được xây dựng hài hòa trong tổng thể, đôi khi trên mái những căn nhà cổ. Matera có diện mạo như ngày nay, phải kể đến vai trò quyết định của chính quyền từ cấp quốc gia đến địa phương. Các nhà quản lý cùng phối hợp đưa ra những khung pháp lý, điều luật riêng về bảo tồn cảnh quan, chính sách hỗ trợ tài chính, quy định sở hữu, quản lý cải tạo khu vực này. Toàn bộ hạ tầng điện nước, chiếu sáng đô thị được lắp đặt, hệ thống thông gió được trang bị thêm.
Bên cạnh đó, phải kể đến những nỗ lực lớn của chính những thanh niên sinh ra trong khu ổ chuột, đã lập nên “Scaletta”- hiệp hội hành động để hồi sinh Sassi. Nhờ công sức của họ trong nhiều thập kỷ, đi khắp vùng để liệt kê 159 nhà thờ bằng đá có niên đại xây dựng từ thời những thầy tu Byzantin thế kỷ XIII. Họ tìm kiếm và thu gom lại những tác phẩm điêu khắc bị đánh cắp, thất lạc. Không dừng lại ở đó, họ tiếp nối những nghề truyền thống của vùng, đấu tranh để lịch sử và giá trị kiến trúc của Matera được biết đến rộng rãi hơn. Theo chân họ, những đoàn làm phim, nhà văn, nghệ sỹ, trí thức lũ lượt tìm đến thăm Matera. Một trong số đó là bộ phim điện ảnh gây tiếng vang lớn “La passion du Christ - Cuộc khổ nạn của Chúa Gesu” của Mel Gibson ra mắt năm 2004 hay những cảnh quay phim Điệp viên 007 tại đây. Tất cả cùng đầu tư, cải tạo, dọn dẹp lại Matera. Thành quả của công cuộc “trả lại ánh hào quang” này là sự công nhận của UNESCO, đưa Matera vào danh sách Di sản thế giới vào năm 1993, và được lựa chọn trở thành Thủ đô văn hóa Châu Âu vào năm 2019.
Kiến trúc độc đáo và điểm hẹn văn hoá trở thành dấu ấn chỉ có ở Matera“Ông của tôi là một nông dân đã 90 tuổi, ông từng sống ở trong một ngôi nhà Sassi này. Ông không thể hình dung nổi ngày nay ở đó lại có wifi và bể bơi Jacuzzi” - một thanh niên 27 tuổi nói vui khi trả lời AFP. “Quả thật, chúng tôi đã trải qua từ sự hổ thẹn biến thành niềm vinh quang”- thị trưởng Matera - Raffaello De Ruggieri tự hào thừa nhận. “Chúng tôi mong muốn phát triển hoạt động du lịch “chậm”(…) Chúng tôi muốn rằng mỗi người đến thăm Matera sẽ được sống trong một trải nghiệm riêng”, Paolo Verri, giám đốc Quỹ Matera 2019 giải thích chiến lược phát triển Thủ đô văn hóa châu Âu tại Matera theo hướng thu hút người đam mê nghệ thuật văn hóa, hơn là điểm du lịch đại trà với toàn những nhà hàng khách sạn và du khách ghé qua trong ngày. Vì thế, các căn nhà cổ chỉ có những hợp đồng thuê 30 năm, khuyến khích các hoạt động đa dạng cùng chung sống : nhà nghỉ cho thuê, galerie nghệ thuật, trung tâm văn hoá, xưởng thiết kế, xưởng nghề thủ công, nhà hàng ... Những hoạt động văn hoá thường niên được tổ chức tại đây. Những nghệ sỹ được mời đến Matera để giới thiệu các tác phẩm mới của họ.
Vậy là, sau hơn nửa thế kỷ, Matera lột xác từ khu ổ chuột trở thành điểm đến du lịch và văn hoá của nước Ý vốn đã giàu di sản. Được bầu chọn là Thủ đô Văn hoá châu Âu, Matera giờ đây là niềm tự hào cho nước Ý! Thế nên khi đặt chân đến đây, trước khi nhìn thấy khu thành cổ, ấn tượng mà du khách bắt gặp đầu tiên, là trên quảng trường Vittorio Veneto, ở góc này góc kia, bắt gặp một buổi giao lưu văn hoá với một nghệ sỹ, nhà văn, hay buổi gặp gỡ trao đổi bàn tròn của một hội nhóm. Những gian hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ địa phương rải rác trước mặt nhà hát thành phố. Bên những bức điêu khắc đồng điểm xuyết quảng trường, bên những bức họa hiện đại được trưng bày đây đó, tất cả đều diễn ra một cách ấm cúng, thân mật.
Nơi đây, kiến trúc hàng ngàn năm tuổi, quy hoạch hiện đại và những hoạt động văn hoá mang nhịp thở đương đại vẫn tìm được chỗ đứng bên nhau. Ghi nhận và tôn trọng những nỗ lực đó của người Ý, những đoàn khách du lịch dường như cũng ít xô bồ ào ạt hơn khi đến đây. Bên nhau, cùng thả bước nhẹ nhàng, khoan thai hơn, để hòa mình trong không khí đời sống văn hóa bao trùm không gian, để cùng hy vọng sự cân bằng này sẽ giữ cho đô thị cổ trường tồn thêm hàng ngàn năm nữa cùng hậu thế.
Một mùa hè « có một không hai », vừa sôi động, bùng nổ không khí thể thao, vừa đong đầy cảm xúc và những giá trị nhân văn đã khép lại tại Paris cùng với lễ bế mạc Para Thế Vận tối 08/09/20240. Tiếp nối bầu không khí lễ hội của Olympic, phong cách tổ chức cởi mở, táo bạo của Pháp và việc đưa thêm các môn thi mới lạ đã góp phần không nhỏ giúp cho Thế Vận Para có sức lan tỏa hơn và lắng đọng hơn trong tâm trí mọi người.
Biện pháp bảo vệ an toàn như đối với sự kiện thể thao lớn nhất hành tinhThành công của kỳ Para Thế Vận « đẹp nhất lịch sử » có được dĩ nhiên phải kể đến sự đóng góp hết mình của hàng chục ngàn tình nguyện viênParalympic, hàng chục ngàn nhân viên bảo vệ trật tự, an toàn thuộc giới tư nhân mỗi ngày đồng hành cùng lực lượng an ninh Nhà nước tại các địa điểm thi đấu.
Về an ninh, cho dù quy mô của Paralympic nhỏ hơn Olympic, nhưng nước chủ nhà Pháp đã giành cho Para Thế Vận sự đối xử công bằng, trân trọng không khác gì Olympic, sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh. Sau hôm bế mạc Para Thế Vận, chị Phạm Thùy Dương, thuộc một công ty an ninh tư nhân, tham gia bảo vệ trật tự, an toànở các địa điểm thi đấu tại cả Thế Vận Hội và Para Thế Vận chia sẻ với RFI Tiếng Việt :
Sự cổ vũ đông đảo bất ngờ
Về trình độ thể thao của các vận động viên Para, cũng giống như chị Thùy Dương, ông Antonio, một khán giả đã đi xem thi đấu trực tiếp, bày tỏ lòng thán phục :
« Khi xem các vận động viên tranh tài Paralympic, chúng tôi rất ấn tượng về trình độ, kết quả thi đấu của họ, so với tình trạng khuyết tật của họ. Chúng tôi rất ấn tượng bởi khả năng hòa nhập, khả năng tham gia hết mình vào môn thi, khán giả cũng vậy. Chúng ta biết là các vận động viên para có trình độ khá cao, dĩ nhiên ở mức độ của người khuyết tật. Khả năng tập trung của họ cũng rất tốt. Tôi đã xem một trận đấu goal ball. Tương tự như môn bóng đá cho người khiếm thị, các đội thi đấu với nhau, thay vì dùng chân chơi bóng thì họ dùng tay.
Họ phải cực kỳ tập trung, khán giả cũng được yêu cầu giữ yên lặng trong suốt trận đấu. Khả năng tập trung của họ thực sự gây ấn tượng, khả năng tập trung của khán giả cũng vậy. Điều này không đơn giản chút nào. Chơi thể thao khi bị khiếm thị là rất phức tạp, thể hiện bản thân mình như vậy trước công chúng cũng không dễ. Thế nên, đi xem họ thi đấu khá là ấn tượng. Tôi nghĩ đó thực sự là sự nỗ lực vượt lên chính mình, để có thể đạt đến đích như một người bình thường.
Chúng tôi đã ngạc nhiên và vui khi thấy các sân vận động đầy ắp khán giả và lễ khai mạc cũng đông chật kín người. Thực sự là Paralympic mang lại nhiều ngạc nhiên, bất ngờ. Và thực sự, các thử thách, khó khăn đã dễ dàng được vượt qua. Không khí thì rất nồng nhiệt, quả thực là tôi thấy thậm chí còn hơn cả ở những trận đá bóng hay các trận thi đấu của các vận động viên bình thường khác mà chúng tôi đến sân vận động xem. Tôi thực sự thấy sự phấn khích từ công chúng. Khán giả vỗ tay hoan hô, động viên khích lệ các vận động viên Para. Chúng tôi thực sự đã thấy một bầu không khí rất nồng nhiệt.
Thực ra là trước đó tôi cũng không hình dung ra đâu, tôi không biết mọi việc sẽ diễn ra thế nào, liệu mọi người có nhiệt tình xem các vận động viên là người khuyết tật hay không … Nhưng rồi trái lại, tôi đã rất ngạc nhiên và thấy thật tuyệt. Tôi cũng có hy vọng thấy được bầu không khí nồng nhiệt, nhưng đúng là trên cả sự trông đợi của tôi, tôi không nghĩ mọi người lại nhiệt tình đến mức đó. Quả thực là bất ngờ một cách tuyệt vời ! »
Khán giả và tình nguyện viên đồng hànhSự cổ vũ hào hứng của đông đảo khán giả cũng là điều gây ấn tượng mạnh cho một khán giả khác là bà Malika. Khán giả và các tình nguyện viên chính là những người đồng hành của các vận động viên Para :
« Quả thực, đó là lòng nhiệt thành, sôi nổi và sự ủng hộ. Tôi không nghĩ là (Thế Vận Para) lại được theo dõi rộng rãi đến vậy, được nhiều người thuộc mọi lứa tuổi xem đến vậy. Tôi đã may mắn được xem trận chung kết của vận động viên Para cử tạ Rafiq Arabat. Anh ấy đến từ thành phố Courneuve. Thế nên, chúng tôi đã đi xem. Thật là tuyệt diệu ! Tuyệt diệu đối với tôi, tuyệt diệu đối với tất cả mọi người, nhờ có sự ủng hộ, lòng nhiệt thành, niềm hứng khởi, không khí vui vẻ.
Tôi nghĩ rằng (Thế Vận Para) đã soi sáng, làm mọi người hiểu về các môn thể thao dành cho người khuyết tật. Mọi người đã có thể xem, và như như tôi đã nói, tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi, đều có thể khám phá ra rằng mình có thể thành công, hoàn toàn có khả năng làm được. Và không chỉ những người ở Paris mà tất cả mọi người trên thế giới đều có thấy được điều đó.
Về mặt tổ chức, đối với tôi, mọi chuyện đều rất tốt đẹp. Tôi đã thấy khá bất ngờ, mọi thứ đều diễn ra suôn sẻ, trôi chảy. Có rất nhiều tình nguyện viên. Chúng tôi đã nói chuyện với các tình nguyện viên. Họ rất vui mừng. Có những người thậm chí còn không đi nghỉ hè, chỉ vì họ muốn giúp đỡ trong việc tổ chức Thế Vận Hội và Thế Vận Hội Cho Người Khuyết Tật.
Và đối với tôi, thực sự mà nói thì còn đọng lại cho đến tận bây giờ vẫn là ấn tượng về sự sôi nổi, lòng nhiệt thành, tình đoàn kết tương thân tương ái. Tất cả mọi người đều đứng sau hỗ trợ các vận động viên.
Tôi đã từng nghĩ rằng Paralympic sẽ không tạo ra nhiều ảnh hưởng, nhưng thực tế cho thấy là Thế Vận Hội Cho Người Khuyết Tật đã tạo ra những ảnh hưởng vô cùng quan trọng. Mọi người đã nghĩ Paralympic ít được theo dõi hơn nhiều so với Olympic, nhưng thực ra thì không phải như vậy đâu. Quả thực, chúng tôi đã cảm nhận được lòng nhiệt thành, niềm vui, lòng phấn khởi hân hoan, một sức mạnh, lòng can đảm và tình đoàn kết ở Thế Vận Para ».
Đà thay đổi cho tương laiĐể tạo đà thay đổi nhận thức trong xã hội về người khuyết tật, một cách có hệ thống, bền lâu, nước chủ nhà Pháp lần này đặc biệt hướng tới học sinh các cấp, bắt đầu từ tiểu học : khoảng 200.000 vé đã được phát cho các em, so với khoảng 2,5 triệu vé đã bán được. Sự hiện diện đông đảo của giới học sinh cũng đã được chị Thùy Dương ghi nhận khi thực hiện công tác bảo đảm an toàn, trật tự tại các điểm tranh tài Paralympic :
« Có những cuộc gặp gỡ chạm vào trái tim mọi người. Có những cuộc gặp gỡ làm chúng ta thay đổi. Có những cuộc gặp gỡ giúp cho chúng ta trở nên tốt đẹp hơn » và những cuộc gặp ở Thế Vận Hội Cho Người Khuyết Tật sẽ « ghi dấu ấn suốt cuộc đời ». Đó là phát biểu của Tony Estanguet, chủ tịch Ủy ban tổ chức Thế Hội Vận Paris 2024 tại lễ bế mạc Paralympic.
Từ góc nhìn của các khán giả, thông điệp đặc biệt lần này của ban tổ chức Thế Vận Hội Cho Người Khuyết Tật là gì ? Ông Antonio chia sẻ cảm nhận :
« Tôi nghĩ Thế Vận Para được tổ chức rất tốt. Tôi nghĩ rằng thông điệp mà Paris muốn truyền tải là Paralympic đã bị bỏ lại phía sau trong suốt nhiều năm, thông điệp được truyền đi là họ cũng bị những hạn chế, nhưng vận động viên Paralympic có trình độ, phù hợp với khả năng của họ, cũng như các vận động viên bình thường có trình độ thi đấu ở Thế Vận Hội Olympic.
Tôi nghĩ rằng và tôi hy vọng rằng dẫu có thế nào thì Paralympic Paris cũng sẽ là một cánh cửa rộng mở, mang lại cơ hội cho các câu lạc bộ, dù là nghiệp dư hay chuyên nghiệp, ngày càng phát triển các môn thể thao cho người khuyết tật, rằng các Paralympic tới đây sẽ ngày càng có thêm nhiều những môn thể thao Para đầy tính sáng tạo. Và nước Pháp sẽ khuyến khích và phát triển các câu lạc bộ vận động viên khuyết tật, nhiều câu lạc bộ mới sẽ thành hình. Đó chính là những điều tôi mong muốn ».
Trong bối cảnh thế giới ngày càng bị tác động của biến đổi khí hậu kèm theo nguy cơ khủng hoảng lương thực, phải chăng đã đến lúc con người nên tìm một nguồn protein khác thay thế cho thịt cá? Trước mắt, tại những nước như Pháp, côn trùng đang được sử dụng ngày càng nhiều để chế biến thực phẩm cho súc vật.
Tại Triển lãm Nông nghiệp quốc tế Paris tháng 3/2024, một số công ty Pháp đã giới thiệu với giới nông gia những loại thực phẩm cho gia súc được chế biến từ côn trùng, trong đó có công ty Invers, chuyên sản xuất thức ăn cho chó, mèo, chim, gà làm từ sâu bột.
Trả lời RFI Việt ngữ tại Triển lãm Nông nghiệp Paris, ông Sébastien Crépieux, chủ tịch công ty Invers, cho biết:
“Hiện nay chúng ta phải nhập vào châu Âu rất nhiều protein, nhất là bột cá, từ các đại dương, hay đậu nành, đến từ những vùng bị phá rừng, tức là những nguồn protein mà đa số là không bền vững. Cụ thể, bột cá được sản xuất từ cá được đánh bắt từ những vùng không có quy định chặt chẽ, ảnh hưởng đến nguồn cá. Đậu nành thì thường được trồng ở những vùng đã bị phá rừng hay đang bị phá rừng.
Ở châu Âu, chúng ta có rất nhiều phụ phẩm nông nghiệp hoặc chất thải nông nghiệp có thể được dùng để nuôi một súc vật khác đó là côn trùng và những côn trùng này đến lượt mình cũng sẽ trở thành thức ăn cho gia súc.
Công ty chúng tôi nuôi một loại sâu bột gọi là tenebrio molitor sống trong môi trường tự nhiên ở châu Âu và trước đây là sống gần con người, trong các cối xay bột.
Chúng tôi tổ chức giống như là một ngành nông nghiệp riêng biệt. Công ty chúng tôi lo về khâu sinh nở, tức làm cho ấu trùng sinh ra từ loài bọ cánh cứng. Ấu trùng này sẽ được giao cho các nông gia để họ “vỗ béo” trong bốn tuần. Họ có đủ các công cụ để thu hoạch các sâu bột đó và chúng tôi đến lấy đem về các nhà máy chế biến thành một thành phần trong thực phẩm cho chó, mèo, cá hay gà.
Đối với nông gia thì đây một nguồn thu nhập bổ sung rất ổn định, kéo dài suốt năm và không lệ thuộc vào biến đổi khí hậu, vì sâu bọ được nuôi trong những tòa nhà được điều hòa nhiệt độ, bất kể thời tiết bên ngoài thế nào, bên trong nhiệt độ vẫn được giữ nguyên. Cho nên nông gia ai cũng sẵn sàng nhận công việc này.”
Ông Sébastien Crépieux cho biết hiện nay sản phẩm của công ty Invers chiếm đa số ở Pháp, được bán tại 1.000 cửa hàng trên toàn quốc, hoặc được bán trên Internet. Công ty cũng nhắm tới thị trường ở những nước láng giềng, hiện cũng đang tìm kiếm những thực phẩm bền vững cho gia súc.
Agronutris, cũng là một công ty chuyên về protein côn trùng, nuôi ruồi để làm bột, dầu chế biến thành thức ăn cho súc vật, mới khánh thành một nhà máy tại Rethel, thuộc vùng Ardennes, vào tháng 10/2023.
Trong nhà máy, có khu vực sinh sản ấu trùng của loài ruồi lính đen, có khả năng đẻ từ 800 đến 1000 ấu trùng mỗi tuần. Những con ruồi này chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Mỹ, có đặc điểm là phát triển rất nhanh và rất giàu protein và chất béo. Sau khi đẻ, ấu trùng ruồi sống trong hai tuần, trong thời gian đó trọng lượng của chúng tăng lên 10.000. Chúng được cho ăn bằng thức ăn thừa, chẳng hạn như vỏ khoai tây thu được từ ngành công nghiệp thực phẩm. Sau khi được nghiền nát, chúng sẽ được chuyển thành bột và dầu. Mục tiêu của nhà máy Rethel là sản xuất 5.000 tấn protein ruồi mỗi năm. Công ty Agronutris cũng đã lên kế hoạch xây dựng nhà máy thứ hai ở Rethel.
Một công ty khác của Pháp là Ynsect thì chế biến thực phẩm gia súc từ bọ hung. Trả lời RFI Việt ngữ tại Triển lãm Nông nghiệp Paris, cô Emma Besnardeau, đại diện công ty Ynsect, cho biết:
“ Từ 2011, chúng tôi nuôi bọ hung trong các nông trại có cấu trúc “theo chiều đứng” và từ các ấu trùng của chúng, chúng tôi sản xuất dầu ăn và protein để bán cho các doanh nghiệp chế biến thực phẩm cho gia súc heo, gà, cá hoặc cho chó, mèo và các thú cưng khác. Chúng tôi cũng lấy phân của côn trùng để chế biến thành phân bón bán cho các nông gia, hoặc bán cho các gia đình để bón cho cây trồng trong vườn.
Không thay thế các nguồn thực phẩm kia, nhưng chúng tôi đề xuất một con đường khác trước nguy cơ một cuộc khủng hoảng lương thực và trong bối cảnh chúng ta đang trải qua khủng hoảng về khí hậu. Protein từ côn trùng có thể thay thế thực phẩm hiện nay cho súc vật, thậm chí có thể được dùng trong thực phẩm cho người. Ấu trùng từ loại bọ hung có đến 60% protein, rất tốt cho sức khỏe.
Đó là những giải pháp để nuôi sống hành tinh của chúng ta, nhưng không phá hủy nó, vì nuôi côn trùng là một ngành rất thân thiện môi trường, chẳng hạn như các nông trại nuôi bọ hung phát ra lượng khí thải ít hơn 40% so với các trại nuôi bò, tiêu thụ nước ít hơn 30% so với các trại nuôi heo. Như vậy, nguồn protein từ côn trùng có chất lượng cao về dinh dưỡng, vừa có chất lượng về môi trường.”
Cô Emma Besnardeau giải thích vì sao công ty Ynsect chọn nuôi bọ hung thay vì chọn các loài côn trùng khác:
“Những người sáng lập công ty vào năm 2011 đã chọn loài bọ hung sau khi nghiên cứu khoảng 1.000 loại côn trùng. Có rất nhiều lý do khiến họ chọn loài côn trùng này. Thứ nhất, loài bọ hung không có cánh, không bay được, cho nên dễ nuôi. Thứ hai, chúng sống trong bóng tối. Tiếp đến, bọ hung có giá trị dinh dưỡng rất cao về protein và có lợi cho sức khỏe của các thú cưng, giúp chúng bớt bị các bệnh ngoài da. Loài côn trùng này lại dễ tiêu, nên tránh cho súc vật bị các bệnh đường ruột.
Vào năm 2022, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu và nhận thấy là khi giải thích rõ về chất lượng protein của bọ hung, người tiêu dùng dễ chấp nhận cho thú cưng của họ ăn thực phẩm từ protein côn trùng.”
Ynsect hiện có hai nông trại, một ở Dole, vùng Jura, nông trại thí điểm từ 2015 và một nông trại mới hơn ở Amiens, vùng Haut de France, nông trại chuyên hoàn toàn về thực phẩm gia súc và phân bón. Theo cô Emma Besnardeau, Pháp hiện đứng đầu thế giới về nuôi côn trùng quy mô công nghiệp.
Nhưng không chỉ dành cho gia súc, côn trùng cũng đang dần trở thành một thức ăn cho con người, một nguồn protein bền vững, thay thế cho thịt cá, theo lời chủ tịch công ty Invers:
“Protein từ côn trùng có chất lượng rất cao, có thể thay thế cho những nguồn protein không bền vững bằng. Người ta vẫn nêu lên việc nuôi gà thịt trong những điều kiện không thể chấp nhận được đối với châu Âu, trong khi ở đây chúng ta có một nguồn protein vừa có chất lượng, vừa bền vững, có thể thay thế các loại thịt khác. Nếu chúng ta biết cách chế biến, nêm nếp, khó mà phân biệt được với thịt heo hay thịt gà.”
Cô Emma Besnardeau, đại diện công ty Ynsect, thì nhìn vấn đề xa hơn:
“Hiện nay, một phần tư nhân loại ăn côn trùng. Tại châu Âu, người dân ăn côn trùng cho đến tận cuối thời Trung Cổ. Nay côn trùng đã biết mất khỏi các bữa ăn, nhưng có thể sẽ trở lại nhưng là dưới dạng bột hoặc dầu trong các thức ăn như thỏi bánh ngũ cốc hơn là dưới dạng nguyên con. Hiện giờ chưa thể tìm thấy côn trùng nguyên con trong các siêu thị, cửa hàng.
Nhưng phải nhìn vấn đề rộng hơn: chúng ta đang trải qua khủng hoảng khí hậu, phải tìm ra các giải pháp. Toàn bộ các tác nhân trong chuỗi cung ứng, các công ty như chúng tôi, các nông gia, các nhà chăn nuôi phải làm việc với nhau để có thể cùng tồn tại trong thế giới mới này mà không làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên của hành tinh chúng ta.”
Theo dự báo của Tổ chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc, ngay từ bây giờ, nhân loại phải tìm ra các giải pháp bền vững để sản xuất ra nhiều lương thực hơn với ít diện tích đất canh tác hơn, ít nguyên liệu hơn, ít nguồn nước hơn và nhất là phải ít gây ô nhiễm hơn.
Cụ thể, đến năm 2050, thế giới phải tăng sản lượng lương thực lên hơn 70% để đáp ứng nhu cầu của nhân loại, trong khi diện tích đất canh tác chỉ tăng thêm 5%. Nhu cầu tiêu thụ protein trên thế giới dự báo sẽ tăng đến 52% trong thời gian từ 2007 đến 2050. Thế mà hiện giờ, 20% lượng cá trên thế giới được dùng làm thực phẩm nuôi cá và các trại chăn nuôi sử dụng đến 70% diện tích đất nông nghiệp của toàn cầu. Rõ ràng là nhân loại không thể tiếp tục làm như hiện nay, mà phải dần dần tìm ra các nguồn thay thế và côn trùng là một con đường thật sự bền vững để sản xuất thực phẩm cho súc vật và cho con người.
Ra đời tại Thế Vận Hội Rio 2016, trong bối cảnh khủng hoảng tị nạn ở châu Âu, đội tuyển người tị nạn Olympic và Paralympic tham dự sự kiện Paris 2024 với một gánh nặng trên vai. Họ đại diện cho hơn 100 triệu người tị nạn, phải rời bỏ quê hương trên toàn cầu do xung đột, hay chiến tranh..., đồng thời truyền tải đi thông điệp về hy vọng, về tình đoàn kết và hội nhập.
Những ngày vừa qua, báo chí Pháp không ngừng ca ngợi vận động viên khuyết tật người Afghanistan Zakia Khudadadi, được Paris cấp quy chế tị nạn từ năm 2021. Với thành tích của mình sau quá trình tập luyện tại Trung tâm huấn luyện thể thao quốc gia (INSEP), ở Vincennes, ngoại ô Paris, Zakia Khudadadi là một trong 8 thành viên của Đội tuyển người tị nạn dự Paralympic Paris 2024, thi đấu môn Para Taekwondo, hạng 47 kg. Cô cũng là vận động viên tị nạn giành được chiếc huy chương đầu tiên, mang tính lịch sử cho đội tuyển đại diện cho hơn trăm triệu người trên thế giới, phải rời bỏ quên hương đi tị nạn xa xứ.
Zakia đến Pháp trong hoàn cảnh đặc biệt, vào tháng 08/2021. Trước những đe dọa bị bắt giữ bởi chế độ Taliban, vốn rất hà khắc với phụ nữ, đặc biệt là các nữ vận động viên, cô đã đăng tải một video lên mạng xã hội, xin trợ giúp từ quốc tế, giúp cô rời khỏi Kabul để thực hiện ước mơ tham dự Thế Vận Hội Paralympic Tokyo. Video đó đã loan tải tới Pháp và giúp cô lên được chuyến bay rời Afghanistan, trong bầu không khí hỗn loạn tại phi trường ở Kabul, khi Taliban lên nắm quyền.
Sau thành tích huy chương đồng hôm 29/08 vừa qua, cô chia sẻ với France 24 : “Chiếc huy chương này thể hiện cam kết của tôi đối với những người phụ nữ khác tại Afghanistan. Tôi đã cố gắng thể hiện tốt nhất, chiến thắng của tôi là để bày tỏ sự ủng hộ của mình đối với tất cả những phụ nữ, những cô gái hiện đang ở trong ngục tù của Taliban, đối với tất cả những người tị nạn ở Pháp và trên thế giới”.
Tại buổi lễ khai mạc Paralympic, diễn ra tại đại lộ Champs-Élysées và quảng trường Concorde ở thủ đô Pháp hôm 28/08, trái ngược với truyền thống để đoàn Hy Lạp tiến vào trước, đoàn vận động viên tị nạn Paralympic đã đi đầu, mở ra buổi diễu hành của 184 phái đoàn khác nhau trên thế giới, gồm hơn 4.400 vận động viên khuyết tật. Cao ủy người tị nạn Liên Hiệp Quốc, Filippo Grandi, cho rằng “sự hiện diện của phái đoàn người tị nạn Paralympic trên trường quốc tế, gửi đi một thông điệp về "hy vọng" cho hàng triệu người tị nạn trên thế giới, và cho tất cả chúng ta. Đội tuyển gồm các vận động viên đầy tài năng này nhắc nhở chúng ta về tầm quan trọng của việc cho phép những người khuyết tật có cơ hội tham gia vào xã hội một cách bình đẳng.”
Đội tuyển người tị nạn được ra đời như thế nào ?Đội tuyển người tị nạn Olympic và Paralympic được ra đời trong bối cảnh cuộc khủng hoảng người tị nạn ở châu Âu vào năm 2015. Vào tháng 10 năm đó, nhân cuộc họp của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc về cuộc khủng hoảng tị nạn liên quan đến hàng triệu người trên thế giới, chủ tịch Ủy ban Olympic quốc tế Thomas Bach, đã đưa ra thông báo thành lập một đội tuyển dành riêng cho những người tị nạn. Ông Thomas Bach khẳng định rằng “được nhìn thấy họ tham gia thi đấu là một khoảng khắc tuyệt vời và chúng tôi hy vọng có thể chia sẻ với tất cả mọi người. Chúng tôi muốn dang rộng cánh tay tiếp đón các vận động viên trong cộng đồng Olympic, bên cạnh các vận động viện khác, không chỉ tranh tài thể thao cùng nhau, và có thể cùng sống tại làng Olympic”.
Ủy ban quốc tế Olympic muốn nhấn mạnh đến sự hiện diện của một phái đoàn đa văn hóa, đại diện cho hàng triệu người phải đi tị nạn, tha hương, do xung đột địa chính trị, chiến tranh,…
Gần một năm sau đó, 10 vận động viên, có nguồn gốc từ Syria, Nam Sudan, Ethiopia, hay Cộng Hòa Congo đã có mặt tại Thế Vận Hội Rio ở Brazil vào năm 2016, tranh tài cùng 11.000 vận động viên đến từ hơn 200 phái đoàn trên thế giới. Quyết định này được coi là một thông điệp “hòa bình, hòa nhập và về hy vọng” cho hàng triệu người buộc phải tha hương trên khắp thế giới, truyền cảm hứng bằng tinh thần thể thao, bằng sự kiên cường và lòng dũng cảm.
Sự xuất hiện của các vận động viên tị nạn tại Thế Vận Hội Rio 2016 cũng đã truyền cảm hứng cho nhiều bộ phim, chẳng hạn như phim Les nageuses của đạo diễn Sally El Hosaini, kể về một câu chuyện có thực về hai chị em vận động viên bơi, người Syria, Yusra và Sarah Mardini. Cuộc nội chiến ở Syria đã thôi thúc hai chị em rời khỏi đất nước, vượt biển trên chiếc thuyền thô sơ, nguy hiểm, vượt rừng để đến Đức. Với giấc mơ được tham dự Olympic Tokyo, Yusra không ngừng nghỉ luyện tập tại một câu lạc bộ bơi ở Đức. Tuy nhiên, tình hình địa chính trị bất ổn khiến cô không thể tham dự dưới màu cờ Syria. Thông báo thành lập Đội tuyển Olympic cho người tị nạn đã thắp lại hy vọng tham gia Olympic cho Yusra, dù cô muốn được công nhận là vận động viên có thực lực để tranh tài chứ không phải được tuyển đi thi vì “lòng thương hại đối với người tị nạn”.
Tài năng thể thao bỏ xa chặng đường tị nạn gian nanĐể được lựa chọn vào đội tuyển này, các vận động viên tị nạn phải tuân thủ một số tiêu chí, phải đạt được thành tích cao trong môn thể thao của mình, và được cơ quan tị nạn của Liên Hiệp Quốc công nhận quy chế tị nạn. Ủy ban Olympic Quốc tế cho biết cũng xét đến “sự đại diện mang tính cân bằng trong các môn thể thao, về giới tính và cả về khu vực”.
Bà Anne-Sophie Thilo, phụ trách về truyền thông của Đội tuyển người tị nạn Olympic, trả lời RFI Pháp ngữ, đưa ra nhận định : “Mọi người thường nhìn họ dưới ống kính "người tị nạn", nhưng trên hết, đó là những vận động viên, là những con người. Điều kết nối các vận động viên này với nhau trong một đội tuyển, là hành trình tị nạn của cá nhân của mỗi người. Dĩ nhiên, đó là các vận động viên trẻ, muốn có trải nghiệm và họ thường trò chuyện, trao đổi về thể thao nhiều hơn là các chủ đề khác.”
Tại Thế Vận Hội ở Brazil 2016, 10 vận động viên thi đấu dưới màu cờ của Olympic. Năm năm sau đó, tại Tokyo, đội tuyển người tị nạn Olympic chính thức được thành lập, với gần 30 vận động viên. Paris 2024 là lần thứ ba các vận động viên Olympic và Paralympic của đội tuyển người tị nạn tham gia thi đấu. Tại Thế Vận Hội năm nay, nếu đội tuyển Paralympic gồm 8 vận động viên, thì đội tuyển người tị nạn Olympic hồi tháng Bảy vừa qua gồm 36 vận động viên, hầu hết là người Iran, Afghanistan, Syria và một số nước châu Phi, được cấp quy chế tị nạn ở các nước châu Âu.
Tại sự kiện do Paris tổ chức, lần đầu tiên, cả đội tuyển người tị nạn Olympic và Paralympic được thi đấu dưới lá cờ trắng, in hình trái tim đỏ, bao quanh bởi các mũi tên đen, cùng các vòng tròn Olympic, tạo nên biểu tượng riêng của đội tuyển người tị nạn. Nếu vận động viên tị nạn nào giành được huy chương vàng, là cờ này sẽ được kéo lên trên nền bài hát của Thế Vận Hội, thay cho quốc ca.
Bà Masomah Ali Zada, người Afghanistan, cựu vận động viên đua xe đạp, hiện là lãnh đạo của đội tuyển người tị nạn Olympic, trả lời RFI Pháp Ngữ, cho biết : “Đội đã lớn mạnh. Lần cuối cùng tôi tham gia, đội chỉ có 29 người, thì nay lên đến 36 người. Có thể nói là gia đình Olympic đã lớn mạnh. Điểm chung của tất cả các vận động viên, đó là tinh thần kiên cường và đều có giấc mơ được tham gia vào Thế Vận Hội. Họ đã gặp nhiều khó khăn trên chặng đường của mình, nhưng không ai bỏ cuộc.”
Về phần mình, cô Nyasha Mharakurwa, cựu vận động viên quần vợt, người đứng đầu đội tuyển tị nạn Paralympic muốn nhấn mạnh đến tài năng của các vận động viên khi vượt qua nhiều đối thủ, được công nhận, như tất cả những người khác, đạt điều kiện để tham gia Thế Vận Hội. Cô Nyash giải thích : “Tại các phái đoàn khác, lớn mạnh hơn, cạnh tranh cao hơn nhưng không phải ai cũng giành được huy chương, ngay cả các nước phát triển. Đó là bằng chứng cho thấy sự hiện diện của các vận động viên tị nạn tại sự kiện này là hoàn toàn xứng đáng. Điều quan trọng nhất theo tôi là việc tuyển chọn các vận động viên vào đội tuyển tị nạn. Bởi vì, trái với phái đoàn từ các quốc gia mà họ đã biết đi tìm vận động viên ở đâu, thì đối với những vận động viên tị nạn, họ phải di chuyển. Ngoài việc thay đổi quốc tịch theo nơi mà họ sinh sống, trong vài tháng, họ có thể trở thành vận động viên trong một tình huống khác.”
Chính vì vậy theo cô Nyasha, từ nay cho đến Thế Vận Hội Los Angeles 2028, cần phải liên lạc với tất cả các hiệp hội thể thao, thành viên của Ủy ban Paralympic quốc tế, để có thể mở rộng đội tuyển tị nạn, kết nạp thêm thành viên mới. Sự ra đời của đội tuyển tị nạn Olympic và Paralympic, không chỉ để giúp các vận động viên có cơ hội tham gia vào sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh 4 năm một lần, mà còn hỗ trợ họ trong quá trình luyện tập, để đi tranh tài, bởi đa phần, họ không nhận được trợ giúp như các vận động viên đến từ các nước khác.
Tại Hàn Quốc hiện nay không thiếu những người lao động làm việc từ 9h sáng tới 9h tối. Có thể nói những người này sống tại công ty và chỉ về "thăm" nhà vào mỗi tối. Theo báo cáo của Tổ chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (OECD) năm 2022-2023, Hàn Quốc là một trong những nước có số giờ lao động hàng năm cao nhất, vào khoảng hơn 1900 giờ/năm, cao hơn 200 giờ so với mức trung bình của các nước OECD.
Với đa số người dân xứ sở Kim Chi, làm việc tới đêm khuya, vắt kiệt sức mình để thể hiện sự tận tuỵ trong công việc, từ lâu đã trở thành một đặc trưng văn hoá. Vậy do đâu mà người dân Hàn Quốc lại làm việc nhiều đến vậy? Họ làm đơn thuần vì say mê công việc hay vì có lý do nào khác? Đâu là những hệ luỵ tiềm ẩn đằng sau văn hoá làm quá giờ này?
Khi công ty biến thành ngôi nhà thứ haiTheo quy định hiện hành của luật pháp Hàn Quốc, người lao động làm việc trung bình 8 giờ mỗi ngày và tối đa là 52 giờ mỗi tuần. Tuy nhiên đây chỉ là những con số trên giấy tờ, còn thực tế thì một ngày làm việc của họ kéo dài hơn rất nhiều. Theo chân thông tín viên RFI tại Seoul Nicolas Rocca, chúng ta sẽ cùng lắng nghe câu chuyện của những người lao động tại đây.
“Tôi không thể làm thêm giờ được nữa. Cơ thể tôi không chịu nổi nữa rồi. Đúng là trên lý thuyết tôi có thể xin nghỉ phép nhưng công ty đã cấm tôi nộp đơn xin nghỉ. Tôi thậm chí còn không thể xin nghỉ phép năm. Thời gian làm việc hàng tuần của tôi cao hơn 52 tiếng nhiều. Theo luật thì thời gian làm mỗi tuần không được quá 52 giờ nhưng thực tế lại rất khác vì hiện nay vẫn có quy định về những cơ chế hợp pháp cho phép giới chủ lao động kéo dài thời gian làm việc lên tới 64 giờ mà không có vấn đề gì. Vậy nên quy định 52 giờ cũng chẳng được mấy công ty áp dụng.”
Đây chỉ là một trong hàng trăm thư điện tử mà ông Park Yong Chun, đại diện của một tổ chức phi chính phủ chuyên giải quyết các vấn đề thể chất và tinh thần của người lao động nhận được mỗi tháng. Nói về công việc của mình, ông Park cho biết :
“Như mọi người thấy đấy, ở đây có hàng đống giấy tờ. Đều là những thư điện tử mà chúng tôi đã nhận được. Mà đây mới chỉ là những thư trong tuần này thôi. Họ viết cho chúng tôi để kể về những gì mà họ đang phải chịu đựng trong công việc. Mỗi ngày chúng tôi nhận vào khoảng 10 thư điện tử như vậy. Chúng tôi chỉ nhận thư điện tử chứ không nhận điện thoại vì không đủ nhân lực để xử lý cả các cuộc gọi. Thực sự có rất nhiều người mong muốn kể cho chúng tôi về tình hình mà họ gặp phải hiện nay. Chúng tôi có một nhóm chat mở trên ứng dụng Kakao Talk cho phép công nhân viên kết nối với các chuyên gia về lĩnh vực quyền lao động và hiện đã có hơn 832 người kết nối vào nhóm này.”
Với những nhân viên chính thức, những người được vào biên chế, được ký hợp đồng với số giờ theo quy định mà vẫn phải chịu cảnh làm quá giờ như vậy thì những cộng tác viên, những người làm việc tự do, công nhật thì guồng quay công việc còn có thể khắc nghiệt đến mức nào?
Vẫn theo ông Park, “hiện nay có rất nhiều lao động tự do tại Hàn Quốc nhưng lại không có văn bản luật nào quy định về số giờ làm việc tối đa cho họ. Đang có hàng triệu người lao động như vậy, không nhận được bất cứ sự bảo vệ hợp pháp nào khi làm công việc của mình.”
Il Kwang Bo, một người đàn ông trung niên, hiện là lao động tự do cho công ty giao hàng CG Logistics cho biết :
“Thường thì khoảng 7 giờ sáng tôi đến trung tâm giao hàng. Giờ bắt đầu của mỗi trung tâm khác nhau nhưng ở chỗ tôi là 7 giờ. Chúng tôi sau đó phân loại các đơn hàng và bắt đầu vận chuyển. Bình thường công việc của tôi sẽ kết thúc vào khoảng 22 giờ.”
Căn nguyên của văn hoá làm việc quá giờCó nhiều nguyên nhân lý giải cho văn hoá làm quá giờ của người Hàn Quốc. Theo tờ Nikkei Asia, lý do đầu tiên phải kể tới là người lao động không có tiếng nói trong công ty. Giới chủ doanh nghiệp tại Hàn Quốc thường nắm giữ rất nhiều quyền lực còn nhân viên thì chẳng thể đòi hỏi gì. Đặc biệt là sau khi tổng thống Yoon Suk-Yeon lên nắm quyền, ông đã đưa ra nhiều đường lối cứng rắn nhằm trấn áp các nghiệp đoàn, ngăn chặn các cuộc đình công đòi quyền lợi của người lao động. Ông cũng chủ trương tăng giờ làm việc tối đa lên tới 69 giờ/tuần nhưng do vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của người dân, đặc biệt là những người trẻ, đề xuất này sau đó đã bị huỷ bỏ.
Nguyên nhân thứ hai khiến những người lao động tại Hàn Quốc phải làm việc nhiều giờ là vì mức lương họ được trả khá thấp. Dù số giờ làm việc hàng năm cao hơn nhiều so với mức trung bình của các quốc nước trong OECD nhưng mức thu nhập hàng năm của người lao động Hàn Quốc năm 2022 vẫn thấp hơn so với mức lương trung bình tại các quốc gia thành viên của tổ chức này. Hơn nữa, thị trường lao động tại Hàn Quốc hiện đang rất cạnh tranh. Nếu muốn sau này có thể an nhàn hưởng tuổi già, người lao động phải cố gắng hơn nữa. Theo đại diện của Liên đoàn Thanh Niên Hàn Quốc :
“Nghỉ hưu vào năm 60 tuổi là điều không tưởng với nhiều người. Thị trường lao động hiện đang rất cạnh tranh. Rất nhiều nhân sự bị cắt giảm khi đến tuổi 40, 50. Họ sẽ tiếp tục tồn tại thế nào được bây giờ. Bởi vậy mà có nhiều người dù trước đó đã có vị trí tốt, công việc ổn định nhưng sau vẫn phải chạy xe taxi hay đi giao hàng để có khoản tiền tiết kiệm chuẩn bị cho tương lai khi nghỉ hưu.”
Ngoài ra, theo tạp chí Forbes, không thể không nói tới một nguyên nhân quan trọng khác đó là hệ tư tưởng, quan niệm đã hằn sâu trong tâm trí của người Hàn Quốc : tăng ca đồng nghĩa với chăm chỉ, tận tuỵ, nỗ lực. Nếu muốn thành công, bạn phải cống hiến hết mình, đánh đổi tất cả thời gian cho công việc. Và với người Hàn Quốc, thành công được định nghĩa bằng một công việc tốt, một mức lương tốt. Họ rất quan tâm tới vị trí, cấp bậc của một người trong công ty. Ông Micheal Breen, tác giả cuốn The Koreans chia sẻ : “Với người Hàn Quốc, danh tính của một người được thể hiện qua chức danh của người đó trong công việc.” Ông lý giải thêm rằng người Hàn Quốc có thói quen gọi nhau bằng chức vụ của họ, chẳng hạn như “Quản lý Kim” hay “Kế toán Park” kể cả bên ngoài nơi làm việc. Bởi vậy họ lại càng phải nỗ lực để được trọng dụng và tiến cử.
Trả lời phỏng vấn tạp chí Forbes, anh Lee, 39 tuổi, nhân viên văn phòng tại Hàn Quốc khẳng định : “Rời khỏi cơ quan lúc 6 giờ tối đồng nghĩa với việc bạn sẽ không được thăng chức. Chúng tôi luôn phải để ý xem sếp nghĩ gì về thái độ làm việc của mình. Vậy nên khó mà về nhà đúng giờ được.”
Còn theo Helen, 28 tuổi, một người nước ngoài hiện đang sống và làm việc ở Hàn Quốc, thì quy tắc không bao giờ về nhà trước sếp đã là luật bất thành văn tại đây :
“Dù chẳng có quy định cụ thể nào nhưng vì không ai đứng dậy về nhà khi hết giờ nên tôi cũng không dám nói gì. Nếu ông chủ còn chưa về thì bạn không thể về được. Và kể cả khi ông chủ đã về rồi thì bạn cũng vẫn phải xin phép ông ấy. Liệu tôi có thể về nhà được chưa. Cho đến khi ông ta đồng ý thì tôi mới được về.”
Và những hệ luỵ không tránh khỏiGuồng quay công việc nặng nề như vậy ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ của người lao động. Với những người làm việc tay chân như ông Il Kwang Bo hay các nhân viên giao hàng khác tại CG Logistics, sức khoẻ và thậm chí là tính mạng của họ bị đe doạ rất nhiều. Theo nhân viên của một chi nhánh giao hàng này thì “ở Incheon đã có một người tử vong còn ở Gong Yu, một nhân viên sau khi giao hàng liên tục 12 giờ đã bất tỉnh và hiện đang trong tình trạng nguy kịch.”
Không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ thể chất, tâm lý và tinh thần của người lao động cũng bị tác động nặng nề. Theo Helen, công việc mà cô từng yêu thích giờ khiến cô cảm thấy “ngạt thở” mỗi sáng thức dậy :
“Tôi bắt đầu có những triệu chứng căng thẳng và khó thở. Đầu tiên tôi nghĩ là do tôi hút thuốc nhiều quá nên tôi đã ngưng hút nhưng tình hình vẫn không có dấu hiệu cải thiện. Mỗi sáng khi mở mắt dậy tôi lại thấy không thở nổi. Khi tôi đi khám thì bác sĩ bảo phổi tôi không có vấn đề gì cả. Bác sĩ còn bảo nếu tình trạng vẫn tiếp diễn thì tôi nên đi gặp bác sĩ tâm lý.”
Hàn Quốc cũng là nước có tỷ lệ tự tử cao nhất trong khối OECD, thậm chí còn cao hơn cả Nhật Bản, quốc gia nổi tiếng với tình trạng “Karoshi” hay còn hiểu là “làm việc đến chết”. Chỉ tính riêng trong năm 2021, tại Hàn Quốc đã có khoảng 13.000 người tự kết liễu cuộc đời của mình. Hơn nữa, cống hiến tất cả cho công việc cũng đồng nghĩa là người lao động sẽ không có thời gian cho gia đình, con cái. Do vậy, không có gì ngạc nhiên khi Hàn Quốc là nước có tỷ lệ sinh nở thấp nhất thế giới và tỷ lệ này vẫn tiếp tục đà giảm theo các năm. Năm 2023, con số này rơi vào mức 0,72. Số lượng trẻ được sinh ra trong năm 2023 đã giảm gần 20.000 so với năm 2022. Theo tờ The Guardian, tỷ lệ sinh thấp đáng báo động hiện nay tại Hàn Quốc một phần là do phụ nữ cảm thấy việc sinh đẻ và chăm sóc con cái sẽ ảnh hưởng đến công việc của họ.
Tận tuỵ, cống hiến thậm chí là vắt kiệt sức cho công việc đã giúp Hàn Quốc phát triển thần tốc và vươn lên thành một trong bốn con rồng châu Á nhưng những hệ luỵ mà nó gây ra cũng không hề nhỏ.
The podcast currently has 250 episodes available.
43 Listeners
29 Listeners
37 Listeners
4 Listeners
2 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
21 Listeners
8 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
1 Listeners