Những vấn đề xã hội Việt Nam và trên thế giới qua lăng kính RFI
... moreShare Tạp chí xã hội
Share to email
Share to Facebook
Share to X
Bão Yagi tháng 9/2024 được coi là trận cuồng phong lớn nhất từ khoảng 30 năm nay ở Biển Đông. Thông tin về bão vào thời điểm ập vào bờ biển miền bắc Việt Nam được cơ quan khí tượng thủy văn cập nhật sát. Tuy nhiên, dự báo - cảnh báo về các hậu quả nhiều mặt của bão ở miền núi đã ít được chú ý hơn rất nhiều.
Trên thực tế, đa số người chết là do đất lở, lũ đá, lũ quét ở trung du và miền núi. Chính quyền trung ương và nhiều địa phương bị chỉ trích đã không có các biện pháp tương thích. Theo thừa nhận của nhiều giới chức quản lý và khoa học trên truyền thông trong nước, dù bão Yagi và mưa ‘‘hoàn lưu’’ sau đợt thiên tai này là hiếm có, song nhiều mạng sống có thể đã cứu được nếu có các dự báo, cảnh báo đúng lúc và kế hoạch sơ tán kịp thời. Tuy nhiên, dự báo và cảnh báo kịp thời chỉ là một phần của vấn đề. Một số chuyên gia nói đến trận bão lớn đầu tiên cho thấy Việt Nam rõ ràng đã bước vào kỷ nguyên biến đổi khí hậu, cần đến một chiến lược mới.
***
Đa số người chết do sạt lở, lũ quét, nhưng tác động đến miền núi bị coi nhẹTheo bộ Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn Việt Nam, sơ bộ tính đến ngày 27/9, bão Yagi và mưa lũ sau bão đã khiến 344 người chết và mất tích, trong đó có 264 người chết do sạt lở đất, lũ đá, lũ quét. Tại tỉnh Yên Bái, trong số 54 người thiệt mạng, chỉ có 3 người chết do đuối nước, 51 nạn nhân còn lại là do sạt lở đất, sập nhà gây tử vong.
Vụ lũ bùn đá ở Làng Nủ (Lào Cai) ngày 10/09 được coi là tai nạn thảm khốc tiêu biểu. Theo các nhà khoa học, ước tính hơn 1,3 triệu mét khối đất đá, bùn nước trút xuống ngôi làng trong vòng 5 phút khiến dân làng không kịp trở tay, vùi lấp 37 nhà dân, khiến hơn 60 người chết và 7 người mất tích. Cùng ngày 10/09, thôn Nậm Tông (tỉnh Lào Cai) bị đất đá lở vùi lấp khiến 18 người chết và mất tích. Cũng không thể không nhắc đến vụ đất lở rạng sáng ngày 09/09 trên quốc lộ 34, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, cuốn hai ô tô, nhiều xe máy xuống vực, khiến hơn 30 người chết.
Trả lời RFI tiếng Việt, về phản ứng cảnh báo và sơ tán cấp thời, giáo sư Nguyễn Ngọc Lung (Hà Nội) nhận định : ‘‘Các địa phương đều nhận thấy là các chuẩn bị của mình là chưa đạt yêu cầu. Có nghĩa là đã báo trước là có cơn bão mạnh nhất trong vòng thế kỷ vừa qua, nhưng sự chuẩn bị của mình là chưa đạt yêu cầu tí nào. Đặc biệt là những nơi núi cao, đèo sâu, xa dân cư. Chính vì thế nó mới trôi cả làng. Trôi rồi mới biết.
Cơn bão này đến thì chuẩn bị không được bao nhiêu. Lý do thứ nhất là báo trước không được nhiều lắm. Thứ hai là thường cái bão đặc biệt ở vùng nhiệt đới, nhất là ở Đông Nam Á đi chệnh hướng nhiều lắm. Lúc đầu người ta nghĩ đi vào hướng Trung Quốc, nhưng khi vào Biển Đông rồi thì rẽ ngang qua đảo Hải Nam, rồi vào Bắc Bộ mạnh hơn. Việt Nam không báo được đầy đủ. Tất cả tiềm lực tập trung cho hai tỉnh, Hải Phòng và Quảng Ninh.
Sau khi nó vào đồng bằng rồi, nó sớt qua biên giới Việt-Trung, rồi thì nó đi ngang, đi vào Thanh Hóa, đi vào Nghệ An. Có nghĩa là nó thay đổi phương hướng, lường trước không được bao nhiêu. Những cái ấy mình còn rất yếu, mặc dù có sự phối hợp với các nước xung quanh.
Bây giờ thiệt hại thì ai thiệt hại nhiều nhất? Chính thiệt hại các tỉnh miền núi nhiều nhất. Họ cứ nghĩ mưa với bão thì miền núi bao giờ cũng tránh được. Chỉ có đồng bằng nước mới đổ về mới phải quan tâm. Như vậy anh đã không quan tâm đầy đủ cho chính những vùng bị nguy hiểm nhất, và bị thiệt hại về nhân mạng nhiều nhất.’’
Trên báo chí trong nước, hai tác giả Hà Thị Hằng và Lưu Thị Diệu Chinh nêu giả thiết là so với các vùng đồng bằng và ven biển, ‘‘dường như đang có sự thiên lệch trong việc đối phó với thiên tai ở các tỉnh miền núi: sự quan tâm dường như nghiêng về giải quyết khi “sự đã rồi” hơn là quá trình phòng bị trước thảm họa’’ (Bài ‘‘Thảm kịch lũ quét và sạt lở sau bão Yagi: Sự cố hi hữu hay vấn đề hệ thống?’’, Tia Sáng, ngày 08/10/2024).
Đất nhão dễ dàng sụp đổ do nắng to - mưa nhiều: Điều hoàn toàn có thể dự đoánTrên thực tế, các tác động khác thường của bão Yagi và hoàn lưu bão dường như là điều mà giới chuyên gia khí tượng thủy văn và địa chất học hoàn toàn có thể dự báo được. Tình trạng mưa liên tục trong tháng 8 trước cơn bão lịch sử (với 23 trên 31 ngày mưa ở Lào Cai, và 21/31 ngày ở Yên Bái), với tổng lượng nước vượt 40 – 60% trung bình năm, cho thấy đất đã ngậm no nước ngay trước bão, với lượng mưa lịch sử như chúng ta biết. Trước khi hứng chịu đợt mưa lớn, khu vực miền núi phía Bắc đã chịu một đợt nắng nóng kéo dài (từ tháng 4 đến tháng 7), với hệ quả là cấu trúc của đất đã bị phá hủy đáng kể. Mưa nhiều sau đó khiến đất dễ dàng nhão ra, sẵn sàng sụp đổ bất ngờ.
Chính quyền Việt Nam trong những năm gần đây đã có biện pháp để thúc đẩy việc dự báo lũ quét, sạt lở, đặc biệt sau đợt bão lớn ở miền trung 2020. Năm 2023 chính phủ phê duyệt Đề án ‘‘Cảnh báo sớm sạt lở đất và lũ quét tại khu vực miền núi và trung du Việt Nam’’, nhằm hoàn thiện hệ thống bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất cho 37 tỉnh ở miền núi và trung du ngay trong năm 2025, đặc biệt tập trung vào 150 điểm có nguy cơ cao nhất, với bản đồ chi tiết với tỉ lệ 1/10.000 (tức 1cm trên bản đồ tương đương 100 mét trên thực địa), thậm chí nhỏ hơn.
Khâu dự báo, cảnh báo thảm hoạ thiếu đầu mối thống nhất…,Tuy nhiên, để cảnh báo tốt thảm họa cần phối hợp nhiều thông số từ các ngành khác nhau (khí tượng thủy văn, địa chất, lâm nghiệp, công trình xây dựng…). Nhiều chuyên gia chỉ trích là đề án nói trên của chính phủ nhiều khả năng sẽ kém hiệu quả bởi giao cho nhiều cơ quan, mà thiếu đầu mối thống nhất (Bài ‘‘Vì sao bản đồ cảnh báo lũ quét và sạt lở đất chưa phát huy hiệu quả?’’, Báo Sức khoẻ và Đời sống, ngày 04/10/2024). Theo ông Tạ Đức Thịnh, chủ tịch Hội Địa chất công trình và môi trường Việt Nam, cũng như một số chuyên gia địa chất, cần một cơ quan chịu trách nhiệm cao nhất để tránh tình trạng không có phối hợp.
Hiện tại có nhiều cơ quan phụ trách việc cảnh báo (như cục Địa chất thuộc bộ Tài nguyên và Môi trường, Viện Khoa học Địa chất và Khoáng sản và tổng cục Khí tượng - Thủy văn). Mỗi cơ quan lại sử dụng phương pháp và công nghệ khác nhau để xác định bản đồ sạt lở, lũ quét. Kết quả là những bản đồ hiện nay thường rời rạc, không bao phủ được đầy đủ các nguy cơ, dẫn đến khả năng dự báo thiếu chính xác. Theo một đại diện Trung tâm Dự báo khí tượng - thủy văn quốc gia, Trung tâm này đưa ra cảnh báo chỉ dựa trên chỉ số lượng mưa mà không nắm được thực tế ở khu vực (từ thực trạng rừng, độ dốc, cấu tạo địa chất đến mật độ công trình xây dựng, dòng chảy và vật cản…).
… khâu phòng ngừa thiếu một chiến lược tổng thể và liên ngànhBên cạnh việc thiếu quản lý thống nhất về cảnh báo, việc thiếu một chiến lược quốc gia phát triển bền vững các vùng đất dốc với sự phối hợp liên ngành cũng là một khuyết thiếu lớn hiện nay. Trong bài nhận định về ‘‘Quy hoạch vùng dân cư và xây dựng bản đồ thiên tai để tránh sạt lở, lũ quét’’, PGS - TS Trần Tuấn Anh, viện trưởng Viện Địa chất, một lãnh đạo của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã không hề nhắc đến vai trò của rừng trong việc giảm nhẹ các thảm họa ở các vùng đất dốc (Dangcongsan.vn, ngày 07/10/2024).
Trả lời RFI tiếng Việt, giáo sư Đỗ Minh Đức, khoa Địa chất, Trường ĐH Khoa học tự nhiên, ĐH Quốc gia Hà Nội nhận xét: ‘‘Ở rất nhiều nước, trong đó có một số quốc gia lân cận với Việt Nam, như Malaysia, đã có kế hoạch tổng thể quốc gia phát triển bền vững các vùng đất dốc. Thực ra kế hoạch của họ có nhiều điểm chúng ta đã và đang làm rồi, ví dụ như việc xây dựng một số bản đồ với các tỉ lệ khác nhau, xác định các vùng có nguy cơ cao và rất cao. Nhưng bên cạnh đó, họ đã kết hợp với các cơ sở dữ liệu khác về điều kiện kinh tế xã hội, rồi về các yếu tố có ảnh hưởng trong tương lai, như các kịch bản biến đổi khí hậu, hay các kịch bản về sử dụng đất... Những điều này về cơ bản đâu đó chúng ta đã có rồi, nhưng chúng ta chưa có người điều phối chung, để tích hợp các thông tin trong bản đồ quy hoạch tổng thể chung.
Ở đây, về mặt khoa học, chắc chắn phải cần khoa học liên ngành rồi, bao gồm khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và kinh tế, và kể cả các vấn đề về văn hóa, tập tục của các cộng đồng, sinh kế và các giá trị văn hóa đặc thù của miền núi Việt Nam, vai trò của các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách là vô cùng quan trọng. Thực ra là các lĩnh vực chuyên ngành đều làm cả rồi, nhưng tích hợp với nhau thì chưa có.’’
“Rừng Phòng Hộ” : Linh hồn của cuộc chiến chống nạn đất lởCách nay 4 năm, sau trận bão lịch sử ở miền Trung Việt Nam, nhà văn Nguyên Ngọc có bài ‘‘Đất chảy’’ gây nhiều chú ý trong công luận, dẫn lại ý tưởng của giáo sư Nguyễn Ngọc Lung: ‘‘còn rừng tự nhiên thì mưa xuống chỉ có 5% nước chảy trên mặt đất, 95% sẽ ngấm xuống thành nước ngầm… Khi mất rừng tự nhiên thì ngược lại, chỉ 5% ngấm xuống thành nước ngầm, hơn 90% sẽ chảy tràn trên mặt đất… Còn rừng tự nhiên thì chỉ có lụt…. Lũ là khi đã mất rừng tự nhiên, chỉ còn lơ thơ mấy cây bụi lẹt đẹt, với cỏ, với cao su, keo, cà phê… tràn lan, là các loại cây không có bộ rễ giữ nước... 95% nước mưa chảy thành thác trên mặt đất quét hết mọi thứ, làng mạc và con người.’’ (''Đất chảy'', Người Đô Thị, 08/10/2020).
"Rừng" ở Việt Nam theo số liệu chính thức chiếm đến hơn 40% diện tích lãnh thổ (với 14,78 triệu ha). Nhưng về mặt nguyên tắc, số lượng rừng thực sự có khả năng góp phần ngăn ngừa hoặc hạn chế thảm hoạ chiếm không quá 20%, bao gồm Rừng Đặc Dụng và Rừng Phòng Hộ (Protection Forest) (với gần 7 triệu ha theo số liệu của cục Lâm Nghiệp). Tuy nhiên, ngay trong số 20% này, còn bao nhiêu rừng thực sự có giá trị phòng hộ ?
Tại các tỉnh miền núi Tây Bắc Việt Nam, nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất về nhân mạng trong đợt bão Yagi vừa qua, tình trạng khai thác bất hợp pháp Rừng Phòng Hộ là điều đã liên tục được báo động. Theo một chuyên gia trong nước, ‘‘cần nhấn mạnh nguyên nhân quan trọng là hậu quả phá rừng tự nhiên ở nước ta và cần xem xét lại việc trồng cây kinh tế độc canh trên diện tích rừng cũ mà vẫn gọi đó là “phục hồi rừng” và gộp vào thống kê diện tích rừng’’ (bài “Cái giá của việc thay thế rừng bằng cây độc canh: Từ lợi ích ngắn hạn đến hậu quả dài lâu” của Tô Văn Trường, báo Nông nghiệp, ngày 04/10/2024).
Việc Rừng Phòng Hộ bị triệt phá, bị thay thế bằng "Rừng Sản xuất", có tác động như thế nào đối với tình trạng đất lở diễn ra phổ biến tại nhiều tỉnh miền núi Tây Bắc ? Vụ đất lở rạng sáng ngày 09/09 trên quốc lộ 34, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, khiến hơn 30 người chết, cùng hàng loạt vụ đất lở trong khu vực, phần nào do khai thác quặng trái phép, phần nào do phá Rừng Phòng Hộ, hay do không có Rừng Phòng Hộ…? Rất cần đến các khảo sát độc lập để thẩm định.
Biến đổi khí hậu: Bài học bão lũ miền Trung 2020 chưa thấm, Yagi đã đếnGiáo sư TSKH Nguyễn Ngọc Lung, viện trưởng Viện Quản lý Rừng bền vững, nguyên cục trưởng cục Lâm Nghiệp, bộ Nông Nghiệp Việt Nam, đặc biệt lưu tâm đến việc biến đổi khí hậu làm gia tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan là điều dường như vẫn chưa được giới chức trách hiện tại chú ý đúng mức, bất chấp trận bão lớn bất thường ở miền Trung:
‘‘Biến đổi khí hậu đến ngoài sức tưởng tượng của con người. Hàng bao nhiêu thế kỷ đã theo quy luật về mùa bão, rồi lượng bão, rồi tốc độ, tần số… Tất cả những cái đó đã được đưa vào sách giáo khoa. Bao nhiêu thế kỷ đã qua. Từ thời Pháp sang Việt Nam, thống kê của Pháp đã được in thành sách, từng điểm quan sát khí tượng thủy văn một. Các đài khí tượng thủy văn cũ của Pháp cho đến nay vẫn được duy trì, đều có báo, có thu thập số liệu để cho các nhà nghiên cứu.
Nhưng khi dự báo vào thời kỳ của biến đổi khí hậu thì những số liệu trên chỉ có tính tham khảo, không còn là quy luật dùng để tránh nữa. Cách đây 5 năm đã có một cơn bão vào miền Trung tương đối mạnh, thiệt hại tương đối lớn. Đấy là một cảnh báo mà thiên nhiên giúp cho mình.’’
Dựa vào Mẹ Thiên Nhiên hay để mặc cho Đất Chảy ?Để giảm thiểu nạn người chết do đất lở, trong giới khoa học, quản lý tại Việt Nam, đã có một số tiếng nói gióng lên kêu gọi sớm có một chiến lược phát triển bền vững tại các vùng đất dốc. Nạn phá rừng, tình trạng Rừng Phòng Hộ không đủ số lượng, trồng cây độc canh tại các vùng Rừng Phòng Hộ, biến Rừng Phòng Hộ thành "Rừng Sản Xuất", bạt núi san đồi bừa bãi, đất rừng bỏ hoang quy mô lớn…, được truyền thông trong nước điểm mặt như các tác nhân chính đe dọa độ ổn định của các vùng đất dốc, ngày càng đẩy người dân vào thế bị động trước nạn đất lở, lũ đá. Chưa kể đến việc ''Rừng Sản Xuất" thường bị ‘‘khai thác trắng’’, đường vận chuyển lâm sản không được quy hoạch hợp lý, làm ‘‘biến dạng đồi núi, xói mòn đất đai, tụt mạch nước ngầm’’, gia tăng nguy cơ sạt lở, lũ lớn.
Trên thực tế, trước trận bão Yagi tháng 9/2024, hoàn toàn không phải chính quyền không biết trước các hậu quả nghiêm trọng của việc thiếu dự báo và thiếu các biện pháp phòng vệ đối với các khu vực nhiều nguy cơ đất lở, lũ đá. Yagi chỉ là màn dạo đầu. Biến đổi khí hậu sẽ ngày càng gia tăng, các hậu quả được dự báo sẽ còn nghiêm trọng gấp bội.
Miền núi phía bắc Việt Nam được coi là một trong những khu vực dễ tổn thương nhất thế giới trước biến đổi khí hậu (do năng lượng hóa thạch tạo khí thải gây hiệu ứng nhà kính) và do các tác động khác của con người đến môi trường (*). Thiên tai giờ đây ngày càng là Nhân - Thiên Tai, tức các thảm họa môi trường do thời tiết – khí hậu trong đó có phần rất lớn là do chính con người.
Trong giai đoạn lựa chọn quyết định này, chính quyền Việt Nam sẽ áp dụng rộng rãi và thực chất (**) Các Biện pháp dựa vào Thiên Nhiên (Nature based Solutions - NbS), đặc biệt là với Rừng Phòng Hộ, để giảm thiểu nguy cơ các thảm hoạ Nhân - Thiên Tai hay tiếp tục vì những cái lợi ngắn hạn mà để mặc cho “Đất Chảy”, người chết?
***
Theo một số chuyên gia, như giáo sư Nguyễn Ngọc Lung, để ngăn ngừa hiệu quả nguy cơ đất lở, lũ đá tại các vùng đất dốc, bên cạnh 5 tiểu loại Rừng Phòng Hộ đã có (gồm rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng bảo vệ nguồn nước, rừng an ninh - quốc phòng, rừng chắn gió – chắn cát và rừng chắn sóng - lấn biển, theo Luật Lâm Nghiệp 2017), có thể đã đến lúc cần xem xét xác lập tiểu loại thứ 6, Rừng Phòng Hộ vùng Đất Dốc để đối phó với đe dọa trên phạm vi toàn quốc này, đang ngày càng trở nên đáng sợ hơn, do Biến đổi Khí hậu.
Ghi chú
(*) Một nghiên cứu mới đây cho thấy các vùng núi miền Bắc và Bắc Trung Bộ Việt Nam thuộc 45 vùng núi có ‘‘nguy cơ sạt lở cao nhất thế giới’’ (trong tổng số hơn 1.000 vùng núi trên Trái đất), do nạn phá rừng và biến đổi khí hậu. Để giảm thiểu nguy cơ, nghiên cứu - đăng tải trên PNAS, tạp chí đa ngành của Viện Hàn Lâm Khoa học Mỹ - khuyến nghị ‘‘mở rộng các khu bảo tồn rừng, giảm nạn phá rừng và phục hồi rừng’’ (bài “Strategic protection of landslide vulnerable mountains for biodiversity conservation under land-cover and climate change impacts”, PNAS, 3/2022).
(**) Đầu năm 2024, chính phủ Việt Nam đã công bố một đề án thí điểm “nâng cao chất lượng rừng nhằm bảo tồn hệ sinh thái rừng và phòng, chống thiên tai đến năm 2030”, với đối tượng là 36.000 ha Rừng Đặc Dụng và 138.000 ha Rừng Phòng Hộ đang trong tình trạng ‘‘nghèo’’, ‘‘nghèo kiệt’’ hoặc ‘‘chưa có trữ lượng’’ (Quyết định 171). Đề án bắt đầu đặt vấn đề ‘‘xây dựng các mô hình điểm nâng cao chất lượng rừng bằng nhiều loài cây bản địa có cấu trúc đa tầng, đa loài, nâng cao khả năng bảo tồn của hệ sinh thái rừng và chức năng phòng hộ của rừng trên điều kiện lập địa khó khăn, vùng đất dốc…’’. Diện tích nói trên mới chỉ chiếm hơn 2% tổng diện tích rừng đặc dụng và rừng phòng hộ toàn quốc. Tuy nhiên, đề án của chính phủ Việt Nam đã bước đầu thừa nhận việc cần ‘‘rà soát’’ hiện trạng, tổng diện tích Rừng Phòng Hộ và Rừng Đặc Dụng “nghèo’’, ‘‘nghèo kiệt’’.
Ảnh hưởng của Elon Musk đối với chính sách môi trường dưới thời Donald Trump ? Liên Hiệp Quốc lo ngại trước sự trở lại của tân tổng thống bảo thủ Mỹ ; Cuộc « trả thù xã hội » trong vụ tấn công « xe điên » ở Trung Quốc, khiến 35 người thiệt mạng ; Sự trở lại của xu hướng « Người mẫu gầy » - chuẩn mực của cái đẹp trong giới thời trang. Trên đây là những chủ đề chính trong mục tạp chí thế giới đó đây tuần này.
Hội nghị Khí hậu quốc tế của Liên Hiệp Quốc – COP 29, diễn ra tại Baku, Azerbaijan là một trong những sự kiện nổi bật trong tuần vừa qua. Nội dung chính của kỳ họp năm nay là đàm phán về hỗ trợ tài chính của các nước giàu cho các nước nghèo chịu tác động nặng nề của biến đổi khí hậu, để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng, giảm phụ thuộc vào năng lượng hóa thạch và thích ứng tốt hơn trước các thiên tai.
Sự kiện năm nay bị đánh dấu bởi nhiều nghịch lý, từ nước chủ nhà một sự kiện về khí hậu, « yêu chuộng dầu khí », đến cái bóng của tân tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump, coi biến đổi khí hậu là một « cú lừa lịch sử từ giới khoa học », tạo bầu không khí u ám, trước nguy cơ Hoa Kỳ rút khỏi thỏa thuận Khí hậu Paris 2015, trong khi Mỹ phát thải CO2 nhiều nhất thế giới. Theo một báo cáo công bố hôm qua, sự trở lại của Donald Trump có thể khiến nhiệt độ trái đất tăng thêm 0,04 độ C từ nay đến cuối thế kỷ.
Elon Musk với chính sách môi trường dưới thời Donald Trump?Vài tuần trước khi trở lại Nhà Trắng, Donald Trump đã bổ nhiệm Elon Musk vào bộ Hiệu quả Chính phủ, phụ trách cải cách bộ máy chính phủ và cùng lãnh đạo cơ quan này với Vivek Ramaswamy, một doanh nhân gốc Ấn Độ.
Trong lĩnh vực môi trường, Elon Musk từng được ca ngợi là một siêu anh hùng « Iron Man » vì một mình giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu thông qua xe điện Tesla, góp phần vào một tương lai của năng lượng xanh và thúc đẩy các loại thuế để giảm năng lượng về hóa thạch, theo nhận định của The Guardian.
Trong bối cảnh Hội nghị Khí hậu của Liên Hiệp Quốc COP-29 diễn ra ở Azerbaijan, phủ bóng Donald Trump, sự ủng hộ của vị tỷ phú Mỹ, chủ của SpaceX và Tesla, liệu có tác động đến chính sách môi trường của Hoa Kỳ trong những năm sắp tới hay không, khi gia nhập nội các của Trump ? Trước đây, Donald Trump từng chỉ trích xe điện, nhưng với sự ủng hộ từ Elon Musk, tổng thống Hoa Kỳ đã thay đổi quan điểm, và coi đó là thành tựu lớn.
Trên thực tế, niềm tin vào nhà tỷ phú Musk về vấn đề khí hậu đã bị lu mờ bởi sự ủng hộ « không giới hạn » của ông đối với các chính trị gia cánh hữu, đặc biệt là Donald Trump.
Hơn nữa, các hình ảnh « xanh » mà Elon Musk tạo dựng từ nhiều năm qua chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Hãng xe điện Tesla được « ca tụng » là giải pháp thay thế năng lượng hóa thạch nhưng quá trình sản xuất vẫn tiêu thụ năng lượng hóa thạch và kim loại gây ô nhiễm.
Đứng đầu doanh nghiệp về hàng không vũ trụ SpaceX, Elon Musk công khai bày tỏ tự hào trên mạng X về các vụ phóng tên lửa tái sử dụng, trong khi các chuyến « du hành » vào vũ trụ có lượng khí thải carbon cao, gấp 200-300 lần so với các chuyến bay đường dài thông thường.
Elon Musk cũng gây sự chú ý với giải thưởng Xprize trị giá 100 triệu đô la, phát triển công nghệ loại bỏ carbon khỏi không khí nhưng dự án Starlink của SpaceX, cung cấp dịch vụ Internet qua vệ tinh, cũng gây lo ngại về ô nhiễm, khi các vệ tinh rơi xuống trái đất, và phát ra khí thải có hại cho bầu khí quyển.
Lối sống của Musk, đặc biệt là việc sử dụng máy bay riêng, thải ra lượng carbon lớn, đưa ông vào nhóm người « siêu phát thải » Mạng xã hội X mà Elon Musk mua lại hồi 2022, thường xuyên bị chỉ trích vì cho phép loan truyền thông tin sai lệch về biến đổi khí hậu.
Dù ủng hộ năng lượng tái tạo, nhưng Musk lại không coi biến đổi khí hậu là vấn đề khẩn cấp mà cho rằng còn « 50 hoặc 100 năm » để hành động, trong khi báo cáo của GIEC cảnh báo rằng nếu không có hành động mạnh mẽ, tác động của biến đổi khí hậu sẽ trở nên nghiêm trọng vào năm 2050. Tỷ phú giàu nhất hành tinh cũng cho rằng việc bảo vệ môi trường « không nên gây ra thay đổi quá lớn cho xã hội ».
Liên Hiệp Quốc lo ngại trước sự trở lại của Donald TrumpNgoài vấn đề môi trường, sự trở lại của Donald Trump cũng khiến nhiều định chế quốc tế quan ngại, với lập trường bảo thủ « America First », đặc biệt là Liên Hiệp Quốc. Cho đến nay, Hoa Kỳ đóng góp nhiều nhất cho Liên Hiệp Quốc nhưng lại bị Donald Turmp coi là không phục vụ lợi ích của Mỹ.
Từ Genève, thông tín viên Jérémie Lanche cho biết thêm thông tin :
« Một trong những điểm đáng chú ý trong nhiệm kỳ đầu tiên của Donald Trump là việc áp dụng chính sách « để ghế trống », rút Mỹ ra khỏi nhiều định chế thế giới, Hội đồng Nhân Quyền, và Tổ chức Kinh tế Thế giới. Jussi Hanhimaki, giảng viên chính trị quốc tế, chuyên gia về Hoa Kỳ tại Graduate Institut de Genève cho rằng với nhiệm kỳ thứ hai sắp tới, Trump sẽ vẫn giữ lập trường tương tự.
Ông nói : « Chúng ta sẽ chứng kiến cảnh nước Mỹ rút khỏi, hoặc giữ khoảng cách với nhiều đinh chế, đặc biệt là Tổ chức Kinh tế Thế giới. Mọi người đã biết đến câu nói của Donald Trump : ‘Hàng rào thuế quan là cụm từ đẹp nhất trong từ điển » Do vậy, đúng là không còn nghi ngờ gì nữa, Hoa Kỳ sẽ vắng bóng hơn, tại Liên Hiệp Quốc.
Việc bổ nhiệm Elise Stefanik vào vị trí tân đại sứ của Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc cũng phần nào đi theo hướng này. Bà Stefanik đấu tranh cho việc đánh giá lại toàn bộ nguồn tài trợ của Hoa Kỳ cho Liên Hiệp Quốc. Chuyên gia về Hoa Kỳ nói thêm : « Châu Âu phải nhận thức được là không phải chỉ vì mỗi Donald Trump mà điều này trở thành một khuynh hướng trong chính trị Hoa Kỳ. Dù là NATO hay Liên Hiệp Quốc, Hoa Kỳ cho rằng họ không cần phải chi trả cho tất cả các nước ».
Đây là vấn đề lớn đối với Liên Hiệp Quốc, Washington là nước đóng góp lớn nhất vào ngân sách của định chế này, hơn cả Trung Quốc. Bắc Kinh đã được hưởng lợi nhiều từ nhiệm kỳ của Donald Trump, để gia tăng sức ảnh hưởng và hiện diện tại Liên Hiệp Quốc. »
Trung Quốc : Tranh cãi sau vụ « xe điên » tông chết 35 ngườiNhìn sang châu Á, trong tuần vừa qua, một vụ xe « điên », lao vào đám đông tại một trung tâm thể thao ở Châu Hải, khiến 35 người bỏ mạng đã gây náo động công luận tại Trung Quốc. Trên mạng xã hội, nhiều người đề cập đến hiện tượng « trả thù xã hội », khi người ta có hành động bạo lực, tấn công người lạ vì những bức xúc cá nhân.
Từ Bắc Kinh, thông tín viên Cléa Broadhurst cho biết thêm thông tin :
« Cuộc tấn công xe điên ở Châu Hải đã châm ngòi một cuộc tranh luận dữ dội trên mạng xã hội ở Trung Quốc khi nói về ‘cuộc trả thù xã hội’. Khái niệm này ám chỉ các hành động bạo lực của những người cảm thấy bị bỏ rơi, bị cho ra rìa xã hội, tấn công bừa vào những người lạ.
Trên mạng xã hội Weibo, một bình luận đã được loan tải rộng rãi : « Làm sao có thể trả thù xã hội bằng cách giết nhiều người vô tội nhất có thể, bởi vì cuộc sống gia đình của người đó không tốt ?
Trả lời cho câu hỏi này, nhiều người dùng mạng đã đề cập đến áp lực cuộc sống thường nhật, cũng như là tầm quan trọng để giải quyết những vấn đề về sức khỏe tinh thần. Họ kêu gọi đưa ra luật mới để ngăn chặn xảy ra tình trạng bạo lực như vậy.
Một vấn đề gây bức xúc khác là cơ quan thực thi pháp luật được cho là làm việc kém hiệu quả trong việc giải quyết các vấn đề gia đình, như ly hôn. Chính điều này đã kích động hình thức trả thù bằng bạo lực, do quá khó để đạt được kết quả như mong muốn.
Trong vụ tấn công Châu Hải, thủ phạm được cho là đã tấn công sau một cuộc ly hôn khó khăn. Thảm kịch này phản ứng một xu hướng : khi người ta không tìm thấy giải pháp cho các cuộc xung đột các nhân, hay xung đột xã hội, một số tìm đến bạo lực để bày tỏ sự thất vọng của mình.
Tại Trung Quốc, một số thảm kịch bạo lực đã xảy ra năm nay, đặc biệt là nhiều vụ tấn công bằng dao, khiến hàng chục người chết.
« Người mẫu gầy » trở lại giới thời trangTrong lĩnh vực văn hóa, trong một cuộc phỏng vấn với kênh truyền hình BBC của Anh gần đây, giám đốc của tạp chí Vogue ở Anh, Chioma Nnadi, bày tỏ quan ngại về sự trở lại của xu hướng người gầy mảnh mai. Trong khi những năm trở lại đây, nhiều sự kiện thời trang được đánh dấu bởi các người mẫu với hình thể đa dạng, béo, gầy, cao thấp, nhằm thúc đẩy sự chấp thuận trong xã hội về sự đa dạng hình thể, không bị gò bó bởi các khuynh hướng thời trang.
Từ Luân Đôn, thông tín viên Emeline Vin cho biết thêm thông tin :
« Chủ biên tạp chí thời trang Vogue ở Anh, bày tỏ quan ngại về xu hướng ‘người mẫu gầy quay trở lại’. Sau khi dự nhiều tuần lễ thời trang trong thời gian vừa qua, bà Nnadi cho biết không thấy nhiều người mẫu với các hình thể đa dạng xuất hiện, đặc biệt là có nhiều người mẫu quá gầy đứng trên các sàn diễn.
Tuy thời trang Anh vẫn gắn liền với hình ảnh gầy mảnh mai của Kate Moss, gầy gò như cành cây, thiết lập các tiêu chuẩn gầy cực đoan vào những năm 2000, nhưng nhiều năm qua, các thương hiệu đã nỗ lực giới thiệu những người mẫu với kích thước ngoại hình đa dạng.
Làm sao có thể giải thích bước thụt lùi này trong thời trang ? Theo bà Chioma Nnadi, một trong những thủ phạm là loại thuốc giảm cân Ozempic, loại thuốc vốn được sử dụng để điều trị tiểu đường, có tác dụng ức chế sự thèm ăn. Thương hiệu thời trang Namilia cũng đã gây tranh cãi trong tuần lễ thời trang vào tháng 7 vừa qua, khi trình làng chiếc áo phông in dòng chữ « I love Ozempic » - Tôi yêu Ozempic.
Vào năm 2009, tạp chí Vogue Anh đã yêu cầu các nhà mốt gửi mẫu quần áo với kích cỡ khác, thay vì số 32 (size châu Âu), để có thể tuyển dụng những người mẫu có thân hình khác nhau. Bà Chioma Nnadi cho rằng tạp chí thời trang của bà, hay báo chí không thể làm cách mạng đơn độc, thay đổi các chuẩn mực về cái đẹp. »
Nằm trên bờ Bắc của Đại Tây Dương ở Nam Mỹ, vùng hải ngoại của Pháp Guyane từng là nơi giam giữ hơn 500 tù nhân chính trị “An Nam” từ những năm 1930 đến Đệ Nhị Thế Chiến. Đến từ xứ Đông Dương cách 17 000km, những tù nhân được coi là những lao động, khai hoang những khu rừng rậm Amazon cho Pháp. Một câu chuyện ít người biết đến, bị lãng quên trong lịch sử của Việt Nam và Pháp.
Tại Guyane, vùng hải ngoại của Pháp ở Nam Mỹ, con đường ven bờ rừng được nhiều người dân và du khách lui tới đi dạo trong những ngày nghỉ cuối tuần ở xã Montsinéry-Tonnégrande, cách thành phố Cayenne 45 km về phía đông.
Ẩn sau các tán cây là các khối bê tông dài như tường thành bị phong rêu, phủ kín dây leo, khiến không ít người đặt nghi vấn về câu chuyện lịch sử ẩn đằng sau. Đó cũng là trường hợp của nhà sử học người Pháp Christèle Dedebant, kết hợp nhiều sự kiện ngẫu nhiên, tình cờ đi dạo trên con đường mòn đó, tình cờ nghe về câu chuyện nhà tù khổ sai An Nam – Le Bagne des anamites, và tình cờ gặp được người thân của những cựu tù nhân để tiến hành đào sâu tìm hiểu ngọn nguồn, vẽ lại bức tranh đầy đủ về hành trình vượt đại dương và số phận của 500 tù nhân Việt bị lưu đày ở Guyanne dưới thời Pháp thuộc.
Trong cuốn sách “Le Bagne des annamites, les derniers déportés politiques en Guyane” được nhà xuất bản Actes Sud cho ra mắt độc giả hồi tháng Năm, nhà sử học Christèle Dedebant lật lại những trang sử về bối cảnh các cuộc cách mạng ở Việt Nam những năm 1930, làm tiền đề cho tuyên bố độc lập của Hồ Chí Minh vào năm 1945. Tiêu biểu là khởi nghĩa Yên Bái, dưới sự lãnh đạo của Việt Nam Quốc Dân Đảng, nổ ra vào tháng Hai năm 1930 nhưng đã nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp.
Khoảng 670 người đã bị bắt giữ, bỏ tù hay hành quyết, chủ yếu là những người tham gia vào phong trào kháng chiến của Việt Nam Quốc Dân Đảng, hay phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Trong số đó, 538 nam tù nhân, từ 17 đến 50 tuổi, được xét là “đủ khả năng vượt đại dương”, trên con tàu Martinière, đưa đến giam giữ ở Guyane.
Đọc thêm : "Lính thợ Đông Dương" : Những người lính thầm lặng tại Pháp trong Thế Chiến II
Khi đến xứ Nam Mỹ xa xôi, những người này không bị giam giữ tại các nhà tù của chính quyền thuộc địa vốn có mà ở những khu vực đặc biệt được xây dựng dành riêng cho họ, bị đưa đi lao động khổ sai, giúp chính quyền thực dân Pháp khai hoang vùng đất mới rộng lớn này. Khi tách họ khỏi các nhà tù truyền thống cũng là để tránh sự lây lan của tinh thần dân tộc chủ nghĩa trong các xà lim ở Guyane.
Cuốn sách đưa người đọc tìm hiểu lại cuộc sống thường nhật của các tù nhân, phải tự mình xây dựng nơi sinh hoạt chung, tại nơi giam giữ mình, trong điều kiện vệ sinh nghèo nàn. Nhiều người mắc các bệnh về đường hô hấp hay đường ruột. 10 tù nhân đã bỏ mạng. Một số tìm cách đào tẩu, tránh cảnh lao động khắc nghiệt và tránh bị lây nhiễm.
Đến Guyane, những tù nhân chính trị An Nam được coi là “những lao động” VIP, “có lợi ích khi giữ tinh thần và thể chất cho họ” để khai phá những vùng lãnh thổ mà chúng ta chưa biết đến ở Guyane”, theo trích dẫn trong cuốn sách từ tư liệu của bộ Thuộc Địa.
Nhà sử học cũng nhắc lại sự thay đổi chính quyền ở Guyane vào năm 1936, và dẫn đến việc trả tự do cho một số tù nhân, nhưng lại bị hạn chế di chuyển, không được phép rời khỏi lãnh thổ này. Một số được cấp đất rừng để khai hoang, canh tác, hay được phép làm việc tại doanh nghiệp khai thác khoáng sản ở Guyane. Đến khi Đệ Nhị Thế Chiến kết thúc, các nhà tù tại Guyane lần lượt bị đóng cửa. Những tù nhân Đông Dương cuối cùng được trả tự do từ năm 1949. Mãi đến năm 1963 họ mới được đưa trở về lại quê hương. Một nửa trong số những người bị lưu đày đã quyết định ở lại Cayenne, sinh sống “trong khu phố người Hoa”, trên thực tế là những người Đông Dương.
***
Để hiểu thêm về câu chuyện của những tù nhân chính trị này, RFI Tiếng Việt đã phỏng vấn bà Christèle Dedebant, tác giả của cuốn sách “Le bagne des Annamites : Les derniers déportés politiques en Guyane”- tạm dịch là “Nhà tù khổ sai An Nam : những tù nhân chính trị cuối cùng bị lưu đày ở Guyane”
Điều gì đã thôi thúc bà thực hiện cuốn sách này ?
Christèle Dedebant : Điều khiến tôi quan tâm nghiên cứu chủ đề này, đó là khoảng cách giữa Guyane và Đông Dương, đưa người đi đày đến một nơi hoàn toàn xa lạ, cách hơn 17 000 km. Tôi thấy đó là điều không tưởng. Hơn nữa, bối cảnh lịch sử, vào năm 1931, khi những tù nhân Việt bị đưa đến Guyane, đó cũng là thời điểm huy hoàng của đế quốc thực dân Pháp. Tất cả chỉ được phép rời đi mãi cho đến năm 1963. Trong 30 năm đó, thế giới đã thay đổi, và nhất là quan hệ giữa Việt Nam và Pháp.
Do đó, tôi đã đặt câu hỏi về số phận của những tù nhân này, họ đã trải qua chuyện gì. Họ bị đưa khỏi Việt Nam đến Guyane dưới thân phận những tù nhân của xứ thuộc địa, không phải là công dân Pháp. Số phận của họ ra sao khi các nhà tù bị dỡ bỏ. Dĩ nhiên là các câu trả lời khá phức tạp bởi vì một số đã ở lại Guyane, một số trở về Việt Nam, một số khác thì đến Pháp sinh sống.
Trong cuốn sách, bà nêu ra những hiện thực tàn bạo của chế độ thực dân, để lại những vết sẹo vẫn còn hiện hữu cho đến nay. Trong quá trình viết ra cuốn sách này, có điều gì mới được phát hiện ra khiến bà bị bàng hoàng trước hiện thực lịch sử hay không ?
Christèle Dedebant : Có rất nhiều chuyện khiến tôi bị sốc. Đầu tiên là một ý tưởng dã man trong tư tưởng thuộc địa, là ý định đưa 528 tù nhân đến lưu đày cách xa nhà hàng ngàn km để khai hoang một vùng lãnh thổ còn rộng hơn cả Irland. Đối với tôi đó là một ý tưởng điên rồ, đày những tù nhân xa xứ đến khai khai hoang vùng Amazon và họ không có ai tiếp sức hỗ trợ. Nhiều người trong số họ đã bỏ mạng vì bệnh ho gà, hay khó thích ứng với khí hậu. Kế hoạch này rõ ràng là thất bại. Mặc dù những người được gọi là dân An Nam, lại là những tù nhân được đối đãi tử tế nhất so với những người đến từ Bắc Phi hay các tù nhân Pháp, vì được coi là những người tiên phong, khai hoang đất đai.
Thêm vào đó, tất cả các nhà tù đều áp dụng luật kép, tức là khi các tù nhân đã mãn án tù, nhưng lại không thể trở về nước và phải ở lại Guyane để bổ sung dân số vốn ít ỏi ở Guyane, để tiếp tục khai hoang lãnh thổ này.
Trong những chương cuối của cuốn sách, bà đề cập đến số phận của những cựu tù nhân chính trị, lựa chọn trở về nước, nhưng lại bị chính quê hương chối bỏ. Lập trường của Việt Nam lúc đó cũng không rõ ràng. Các bài viết của nhà báo Danh Đức trên báo Tuổi Trẻ và về nhà tù An Nam ở Guyane, thu thập lời chứng của nhiều cựu tù nhân chính trị, chỉ ra sự nghi ngờ với những cựu tù nhân này, và mối liên hệ thực sự với Việt Nam Quốc Dân Đảng. Các bài báo về nhà tù người Việt ở Guyane cuối cùng đã bị kiểm duyệt vào năm 2008. Bà có lý giải nào về điều này được không ?
Christèle Dedebant : Lập trường của chính phủ Việt Nam không khác nhiều so với các nước khác khi phải đối diện với câu hỏi có nên tiếp nhận những người tị nạn đã bị lưu đày biệt xứ trong 3 thập kỷ hay không. Bởi không ai rõ họ đã trở thành người như thế nào trong suốt quãng thời gian đó. Ban đầu, khi bị bắt đem đi, họ là những người dân tộc chủ nghĩa, một số là quan chức cấp cao trong Việt Nam Quốc Dân Đảng, ví dụ như ông Bằng mà tôi nêu trong cuốn sách. Tất cả đều theo Cộng Sản, họ đều tôn thờ Hồ Chí Minh.
Có một chi tiết khiến nhà xuất bản của tôi chú ý là vào năm 1932, có thông tin là Hồ Chí Minh qua đời, tang lễ của lãnh đạo Cộng sản Việt đã được tổ chức trong chính nhà tù. Nhưng cuối cùng họ biết được thông tin đó không xác thực.
Ở Guyane, gần như không có sự bất đồng nào giữa các phe phái, và họ không đủ đông đảo để làm điều đó. Một số được trả tự do trở về Việt Nam vào những năm 1950-1960, thế nhưng lại không nhận được sự tiếp đón như họ mong đợi, mà bị nghi ngờ.
Đó là một chuyện đáng buồn vì họ bị cả hai phe vứt bỏ. Nhưng tôi cho rằng trong thời chiến, đó là điều thường xảy ra. Trong cuốn sách, tôi có đề cập đến trường hợp của ông Yến. Vào những năm 70, ông Yến đã được yêu cầu làm gián điệp nhưng không chấp nhận làm việc đó. Tuy nhiên, những cựu tù nhân như ông có thể bị coi là những kẻ chỉ điểm.
Để viết lại câu chuyện lịch sử này một cách hoàn chỉnh nhất, bà đã dành nhiều năm tìm kiếm tư liệu từ cả kho lưu trữ của Pháp đến những bài báo bằng tiếng Việt. Lý do mà bà viết cuốn sách này là gì ? Đâu là thông điệp mà bà muốn gửi cho độc giả ?
Christèle Dedebant : Trong quá trình tìm kiếm, tôi đã gặp được con cháu của những tù nhân này ở Guyane, mà thông thường họ không muốn nói về xuất thân của cha mẹ vì đó là một câu chuyện nhiều đau thương và phức tạp. Đôi khi chính cha mẹ họ cũng không muốn nhắc đến và muốn lật sang trang mới. Những tù nhân bị đày đến Guyane, đa số không phải là những kẻ tội phạm nguy hiểm mà chỉ là những tội danh nhỏ, và cũng có nhiều chính trị gia, trong đó có gia đình của ông Yến, tự hào là một người phản chiến chống lại chế độ thuộc địa.
Đó là những người đến từ Đông Dương, ở Guyane, chẳng ai có thể phát âm tên họ một cách rõ ràng, thậm chí viết sai tên, người ta không biết họ tên gì. Con cháu họ thường không nói tiếng Việt nữa. Cuốn sách mà tôi viết là mong muốn trao lại một mảnh ký ức cho những người đó.
Về phía Pháp, theo bà, cho đến nay, Paris nhìn nhận lịch sử thuộc địa ở Đông Dương như thế nào ?
Christèle Dedebant : Nhìn chung, tại Pháp, ký ức về chiến tranh Algérie đã lấn át những phần lịch sử khác. Đối với Pháp, tôi cho rằng chiến tranh Đông Dương chỉ là một cuộc chiến xa xưa dù nhiều chuyện kinh hoàng đã xảy ra. Nhiều người lính được điều đến chiến đấu ở Đông Dương, sau đó đã bị thuyên chuyển đến Algérie.
2024 là năm kỷ niệm 70 năm trận Điện Biên Phủ và cuốn sách mà tôi viết, trên thực tế chỉ là một yếu tố bị lãng quên. Những tù nhân này đã bị lãng quên trong một cuộc chiến bị cho vào quên lãng.
Nhiều người đã hỏi tôi rằng, tại sao tôi không có nguồn gốc Việt Nam, cũng không phải từ hải ngoại, tại sao tôi lại quan tâm đến câu chuyện của những tù nhân này. Theo tôi câu trả lời rất đơn, giản, đó là lịch sử thuộc địa, lịch sử của nước Pháp.
***
Xin cảm ơn bà Christèle Dedebant, tiến sĩ lịch sử đương đại, nhà báo của tạp chí Geo, tác giả của cuốn “Le bagne des Annamites : Les derniers déportés politiques en Guyane”- tạm dịch là “Nhà tù khổ sai An Nam : những tù nhân chính trị cuối cùng bị lưu đày ở Guyane”, nhà xuất bản Actes Sud.
Tháng 05/2024, cựu thủ tướng Anh Rishi Sunak đã gửi lời xin lỗi công khai đến người dân vì một bê bối truyền máu nhiễm bệnh, khiến hàng chục nghìn người nhiễm HIV và viêm gan C. Một bê bối từ những năm 70, 80 của thế kỷ trước, mà chính ông Sunak cũng phải thừa nhận rằng đó là “sự suy thoái đạo đức kéo dài hàng thập kỷ trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe” của chính phủ Anh.
Sự thật được phơi bày sau nhiều thập kỷBê bối bắt đầu từ những năm 1970-1980 tại Anh khi có hàng ngàn người cần truyền máu. Những người này được chia thành hai nhóm chính, một là những bệnh nhân thiếu máu trong quá trình phẫu thuật, trong các điều trị y tế, hay những phụ nữ vừa sinh con…
Nhóm thứ hai là những người mắc bệnh máu khó đông, một căn bệnh di truyền do thiếu hụt Yếu tố VIII hoặc IX, những yếu tố cần thiết cho quá trình tạo cục máu đông. Theo hãng tin AP, vào đầu những năm 1970, các bác sĩ đã phát hiện ra một phương pháp điều trị mới, được gọi là Yếu tố đông máu 8 (Factor VIII) và được ca tụng là phương thuốc kỳ diệu. Đây là loại thuốc được tách ra từ huyết tương người, do vậy cần một số lượng lớn nguồn cung huyết tương để sản xuất. Nhu cầu sớm vượt quá nguồn cung trong nước, vì vậy các quan chức y tế Anh đã bắt đầu nhập khẩu huyết tương từ Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, điều đáng nói là lý lịch của những người hiến máu gây nhiều lo ngại vì vào thời điểm đó, Yếu tố VIII được lấy từ máu của hàng chục ngàn người hiến tại Hoa Kỳ. Những người này hiến máu để kiếm tiền. Họ thường là tù nhân, những người làm nghề mại dâm hoặc những người nghiện. Chính điều này làm tăng đáng kể nguy cơ huyết tương bị nhiễm bệnh, mà chỉ cần một người hiến máu bị nhiễm bệnh thì toàn bộ lô sản phẩm đều sẽ bị nhiễm bệnh theo.
Theo ước tính từ cuộc điều tra kéo dài 6 năm mà chính phủ của thủ tướng Theresa May ra lệnh tiến hành năm 2017, hơn 30.000 người đã nhiễm virus viêm gan C hoặc HIV qua truyền máu hoặc do điều trị bằng Yếu tố VIII. Hơn 3000 người chết và hàng chục nghìn người phải sống chung với bệnh tật. Nhiều người còn lây sang gia đình và người thân của mình. Thẩm phán Brian Langstaff, người đứng đầu cuộc điều tra về bê bối “máu bẩn”, đã tố cáo rằng thảm hoạ này hoàn toàn “không phải một tai nạn” mà bắt nguồn từ sự tác trách, coi thường tính mạng của người dân. Giới chức Anh lúc đó đã bỏ qua các cảnh báo nguy hiểm, bỏ qua các phương pháp sàng lọc và xử lý nguồn máu vì lý do kinh tế, bỏ qua cả các quy tắc đạo đức.
Sai lầm nối tiếp sai lầm. Sau khi phát hiện ra những ca nhiễm HIV và viêm gan C do được truyền máu, chính phủ của cố thủ tướng Magaret Thatcher thời điểm đó, những người phải chịu trách nhiệm chính cho vụ việc này, thay vì dừng lại, nhận lỗi và sửa sai thì lại cố gắng che đậy, đưa thông tin sai sự thật đến người dân và tiêu huỷ các bằng chứng. Để rồi hơn 50 năm sau, người dân Anh mới được nhận lời xin lỗi công khai đầu tiên tới từ chính phủ Rishi Sunak. Đáng tiếc là hàng ngàn nạn nhân đã không còn sống để được nghe lời xin lỗi mà họ vẫn mong chờ.
“Vô hại”“Vô hại” là những gì mà chính phủ nói với công chúng. Theo nhật báo Anh The Guardian, tháng 11/1983, cựu bộ trưởng y tế Ken Clarke đã mạnh mẽ khẳng định trước báo giới rằng “không có bằng chứng thuyết phục” nào cho thấy HIV có thể lây truyền qua đường máu và nguy cơ virus viêm gan C gây bệnh là “rất thấp và không nghiêm trọng”. Để công chúng thêm tin tưởng, các bộ trưởng cũng liên tục nhắc lại rằng người dân Anh “đang nhận được sự điều trị tốt nhất hiện có”. Báo cáo điều tra của thẩm phán Langstaff còn chỉ ra rằng các bác sĩ cũng đóng góp một phần không nhỏ công sức vào việc lừa dối người dân. Các bác sĩ không những không thông báo cho bệnh nhân những nguy cơ tiềm ẩn trước khi bệnh nhân tham gia điều trị mà thậm chí cả khi những người này đã nhiễm virus HIV hay viêm gan C, các bác sĩ cũng che giấu thông tin về nguyên nhân và tình trạng bệnh của họ, dẫn đến những chậm trễ trong việc tiếp cận điều trị chuyên khoa.
“Vô trách nhiệm”“Vô trách nhiệm” là những gì công chúng nói về họ. Họ ở đây là chính phủ Anh thời điểm đó, và cụ thể hơn là Hệ thống Y tế Quốc gia Anh (National Health Service - NHS). Nhiệm vụ chủ đạo của cơ quan này là chăm sóc, nâng cao sức khoẻ cho người dân, ưu tiên và tôn trọng sinh mạng của bệnh nhân. Thế nhưng họ đã làm gì? ...
Họ làm ngơ trước những hiểm hoạ mà họ biết rõ. Theo đài BBC và tờ The Guardian của Anh, ngay từ những năm 1930, người ta đã biết rõ rằng việc truyền máu có thể làm lây nhiễm nhiều loại bệnh chết người. Virus gây ra bệnh viêm gan C đã xuất hiện ít nhất từ giữa những năm 1970, còn việc lây truyền HIV qua đường máu thì đã được giới khoa học xác nhận vào năm 1982.
Không chỉ vậy, họ còn biết rằng việc nhập khẩu máu và các chế phẩm máu thương mại sản xuất tại Mỹ mang nhiều rủi ro và ít an toàn hơn so với các phương pháp điều trị trong nước. Vào giữa những năm 1970, một giáo sư đã cảnh báo rằng các sản phẩm máu này được lấy “100% từ những người vô gia cư ở các khu vực tồi tàn”, trong khi đó Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) kêu gọi các quốc gia tự chủ về nguồn máu để bảo đảm an toàn. NHS cũng tiến hành tăng quy mô của các bể chứa để sản xuất Yếu tố VIII dù biết như vậy có thể làm tăng đáng kể nguy cơ lây truyền virus.
Biết rõ là vậy nhưng giới chức y tế nước này đã không có những biện pháp cần thiết để bảo vệ người dân. Họ không những không đình chỉ việc nhập khẩu các sản phẩm máu thương mại từ Mỹ, mà cũng chẳng kiểm soát việc phân phối chúng. Việc triển khai xét nghiệm virus HIV và viêm gan C trong các sản phẩm máu được hiến cũng bị trì hoãn. Chính phủ cũng không đầu tư nghiên cứu các phương pháp làm bất hoạt virus, chẳng hạn như qua xử lý nhiệt.
Họ làm ngơ trước tính mạng của người dân. Dù tôn chỉ hành động là “tôn trọng mọi sinh mệnh, không phân biệt đối xử, luôn mang lòng trắc ẩn và sự tử tế” nhưng NHS đã sử dụng các học sinh khuyết tật tại trường Treloar's College như những con chuột bạch để thử nghiệm Yếu tố VIII. Vẫn theo báo cáo điều tra năm 2017, từ năm 1974 đến 1987, 122 đứa trẻ mắc bệnh máu khó đông (haemophilia) đã được điều trị tại ngôi trường này bằng phương pháp mới, một thứ phương pháp “kỳ diệu” khiến ít nhất 72 trong số này tử vong. Họ đa phần đều chết vì nhiễm HIV và các loại virus viêm gan A, B, C.
“Vô vọng”“Vô vọng” có lẽ là cảm giác mà những nạn nhân của bê bối này phải chịu đựng. Theo chân thông tín viên RFI Emeline Vin tại Anh, chúng ta sẽ cùng lắng nghe câu chuyện của chính những nạn nhân và người nhà của họ.
Rất nhiều người đã chết, trong đó có Collin Smith :
“Collin Smith là nạn nhân nhỏ tuổi nhất bị nhiễm bệnh. Cậu bé được chẩn đoán nhiễm Sida ngay trước sinh nhật năm hai tuổi. Mái tóc vàng và khuôn mặt tinh nghịch, cậu bé đã mất năm 1990, khi mới chỉ 7 tuổi. Bố mẹ của Collin cho biết :
“Trước khi chết, thằng bé rất gầy, nó chỉ còn da bọc xương. Khi đó nó nặng 6 kg, chỉ nặng hơn đứa trẻ mới sinh một chút. Hai tháng cuối dường như kéo dài vô tận với chúng tôi. Chúng tôi rất tuyệt vọng. Chẳng đêm nào chúng tôi ngủ được. Ít nhất bây giờ chúng tôi đã đủ dũng cảm để nhắc về thằng bé. Collin có tính cách rất đặc biệt. Là một đứa trẻ vui vẻ, thằng bé lúc nào cũng tươi cười, nó thường hay trêu chọc mọi người.”
Với những nạn nhân đã qua đời, nỗi đau để lại cho người thân, gia đình của họ. Vậy những người may mắn vẫn sống sót thì sao?
Vào những năm 80, Bob Naylor đã được truyền máu trong một cuộc phẫu thuật và đã bị nhiễm virus viêm gan C từ đó. Bob cho biết : “Tôi thường xuyên cảm thấy không khoẻ. Cảm giác mệt mỏi, uể oải khủng khiếp. Mỗi lần tôi đi ngủ, chân tôi lại bắt đầu bị chuột rút và co thắt. Tôi đau bụng và đau lưng, những cơn đau này chẳng bao giờ biến mất. Một hôm cô y tá đã nói với tôi rằng : Bob, anh biết không, cả đời này anh sẽ phải gặp chúng tôi. Tôi hỏi vì sao thì cô ấy trả lời : Gan của anh đã bị tổn hại nên anh sẽ luôn phải đi viện kiểm tra. Anh sẽ phải lấy máu 6 tháng một lần, siêu âm 6 tháng một lần, làm xét nghiệm Fibroscan 2 đến 3 năm một lần. Anh đã bị suy gan cấp tính.”
Không chỉ có những nỗi đau về thể xác, tinh thần của nạn nhân cũng bị khủng hoảng nghiêm trọng.
“Vào thời điểm đó, những người nhiễm HIV đều bị kỳ thị. Tại một thành phố nhỏ ở xứ Wales, Robert đã phải chịu sự phân biệt đối xử vì bị Sida. Anh cho biết : “Tôi đã kể việc mình bị nhiễm HIV cho chị gái mình và ngay sáng hôm sau, tất cả mọi người đều biết. Trên tường nhà của chúng tôi bị sơn chữ “Gia đình SIDA”. Cửa nhà thì bị vẽ chữ X. Gia đình tôi nhận được hàng tá cuộc điện thoại yêu cầu gửi tôi ra một hòn đảo hoang. Chúng tôi đã phải bỏ trốn, như thể là tôi đã giết người vậy. Thậm chí trong gia đình tôi, có người còn nói với con cái họ rằng đừng động vào đĩa của Robert, đừng động vào cốc của Robert. Nếu chính gia đình mình còn chẳng thể cảm thông với mình thì sao tôi có thể trông đợi là những người lạ ngoài kia sẽ hiểu cho tôi.”
“Vô tội”Nếu nạn nhân cảm thấy vô vọng thì những người chịu trách nhiệm chính trong vụ việc này cảm thấy gì? Có thể họ cảm thấy mình “vô tội”. Ta cần quay lại vụ bê bối tương tự, diễn ra tại Pháp vào cùng khoảng thời điểm trên. Theo Viện Nghe nhìn Quốc gia Pháp (INA), khi đứng trước toà vào tháng 01/1992, cựu bộ trưởng phụ trách các vấn đề xã hội, bà Georgina Dufoix, vẫn không can tâm và phát biểu một câu “đi vào lịch sử” rằng : “Tôi cảm thấy mình có trách nhiệm nhưng không cảm thấy mình có tội.”
Dù chưa khảng khái trả lời như cựu bộ trưởng Dufoix tại Pháp, nhiều người vẫn tự hỏi rằng phải chăng giới chức Anh lúc đó cũng đã không cảm thấy tội lỗi. Vì nếu thấy có tội, thấy cắn rứt lương tâm, họ đã đứng ra chịu trách nhiệm, họ sẽ không để người dân phải chờ tới vài thập kỷ mà vẫn chưa nhận được lời xin lỗi. Xin nhắc lại rằng lời xin lỗi hồi tháng 05/2024 đến từ cựu thủ tướng vừa miễn nhiệm Rishi Sunak, chứ hoàn toàn không đến từ những quan chức trong chính phủ Anh thời điểm đó, những người trực tiếp đứng sau thảm hoạ này.
Có lẽ trong bê bối này, từ “vô tội” chỉ được dành cho những nạn nhân, những người đã chết, đã nhiễm bệnh vì tin tưởng vào các bác sĩ, vào hệ thống y tế quốc gia, vào chính phủ. “Vô tội” cũng là những học sinh khuyết tật của trường Treloar’s College thời điểm đó, những đứa trẻ được đem ra làm thí nghiệm.
Điều đáng ngạc nhiên ở bê bối máu bẩn là nó không chỉ xảy ra ở Anh, mà còn ở rất nhiều nước khác trên thế giới, từ Pháp, Nhật Bản đến Trung Quốc. Dù quy mô của thảm hoạ khác nhau, nhưng điểm chung của tất cả các bê bối này là các quan chức thời điểm đó đã làm việc tắc trách và không tôn trọng tính mạng của người dân.
Năm 2023, bất chấp lạm phát, khủng hoảng kinh tế, người dân Pháp vẫn duy trì lòng hảo tâm, đóng góp cho các tổ chức thiện nguyện, dù là tổ chức giúp đỡ những người có hoàn cảnh khó khăn, hỗ trợ trẻ em, giáo dục hay nghiên cứu y khoa, chăm sóc động vật … Dẫu có những người do hạn hẹp về tài chính đã phải cắt giảm các khoản quyên tặng, nhưng bên cạnh đó cũng có nhiều người giàu có tích cực đóng góp hơn.
Để hiểu thêm về tình hình quyên góp cho các tổ chức thiện nguyện, vừa qua, RFI Tiếng Việt đã có cuộc trao đổi với bà Nadège Rodriguez, giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités. Đây là nghiệp đoàn chuyên nghiệp của các hiệp hội và tổ chức kêu gọi lòng hảo tâm của người dân Pháp, năm 2024 quy tụ khoảng 150 tổ chức, được xem là những tổ chức phục vụ lợi ích chung của cộng đồng.
RFI : Xin chào Nadège Rodriguez. Bà là giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités. Xin bà giải thích cho thính giả, độc giả của đài RFI Tiếng Việt biết liệu trong thời gian qua, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế, lạm phát, liệu người dân Pháp có còn hào phóng và nhiệt tình quyên góp tiền cho các hiệp hội và quỹ thiện nguyện ?
Nadège Rodriguez : Tôi xin giải thích là chúng tôi dựa vào các nghiên cứu thường niên có tên gọi Thước đo lòng hảo tâm của người Pháp năm 2023, năm có tỉ lệ lạm phát cao, lên đến 4,9%. Chúng tôi nhận thấy là số tiền người Pháp hảo tâm quyên tặng tăng 2,1% tính theo trị giá đồng euro hiện tại. Đối với chúng tôi, đây là một điều đáng nói trong bối cảnh khả năng chi tiêu của người Pháp đã bị giảm sút. Thông tin mới này không tệ như chúng tôi lo nghĩ ban đầu.
Giải thích điều này thế nào ư? Tại sao người Pháp vẫn tiếp tục lòng hảo tâm trong khi tài chính hạn hẹp hơn ư ? Vâng, đúng là có nhiều người mong muốn quyên tặng tiền cho các tổ chức. Dựa vào một cuộc khảo sát khác liên quan đến những người Pháp có thể đã quyên tặng nhiều hơn trong năm nay, lý do chính của họ là trong họ có niềm tin là họ giúp đỡ được người khác và mong muốn được giúp đỡ mọi người, mong muốn giúp đỡ những hiệp hội đang gặp khó khăn.
Với tình trạng bất bình đẳng gia tăng mạnh, có nhiều người cần được các tổ chức này hỗ trợ hơn, và trong bối cảnh lạm phát này, các tổ chức cũng phải gánh chịu tình trạng chi phí gia tăng, họ phải đương đầu với nhiều khó khăn. Và người dân Pháp đã nghe và thấu hiểu những lời kêu gọi giúp đỡ của các hiệp hội, tổ chức, họ mong muốn đóng góp, nên ai có khả năng thì họ quyên tặng nhiều hơn cho các tổ chức này. Nhờ vậy mà chúng tôi ghi nhận tỉ lệ quyên góp từ thiện tăng.
RFI : Theo các nghiên cứu của France Générosités, ai là những người tích cực đóng góp từ thiện nhất tại Pháp ? Sự tăng hay giảm quyên góp tiền thì liên quan chủ yếu đến nhóm người nào tại Pháp ?
Nadège Rodriguez : Có lẽ tôi xin trả lời câu hỏi thứ hai của chị trước. Quả thực, trong bối cảnh lạm phát, chúng ta nên xem xét một chút về số tiền quyên tặng. Về năm 2023, chúng tôi quan sát thấy có sự sụt giảm số khoản quyên tặng dưới 150 euro, số khoản quyên tặng dưới 50 euro thậm chí còn giảm mạnh hơn.
Chúng tôi thấy có một mối liên hệ chặt chẽ ở đây, nhất là chúng tôi đã dựa vào các cuộc khảo sát, và thấy là những người bị ảnh hưởng nhiều hơn về sức mua đã không thể quyên góp, họ tạm thời ngừng quyên góp. Hoặc có nhiều hiệp hội cần lòng hảo tâm nên họ phải quyết định đưa ra lựa chọn. Như vậy, những người có điều kiện tài chính khiêm tốn nhất cuối cùng đã ngừng đóng góp tiền hoặc quyên góp ít hơn nhiều. Nhưng phần chệnh lệch này cũng đã được bù đắp, bởi lòng hảo tâm của những người ít chịu ảnh hưởng hơn từ những cuộc khủng hoảng liên tiếp xảy ra và hào phóng hơn, nhờ đó số tiền quyên góp đã tăng lên. Và nếu quan sát các khoản tiền quyên góp nói chung thì chúng tôi thấy mỗi năm chúng ngày càng tập trung vào những nhóm người giàu có nhất. Con số mà hiện giờ chúng tôi có là 1% những nhà hảo tâm hào phóng nhất quyên tặng tới 22% tổng số tiền. Thật không may là có ngày càng nhiều người, do khả năng chi tiêu giảm sút, đã không thể quyên góp tiền.
RFI : Theo bà thì đâu là những hiệp hội, quỹ, tổ chức nhận được nhiều tiền quyên tặng nhất? Và hoạt động thiện nguyện nào nhận được nhiều sự ủng hộ nhất?
Nadège Rodriguez : Câu hỏi này khá khó trả lời bởi vì đáp án thay đổi tùy theo từng cuộc khảo sát, tùy theo câu hỏi được đặt ra. Chúng tôi hàng năm cứ vào tháng 03 thì cũng tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến cùng với Viện Ifop. Câu hỏi chúng tôi đặt ra : « Đâu là những hoạt động thiện nguyện mà quý vị cho rằng cần được ưu tiên nhất ? ». Và từ 10 năm nay, khi đặt câu hỏi này với người dân Pháp, chúng tôi thấy rằng hoạt động được ưu tiên nhiều nhất là giúp đỡ và cứu trợ trẻ em.
Tiếp theo đó, theo khảo sát năm 2023, hoạt động được ưu tiên thứ hai là bảo vệ động vật. Hoạt động này từ nhiều năm nay đã vươn lên top đầu và hiện giờ thì nằm ở vị trí thứ 2. Nhưng cách nay 10 năm thì nó không thu hút được nhiều lòng hảo tâm như thế đâu. Xu hướng này khá là mới. Từ 3-4 năm nay, chúng tôi quan sát thấy mọi người quan tâm nhiều hơn đến việc giúp đỡ các tổ chức bảo vệ động vật. Đứng ở vị trí thứ 3 là tài trợ nghiên cứu y học. Đây là một lĩnh vực thu hút được rất nhiều tiền quyên tặng, chúng tôi đặc biệt ghi nhận những nhà tài trợ cao tuổi nhất. Tôi xin nói một chút như vậy về 3 lĩnh vực mà theo mọi khảo sát thì đều nằm trong số 2-3 lĩnh vực ưu tiên hàng đầu của người dân Pháp.
RFI : Vậy người Pháp hào phóng nhất vào những dịp nào ? Trong những năm qua, sự kiện nào thu hút được nhiều nhà hảo tâm nhất ?
Nadège Rodriguez : Trong nghiên cứu thường niên, chúng tôi đều tìm hiểu về điều này, từ 20 năm nay rồi. Quý 3 tháng cuối năm tập trung 41% tổng số tiền quyên góp của người dân Pháp. Có nhiều điều xảy ra vào cuối năm và tháng 12 thực sự là tháng người Pháp tham gia quyên góp nhiều, thực sự là năm nào cũng vậy. Trái lại, quả thực là mỗi năm chúng tôi cũng tìm hiểu cả theo bối cảnh. Và thật không may, ngày càng có nhiều cuộc khủng hoảng cứ nối tiếp nhau, đòi hỏi có lòng hảo tâm của mọi người để đối phó với khủng hoảng, một cách nhanh chóng, khẩn trương và với sự huy động tích cực của các tổ chức để khẩn cấp giúp đỡ những người đột ngột bị tác động.
Về những năm qua, chắc là tôi cũng không cần phải nhắc lại cuộc khủng hoảng Covid. Nhưng đúng là khủng hoảng Covid rất mạnh, mang tính toàn cầu. Tại Pháp, đã có 111 cuộc phát động các chiến dịch quyên góp lớn vào thời điểm đó. Đúng là năm 2020 cũng là năm mà số tiền quyên tặng lên đến đỉnh rất cao, cho dù khủng hoảng chỉ bắt đầu từ tháng 03/2020. Chúng tôi đạt mức quyên góp cao nhất vào thời điểm đó và tiền quyên tặng còn được bổ sung thêm trong suốt cả năm. Nhưng thật không may là cuộc khủng hoảng bùng nổ ở Ukraina vào tháng 03/2022. Chúng tôi cũng đã kêu gọi quyên góp để giúp đỡ người dân Ukraina và đỉnh điểm là số tiền chúng tôi nhận được đã chiếm tới 4-5% tổng số tiền quyên được hàng năm.
Rồi thì trận động đất kinh hoàng năm 2023 ở Thổ Nhĩ Kỳ vào tháng 02, động đất ở Maroc vào tháng 09 cũng làm tăng bùng phát số tiền quyên tặng một cách đột xuất. Người dân Pháp đã muốn giúp đỡ, đã huy động tiền bạc để quyên góp giúp đỡ mọi người. Trong những đợt kêu gọi quyên góp khẩn cấp, thì đó là những thời điểm huy động sự hào phóng, lòng hảo tâm của người Pháp đã được truyền thông loan báo rộng rãi và người Pháp đã đáp lại. Điều này thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái và cam kết của người Pháp trong việc cứu giúp những người cần sự trợ giúp nhất.
RFI Tiếng Việt : Nadège Rodriguez, là giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités, vậy theo quan sát của bà, các hình thức quyên tặng liệu có những thay đổi theo thời gian ? Có những xu hướng mới nào ? Và đâu là những hình thức quyên góp được ghi nhận nhiều nhất ?
Nadège Rodriguez : Không thể phủ nhận là sự xuất hiện mạnh mẽ của công nghệ số trong đời sống của tất cả mọi người cũng đã ảnh hưởng đến cách thức liên hệ và kêu gọi lòng hảo tâm. Đơn cử một con số, hồi năm 2019, hình thức quyên góp trực tuyến mới chỉ chiếm 20%. Nhưng chỉ 4 năm sau, đến năm 2023, con số này đã tăng lên thành 30%. Theo các phân tích xu hướng thì tăng 10% chỉ trong khoảng thời gian ngắn như vậy là rất nhiều đấy. Và vào thời phong tỏa (chống dịch Covid-19) thì xu hướng này lại càng tăng nhanh nếu so với việc sử dụng công nghệ số trong cuộc sống hàng ngày và để thanh toán.
Về phía các tổ chức vì lợi ích chung, họ cũng biết cách đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cách giao tiếp, liên lạc và kêu gọi quyên tặng với mọi kỹ thuật có được nhờ công nghệ số. Đây thực sự là một cuộc cách mạng diễn ra mạnh mẽ, một sự tăng tốc chuyển đổi nhanh chóng các phương thức quyên góp.
RFI Tiếng Việt : Chúng ta đều biết là ủng hộ các hoạt động thiện nguyện không chỉ là cho tặng tiền, mà ví dụ còn là góp thời gian, phương tiện vật chất hay sức lực, công sức. Vậy người Pháp có tích cực tham gia vào các hoạt động tình nguyện vì cộng đồng như vậy hay không ?
Nadège Rodriguez : Về câu hỏi này, thì quả thực cũng đã có 1 nghiên cứu về tình đoàn kết, tương thân tương ái, được tiến hành hàng năm liên quan đến hoạt động tình nguyện của người Pháp. Chúng tôi ước tính rằng hiện nay có 16 triệu tình nguyện viên trong các hiệp hội, còn tính tổng thể thì con số này là 20 triệu. Như vậy là rất nhiều. Nếu so với con số 5 triệu hộ gia đình quyên tặng tiền thì số tình nguyện viên như vậy là đông hơn số người quyên tặng tiền.
Và xu hướng mà chúng tôi quan sát thấy là có sự tích cực cống hiến thời gian, đồng thời cũng có sự thay đổi. Thường thì đó là những người cao tuổi, có nhiều thời gian và cống hiến thời gian đều đặn, tuần nào họ cũng thường xuyên dành thời gian cho các hiệp hội. Thế rồi dịch Covid-19 đã khiến thói quen này thay đổi nhanh chóng. Không phải người lớn tuổi nào cũng đều trở lại sau thời gian phong tỏa chống dịch, và công việc của họ được những người trẻ tuổi tiếp quản. Và chúng tôi thực sự thấy rằng có một sự nhiệt tình, một sự tham gia mạnh mẽ và được thúc đẩy nhanh chóng trong giới trẻ để cống hiến thời gian cho các tổ chức vì lợi ích chung của cộng đồng. Nhưng họ làm theo cách khác những người đi trước. Sự đóng góp, cống hiến thời gian của họ mang tính bột phát nhiều hơn. Điều này đòi hỏi các tổ chức phải kêu gọi, huy động tình nguyện viên. Và hoạt động tình nguyện là điều cần thiết để triển khai sứ mệnh của các tổ chức này. Các tổ chức phải tiến hóa, thích ứng với những thay đổi trong cách tham gia hoạt động tình nguyện của người Pháp.
RFI Tiếng Việt : Về phía các tổ chức, hiệp hội, theo bà thì đâu là những thách thức lớn nhất trong tương lai ? Đối với bà, điều gì là đáng lo ngại nhất ?
Nadège Rodriguez : Tôi xin nói đến những hiệp hội và quỹ kêu gọi lòng hảo tâm, tức là hoạt động với mô hình kinh tế, theo đó tiền quyên góp là nguồn chính để họ tiếp tục thực hiện các sứ mệnh vì lợi ích chung. Thách thức lớn là phải dự báo, chuẩn bị trước và tìm nguồn thay thế cho những người vốn là những nhà hảo tâm từ lâu năm và nay đã cao tuổi. Hiện nay, độ tuổi trung bình của những người hảo tâm hay quyên góp là 62 tuổi, cao nhất là 75 tuổi. Đối với những người trong độ tuổi 35-55, chúng tôi biết rằng khó vận động họ đóng góp hơn. Đó là nhóm người ít quyên góp nhất.
Như tôi đã nói ở trên, việc quyên góp tập trung nhiều ở nhóm người ít bị tác động nhất bởi các cuộc khủng hoảng xảy ra liên tiếp, tức là nhóm những người giàu có nhất. Chính vì thế, cần phải tìm kiếm vận động những người đến nay vẫn ít quan tâm đến việc quyên tặng và cũng cần nói chuyện thêm với những người trẻ tuổi để họ phát huy sự hào phóng. Đó thực sự là thách thức, bởi vì tôi cũng xin nhắc lại là chúng ta đang ở trong bối cảnh mà ngày càng có nhiều người cần được giúp đỡ, hỗ trợ, những người bắt đầu lâm vào cảnh ít nhiều bấp bênh và các tổ chức thiện nguyện mong muốn giúp đỡ. Ngày càng có nhiều người cần được giúp đỡ và không may là chúng tôi cũng có nhiều mối lo, tài trợ công thì cũng bị giảm. Vậy nên, nếu các tổ chức này muốn tiếp tục vận hành hàng ngày thì họ phải vượt qua được những thách thức đó.
RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn bà Nadège Rodriguez, giám đốc nghiên cứu và truyền thông của France Générosités đã tham gia chương trình hôm nay !
Tại cuộc triển lãm công nghệ Vivatech ở Paris cuối tháng 5/2024, bao trùm lên hết là trí tuệ nhân tạo ( Artificial intelligence - AI ), với vô số các ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực. Đặc biệt trí tuệ nhân tạo được sử dụng ngày càng nhiều trong việc cải thiện cuộc sống của những người tàn tật, trong đó có người mù và khiếm thị.
Nhờ những tiến bộ của trí tuệ nhân tạo (AI), các công nghệ hỗ trợ bằng giọng nói giờ đây trở nên hiệu quả hơn bao giờ hết, giúp người mù và người khiếm thị vượt qua những trở ngại đang hạn chế họ.
Chẳng hạn như công ty Israel Orcam, được thành lập năm 2010, đã phát triển một loại camera mang trên Orcam MyEye, với giá khoảng hơn 2.000 euro, gắn trên mắt kính, với ứng dụng trí tuệ nhân tạo để giúp cho người mù và người khiếm thị hiểu được các văn bản và xác định được các vật thể nhờ giọng nói mô tả những gì mà họ không nhìn thấy được.
Tại Triển lãm Điện tử Tiêu dùng CES ở Las Vegas, Hoa Kỳ, đầu năm nay, công ty khởi nghiệp Lumen của Rumani đã giới thiệu một loại mắt kính có thể thay thế chó dẫn đường. Công nghệ này sử dụng các cảm biến, tai nghe để hướng dẫn người mù, người khiếm thị. Khi phát hiện một thứ gì đó đang chặn đường, tai nghe sẽ rung ở bên phải hoặc bên trái để hướng dẫn đổi hướng. Có 6 camera và sử dụng trí tuệ nhân tạo, loại mắt kính này coi như mô phỏng các đặc điểm chính của chó dẫn đường.
Bên cạnh đó còn có những trợ lý giọng nói, chẳng hạn như Siri, Google Assistant và Amazon Alexa, có thể đáp lại các lệnh thoại, cung cấp thông tin theo thời gian thực và thậm chí thực hiện các nhiệm vụ cụ thể. Do đó, đối với người khiếm thị và mù, những trợ lý giọng nói này trở thành người bạn đồng hành kỹ thuật số cho phép họ truy cập thông tin.
Trong việc hỗ trợ người mù và người khiếm thị, người ta cũng sử dụng ngày càng nhiều những chatbots, tức là những chương trình trí tuệ nhân tạo được thiết kế nhằm mô phỏng lại các cuộc trò chuyện với người dùng thông qua nền tảng internet. Các chatbot đó được thiết kế đặc biệt để đáp ứng nhu cầu của người khiếm thị và người mù. Các chatbot này sử dụng giao diện giọng nói và văn bản để cho phép giao tiếp liền mạch. Họ có thể hiểu và trả lời các câu hỏi, đưa ra lời khuyên, hỗ trợ. Sử dụng trí thông minh đàm thoại, các chatbot được điều chỉnh này được cá nhân hóa và dễ tiếp cận cho những người khiếm thị và người mù.
Chính là theo chiều hướng này mà một ê kíp ở vùng Paris đã phát triển một loại điện thoại với ứng dụng chatbot dành riêng cho người mù và người khiếm thị. Điện thoại hiện được bán với giá khoảng gần 385 euro, cộng thêm tiền thuê bao mỗi tháng 12 euro.
Nói chung, trí thông minh nhân tạo với chức năng đàm thoại đang cách mạng hóa khả năng tiếp cận cho người khiếm thị và người mù. Nhờ công nghệ hỗ trợ giọng nói, họ trở nên độc lập hơn và hòa nhập xã hội tốt hơn.
Nhưng những sáng chế về trí thông minh nhân tạo hỗ trợ cho người mù và người khiếm thị không chỉ dừng ở đó. Có mặt tại triển lãm VivaTech cuối tháng 5/2024, công ty khởi nghiệp Biped.ai, trụ sở tại Lausanne, Thụy Sĩ, đã giới thiệu một sản phẩm mang tên NOA, một dây nịt được trang bị thiết bị định vị GPS và máy tính kết hợp với trí tuệ nhân tạo tổng hợp để phát hiện chướng ngại vật cho người mù và khiếm thị.
Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm Vivatech, đại diện của công ty Biped.ai, kỹ sư tin học Paul Prevel, cho biết:
“Công ty của chúng tôi đã được thành lập từ 3 năm nay và chúng tôi đã bỏ ra 2 năm để nghiên cứu phát triển NOA, huy động 250 người thử nghiệm beta. Năm nay, chúng tôi bước vào giai đoạn thương mại hóa, chuẩn bị mở thị trường Hoa Kỳ, châu Âu và Úc. Sản phẩm sẽ được bán với giá 4.300 euro. Mục đích là tạo một giải pháp với giá cả dễ tiếp cận hơn.
Dĩ nhiên là ở mỗi nước chúng tôi sẽ làm việc với các nhà phân phối để sản phẩm được hoàn trả một phần hay toàn bộ, tùy theo quy định của các nước. Ở Pháp, các cơ quan cấp tỉnh đặc trách về những người tàn tật sẽ hoàn trả đến 65% giá mua sản phẩm.”
Nói là dây nịt nhưng thật ra NOA là một dây đai đeo trên vai, với camera góc rộng ở bên trái ngực, một máy tính nhỏ ở bên phải và một pin phía sau cổ. Nhờ trí tuệ nhân tạo, NOA xác định các mối nguy hiểm, hướng dẫn và mô tả môi trường xung quanh người sử dụng. Toàn bộ dây nịt nặng chưa tới 1 kg.
Tham vọng của những người sáng lập công ty khởi nghiệp Biped là tạo ra một sự đổi mới có thể thay đổi cuộc sống của những người mù, người khiếm thị và có thể giúp họ tự khám phá những địa điểm mới, hoàn toàn an toàn và tự chủ. Ý tưởng là phát triển một “phi công phụ” lấy cảm hứng từ phương tiện tự hành, có khả năng đọc văn bản, nhận diện khuôn mặt, phát hiện các lối qua đường dành cho người đi bộ và cung cấp khả năng điều hướng khi di chuyển bên trong các tòa nhà.
Công ty khởi nghiệp này đã hợp tác với viện nghiên cứu Honda. Sản phẩm cùng tên của họ tự quảng cáo là “dây nịt phát hiện các chướng ngại vật đang đến gần và cung cấp hướng dẫn GPS, tất cả trong một, kèm theo phản hồi bằng âm thanh”. Các mô hình nhận dạng đối tượng bằng thuật toán xác định chướng ngại vật (tĩnh hoặc chuyển động) và dự đoán rủi ro va chạm. Người dùng được thông báo bằng tín hiệu âm thanh qua tai nghe Bluetooth.
Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm Vivatech, kỹ sư tin học Paul Prevel giải thích thêm:
“ NOA có 3 chức năng. Chức năng thứ nhất là dẫn đường, làm sao đưa người mù tới một điểm đến mới. Chức năng thứ hai là phát hiện các chướng ngại vật, những vật thể mà “gậy trắng”, tức là gậy trang bị cho người mù không thể phát hiện được, chẳng hạn như những vật ngang đầu hay những hố mà “gây trắng” không thể dò được. Chức năng thứ ba là vận dụng trí tuệ nhân tạo, mô tả bằng giọng nói những gì mà camera thấy được.
Ứng dụng dẫn đường chủ yếu dùng thiết bị định vị GPS, nhưng trên đường đi, trí tuệ nhân tạo sẽ được sử dụng những khi phải băng qua đường, hướng dẫn người mù đến làn dành cho người đi bộ, bấm nút để chờ đèn xanh. Hệ thống sau đó sẽ hướng dẫn đi như thế nào để lúc nào cũng ngay giữa lối đi, có đông người đi không, có xe nào dừng kế bên không. Camera sẽ thu thập tất cả những thông tin ba chiều chung quanh người mù để cảnh báo là có một cái hố hay một cây cột trên đường, hay có một người đi từ phía trước đến.
Khi tới điểm đến dự kiến, hệ thống sẽ hướng dẫn đến cửa vào tòa nhà, cửa có mở hay không, cầu thang nằm ở đâu.”
Lý tưởng nhất là dây nịt này bổ sung cho gậy hoặc chó dẫn đường cho người mù và người khiếm thị. Giải pháp NOA cũng có thể được áp dụng cho thế giới việc làm, hỗ trợ những người mù và người khiếm thị làm công việc hàng ngày trong công ty của họ. Về lâu dài, những người đồng sáng lập Biped hy vọng công nghệ của họ thậm chí sẽ có thể giúp người dùng chạy hoặc thậm chí trượt băng.
Trên toàn thế giới có hơn 300 triệu người khiếm thị và 40 triệu người bị mù hoàn toàn. Giải pháp của biped.ai có tiềm năng trở thành giải pháp cứu mạng nhiều người: bằng cách kết hợp xử lý tín hiệu và thị giác bằng máy tính tiên tiến, biped.ai có thể cung cấp thông tin chi tiết nhanh hơn tới 10 lần so với các “đối thủ” cạnh tranh.
Giải pháp NOA cũng bắt đầu được ứng dụng trong hệ thống giao thông công cộng ở Thụy Sĩ. Từ tháng 6 năm nay, trên tuyến tàu điện ngầm M2 ở Lausanne, một tổ hợp gồm công ty Biped.ai, TL (Giao thông công cộng vùng Lausanne) và SME Urbagestion phát triển một giải pháp di chuyển độc đáo trên thế giới: hành trình hoàn toàn tự động đầu tiên dành cho người mù tới một điểm đến mới. Theo Maël Fabien, giám đốc và người đồng sáng lập công ty Biped.ai, dự án này "nhằm chứng minh rằng người mù có thể đến một cuộc hẹn mà không cần biết trước lộ trình”.
Trên thực tế, mục tiêu là điều chỉnh phát minh này cho phù hợp với điều kiện giao thông công cộng và bên trong các tòa nhà, nơi tín hiệu GPS không đi qua được.
Đầu tháng 06/2024, thông tin về vụ bê bối gian lận của ngành sản xuất xe hơi Nhật Bản lan tràn trên khắp các mặt báo. Hàng loạt các hãng xe lớn bị réo tên, từ Toyota, Honda, Mazda, Yamaha đến Suzuki.
Lãnh đạo các doanh nghiệp cũng ngay lập tức tham gia họp báo và gửi lời xin lỗi đến khách hàng. Thoạt nghe, nhiều người không khỏi hoan nghênh tinh thần dám nhận sai và dám sửa sai của các công ty. Nhưng chỉ khi đi vào phân tích hàm ý sâu xa của mỗi lời xin lỗi, người ta mới thấy đằng sau những cái cúi đầu nhận lỗi lại là văn hóa đổ lỗi của các doanh nghiệp.
Toàn cảnh vụ bê bối gian lậnVụ bê bối bắt đầu bị phanh phui từ cuối tháng 12 năm 2023 khi một hội đồng độc lập đã tiến hành điều tra các vấn đề an toàn liên quan đến 64 mẫu xe của Daihatsu. Theo hội đồng này, Daihatsu, công ty con của Toyota đã gian lận trong các cuộc kiểm tra an toàn va chạm bên hông được thực hiện với 88.000 chiếc xe, hầu hết được bán dưới tên Toyota. Nhưng sau đó, theo Reuters, đi sâu vào điều tra, hội đồng này tiết lộ rằng phạm vi của vụ bê bối đi xa hơn nhiều so với những gì họ ước tính trước đó và phát hiện ra là Daihatsu đã làm giả hồ sơ kiểm tra an toàn va chạm từ những năm 1980 như kiểm tra kích hoạt hệ thống túi khí.
Đây cũng chính là điểm khởi đầu cho một loạt điều tra sau đó của chính phủ Nhật nhắm vào các doanh nghiệp sản xuất ô tô của nước này. Theo trang Nikkei Asia, bộ Giao Thông Nhật Bản đã yêu cầu 85 công ty trong lĩnh vực sản xuất xe hơi và phụ tùng tự điều tra về những bất thường trong những đăng ký chứng nhận mẫu xe của họ. Sau yêu cầu trên, 5 công ty sản xuất xe hơi lớn của Nhật bao gồm Toyota, Honda, Mazda, Yamaha, Suzuki đã thừa nhận có những sai sót trong quá trình sản xuất. Bộ đã ra lệnh cho các công ty này tạm dừng vận chuyển các mẫu xe liên quan cho đến khi xác nhận chúng đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng quốc gia.
Theo tổng hợp từ tờ Japan Times và kênh BFM TV, những gian lận trên bao gồm :
- Toyota: gửi dữ liệu sai lệch trong các cuộc thử nghiệm bảo vệ người đi bộ, sửa đổi gian lận phương tiện thử nghiệm
- Mazda: viết lại phần mềm điều khiển động cơ trong quá trình thử nghiệm xuất xưởng, gian lận sửa đổi xe thử nghiệm trong quá trình thử nghiệm va chạm
- Yamaha: Các cuộc kiểm tra tiếng ồn được thực hiện trong điều kiện kiểm tra không phù hợp đối với một mẫu xe hiện đang được sản xuất và trình bày sai kết quả kiểm tra còi đối với hai mẫu xe đã sản xuất trước đó.
- Honda: khẳng định sai về kết quả kiểm tra độ ồn của 22 mẫu xe sản xuất trước đó.
- Suzuki: khai báo sai trong báo cáo thử nghiệm hệ thống phanh của mẫu ô tô đã sản xuất trước đó.
Các doanh nghiệp chân thành xin lỗi …Đứng trước cơn bão lớn sắp ập đến, mà theo Reuters có khả năng “làm hoen ố hình ảnh các công ty” hay theo NHK có thể “làm lung lay niềm tin của khách hàng”, các nhà sản xuất Nhật đã có một lựa chọn khôn ngoan : thừa nhận trách nhiệm và xin lỗi khách hàng. Theo dõi buổi họp báo của các tập đoàn, thông tín viên RFI, Bruno Duval tại Nhật Bản tường thuật :
“Họ cúi gập người từ 65 tới thậm chí là 90 độ. Cái cúi đầu thật lâu, tưởng như sẽ kéo dài vô tận. Quy tắc ở đây là thế. Khi bạn mắc lỗi chỉ xin lỗi thôi là không đủ. Đặc biệt là trong trường hợp này, khi ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản, với gần 6 triệu nhân công, đã chứng kiến vụ gian lận có hệ thống và rộng khắp.”
Đầu tiên phải kể tới Akio Toyoda, chủ tịch tập đoàn Toyota, thương hiệu xe hơi hàng đầu Nhật Bản. Trang tin NHK trích lời ông Toyoda, cho biết : “Với tư cách là người đứng đầu tập đoàn Toyota, tôi xin gửi lời xin lỗi chân thành tới các khách hàng, những người yêu xe và tất cả các bên liên quan.” Khi được hỏi về nguyên nhân của những sai phạm này, ông Sato Koji, tổng giám đốc Toyota, trả lời rằng điều này bắt nguồn từ khâu trao đổi giữa ban giám đốc và các công nhân trong nhà xưởng. Cụ thể, theo báo Pháp Les Echos, những người quản lý đã không đủ khả năng hiểu toàn bộ và theo dõi các chi tiết về những công việc tại xưởng sản xuất. Đồng thời, công nhân phải chịu áp lực vì ngành công nghiệp sản xuất xe hơi đang ngày càng cạnh tranh. Để tránh cho tình trạng tái diễn, công ty sẽ cải thiện trao đổi thông tin giữa ban giám đốc và các công nhân, xây dựng một hệ thống quản lý chặt chẽ hơn, chỉ định một “giám sát viên nội bộ” chuyên trách về vấn đề thử nghiệm.
Tương tự như vậy, giám đốc điều hành tập đoàn Mazda Masahiro Moro cho biết : “Cả công ty chúng tôi sẽ nỗ lực để ngăn chặn những sự cố như vậy xảy ra lần nữa bằng cách giải quyết các vấn đề được phát hiện trong cuộc điều tra này và sẽ nỗ lực hết sức để khôi phục niềm tin của mọi người đối với chúng tôi”. Còn tổng giám đốc tập đoàn Honda, Tochihiro Mibe thì trả lời : “Chúng tôi rất coi trọng vấn đề này … Chúng tôi xin lỗi sâu sắc” và sau đó cúi đầu thật thấp. Tóm lại, điểm chung trong câu trả lời của các lãnh đạo doanh nghiệp là : rất xin lỗi và hứa sẽ nỗ lực ngăn chặn những sự cố tương tự.
“Lỗi sai” chứ không phải là “sai phạm”Dù vậy những lời xin lỗi này vẫn bị nhiều người coi là chưa đủ thuyết phục. Nhiều tờ báo như Capital hay La Tribune đã phân tích rằng các doanh nghiệp chỉ thừa nhận có “lỗi sai” chứ không phải là “sai phạm” như những gì bộ trưởng Đất đai, Hạ tầng, Giao Thông và Du lịch Nhật Bản Tetsuo Saito đã khẳng định. Cụ thể trong buổi họp báo ông Saito cho biết : “Thật vô cùng đáng tiếc khi tiếp tục phát hiện thêm những hành vi sai phạm. (…) Các hoạt động gian lận liên quan đến việc chứng nhận các mẫu xe đã làm suy yếu niềm tin của người dùng và làm lung lay nền tảng hệ thống các quy tắc chứng nhận an toàn xe.” Tưởng như là đồng nghĩa, nhưng những từ như “lỗi sai” hay “sai sót” dễ khiến người nghe hiểu rằng đây là những hành động vô ý, trong khi từ “sai phạm” hay “gian lận” như bộ trưởng Giao Thông sử dụng đã chỉ rõ tính chủ đích của các hành động này. Và liệu có thể nói rằng việc khai báo sai trong báo cáo thử nghiệm hay thay đổi điều kiện thử nghiệm là các hành động “không cố ý”?
Nhận lỗi rồi lại đổ lỗiTiếp tục đi vào phân tích những lời xin lỗi của các doanh nghiệp, thông tín viên Bruno Duval cho biết :
“Chúng ta có thể thấy ngành công nghiệp xe hơi Nhật Bản vẫn đang phủ nhận và tự biện minh chứ không phải hối lỗi. Trên thực tế có sự tương phản rất lớn giữa một bên là tư thế cúi gập người của các giám đốc, một bên là những “yếu tố ngôn ngữ” trong lập luận của họ. Họ cho rằng “đó là câu chuyện đã cũ” vì 32 trên tổng số 38 mẫu xe bị ảnh hưởng không còn được bán trên thị trường.”
Lập luận này khiến cho người nghe dễ quên đi rằng 6 mẫu xe còn lại vẫn đang hàng ngày được giao tới tay người tiêu dùng. Những mẫu xe này đa phần được đưa vào tiêu thụ tại thị trường Đông Nam Á như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Cam Bốt và Việt Nam cùng một vài nước Trung và Nam Mỹ như Mêhicô, Ecuador, Peru, …
Ngoài ra, theo thông tín viên Duval, các chủ doanh nghiệp còn khẳng định :
“Chúng tôi là những người chuyên nghiệp”. Nói cách khác: các nhà sản xuất biết rõ hơn ai hết cách thiết kế, sản xuất và thử nghiệm xe. Ngụ ý: vấn đề ở đây là các tiêu chí chứng nhận chính thức của quốc gia. Chúng đã lỗi thời (có từ năm 1951), không phù hợp với tốc độ sản xuất và quá cứng nhắc. Kết luận: chúng ta phải sửa đổi các tiêu chí này để tránh gây bất lợi cho các nhà sản xuất Nhật Bản so với đối thủ cạnh tranh nước ngoài.”
Theo trang Nikkei, quả thực hãng xe Toyota tự đưa ra những tiêu chuẩn đôi khi còn cao hơn so với tiêu chuẩn quốc gia. Chẳng hạn như để kiểm tra nguy cơ rò rỉ nhiên liệu trong trường hợp va chạm từ phía sau, Toyota đã sử dụng một xe đẩy nặng 1.800 kg, trong khi đó tiêu chuẩn pháp lý chỉ là 1.100 kg. Tuy nhiên, một vài tiêu chuẩn cao hơn, vậy còn các tiêu chuẩn khác của Toyota thì sao? Có lẽ không nên đánh đồng rằng tất cả các tiêu chí của Toyota đều nghiêm ngặt hơn chuẩn quốc gia. Và chính chủ tịch Toyota cũng không thể phủ nhận là đã bỏ qua và/hoặc làm giả một số tiêu chuẩn để xe được lăn bánh. Càng đáng nói hơn là những điều này chỉ được thừa nhận sau khi có sự vào cuộc của chính quyền. Vậy nếu không bị tố giác, các doanh nghiệp sẽ che đậy những thông tin này đến khi nào? Họ sẽ giao đến cho khách hàng những chiếc xe được gắn mác “đạt chuẩn quốc gia” đến khi nào?
Từ lâu, các sản phẩm đến từ Nhật Bản vẫn luôn chiếm được niềm tin của người tiêu dùng Việt. Không chỉ các sản phẩm mới mà cả những sản phẩm đã qua sử dụng, hay thường được gọi là hàng Nhật bãi, cũng được nhiều gia đình tin tưởng. Vậy nhưng sau nhiều vụ bê bối như thép Kobe hay dược phẩm Kobayashi, và giờ lại tới các hãng xe hơi, nhiều người không khỏi hoài nghi về chất lượng và uy tín của các thương hiệu Nhật. Đối mặt với sự cạnh tranh gắt gao từ những thị trường mới nổi hay những sản phẩm giá rẻ của Trung Quốc, người tiêu dùng hy vọng các nhà sản xuất của Nhật Bản không bị cuốn vào vòng xoáy này và quên đi những giá trị cốt lõi đã được gây dựng từ bao năm nay.
Tại triển lãm VivaTech 2024 ở Paris ( 22 - 25/05/2024 ), triển lãm lớn nhất châu Âu về các công nghệ mới, bao trùm lên hết vẫn là trí tuệ nhân tạo (AI), một công nghệ được sử dụng ngày nhiều trong mọi lĩnh vực, trong đó có y tế. Đặc biệt, trí tuệ nhân tạo đang dần dần trở thành một đồng minh đắc lực trong cuộc chiến chống ung thư tại những quốc gia có nền y khoa tiên tiến như Pháp.
Một số công ty công ty khởi nghiệp của Pháp đã không bỏ lỡ cơ hội VivaTech để giới thiệu các giải pháp dùng AI hỗ trợ chẩn đoán ung thư. Chẳng hạn như công ty Hope Valley AI đang phát triển hình ảnh y khoa để phát hiện ung thư vú dựa trên siêu âm và trí tuệ nhân tạo để sàng lọc hiệu quả hơn và sớm hơn.
Bà Hakima Berdouz, đồng sáng lập công ty Hope Valley AI, cho biết: “Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng một số lượng đáng kể bệnh nhân được phát hiện mắc bệnh ung thư vú trước đây có các triệu chứng rất nhẹ và không thể nhìn thấy được. Mặc dù cứ tám phụ nữ thì có một người mắc bệnh ung thư vú trong suốt cuộc đời, nhưng căn bệnh này được điều trị tốt và có thể chữa khỏi ở chín trên mười ca. Nhưng mỗi ngày vẫn có 33 phụ nữ chết vì căn bệnh này ở Pháp và gần 1.800 người trên toàn thế giới.”
Tại triển lãm VivaTech năm nay, công ty khởi nghiệp còn rất trẻ này đã giới thiệu phiên bản đầu tiên của ứng dụng điện thoại thông minh giúp phát hiện sớm các tín hiệu yếu về các bất thường ở vú, báo trước bệnh ung thư. Ứng dụng này nhằm mục đích nâng cao nhận thức và hướng dẫn phụ nữ, nhờ vào AI đàm thoại, để tự kiểm tra lâm sàng lần đầu tiên. Ứng dụng sẽ được ra mắt chính thức trong chiến dịch nâng cao nhận thức về bệnh ung thư vú mang tên “Tháng Mười Hồng” ( Octobre rose )
Tham vọng của Hope Valley AI là ứng dụng điện thoại thông minh của họ phải là viên gạch đầu tiên để phát triển “thuốc ngừa siêu cá nhân hóa”. Thứ hai sẽ là “hệ thống chụp nhũ ảnh của tương lai”. Không giống như các thiết bị hiện tại, “Mammope” đang được chuẩn bị sẽ không sử dụng tia X mà sử dụng hệ thống hình ảnh đa phương thức (siêu âm, đo nhiệt độ hồng ngoại, thị giác máy tính) và sẽ sử dụng trí tuệ nhân tạo.
Cũng trong lĩnh vực chống ung thư, tại VivaTech 2024, có một công ty khởi nghiệp khác là Primaa, một công ty công nghệ y khoa do hai chị em Marie, Fanny Sockeel và người anh họ Stéphane Sockeel thành lập năm 2018. Các sáng lập viên một người là bác sĩ, một người là nhà khoa học dữ liệu và một người là nhà kinh doanh.
Công ty này cung cấp các giải pháp chẩn đoán các bệnh ung thư để có thể đề ra phương pháp điều trị thích ứng hơn và tăng cơ hội phục hồi cho bệnh nhân. Chính xác hơn, Primaa chuyên về lĩnh vực gọi là giải phẫu bệnh học ( anapathologie ). Hiện nay, công ty này đang tiếp thị sản phẩm của họ cho các bệnh viện và phòng xét nghiệm ở Châu Âu và đang chuẩn bị mở rộng thị trường sang Mỹ.
Trả lời RFI Việt ngữ tại triển lãm VivaTech, cô Fanny Sockeel, đồng sáng lập viên công ty Primaa, giải thích:
“Giải phẫu bệnh học là giai đoạn ngay sau khi chụp X quang, là lúc mà chúng ta có thể chẩn đoán các bệnh ung thư và các bệnh hiểm nghèo khác. Khi chụp X quang, chúng ta có thể nhận biết một khối u và có thể đánh giá sơ bộ đó là u lành tính hay u ác tính. Nhưng ở giai đoạn này chúng ta chưa biết chắc chắn đó có phải là ung thư hay không, và nếu đúng là ung thư, thì mức độ nguy hiểm thế nào và đã phát triển đến đâu, và nhất là không nắm được những dấu ấn sinh học ( biomarker ) của khối u để có thể vạch ra hướng điều trị thích ứng.
Cách duy nhất để biết được là làm sinh thiết ( biopsie ), tức là lấy một mẫu mô từ khối u để bác sĩ chuyên khoa bệnh lý học phân tích. Chính bác sĩ chuyên khoa này chẩn đoán bệnh và đề ra phương pháp điều trị.
Từ các hình ảnh y khoa mà chúng tôi gọi là những “dương bản được số hóa”, chúng tôi phát triển một phần mềm trí tuệ nhân tạo dựa trên các cơ sở dữ liệu của chúng tôi để hỗ trợ các bác sĩ chẩn đoán một cách toàn diện và nhanh chóng.”
Như cô Fanny Sockeel có nói ở trên, để có thể hỗ trợ chẩn đoán, phần mềm trí tuệ nhân tạo của Primaa phải dựa vào những cơ sở dữ liệu. Cụ thể đó là những cơ sở dữ liệu nào, đại diện công ty giải thích:
“ Chúng tôi làm việc với rất nhiều cơ sở dữ liệu của Pháp và của châu Âu, bằng cách mua hoặc thiết lập các đối tác. Mục tiêu của chúng tôi là có được một cơ sở dữ liệu càng rộng và càng đồng nhất càng tốt, để phần mềm của chúng tôi thật hiệu quả, có thể phân tích mọi loại dữ liệu, hình ảnh scanner. Hiện nay công ty chúng tôi có cơ sở dữ liệu lớn nhất châu Âu, nhờ vậy mà chúng tôi có thể thiết kế và “huấn luyện” một phần mềm có khả năng phát hiện rất cao, dù đó là dữ liệu đó đến từ đâu.”
Như vậy công ty Primaa hỗ trợ như thế trong tiến trình chẩn đoán và điều trị bệnh nhân ung thư, bà Fanny Sockeel cho biết thêm:
“Chúng tôi hỗ trợ bác sĩ giải phẫu học trong việc chẩn đoán ung thư và một khi việc chẩn đoán được đầy đủ, tức là có đủ các dấu hiệu sinh học, bác sĩ này hội chẩn với các bác sĩ chuyên khoa khác, như khoa ung thư, khoa X quang, khoa di truyền học …, để cùng nhau đề ra phương pháp điều trị ung thư, chủ yếu dựa trên các dữ liệu của bác sĩ giải phẫu học.
Hiện nay chúng ta có rất nhiều phương pháp điều trị ung thư, không chỉ có giải phẫu, hóa trị, mà còn có điều trị bằng hormone ( hormonothérapie ), điều trị bằng kháng thể ( immunothérapie ), hay điều trị thích ứng với từng bệnh nhân, những phương pháp chỉ áp dụng cho một số loại bệnh nhân đặc biệt. Chính là với những loại bệnh nhân rất chuyên biệt này mà phần mềm trí tuệ nhân tạo tỏ ra rất hiệu quả, cụ thể là phát hiện rất chính xác những dấu hiệu sinh học, nhờ vậy mà chẩn đoán tốt hơn và từ đó đề ra phương pháp điều trị thật sự thích ứng với tình trạng của bệnh nhân.”
Có thể nói công nghệ trí tuệ nhân tạo đang mở ra rất nhiều triển vọng, hỗ trợ chẩn đoán ngày càng nhiều bệnh ung thư, theo lời cô Fanny Sockeel:
“Phạm vi nghiên cứu rất là lớn. Hiện giờ chúng tôi đã hoàn tất phần mềm trí tuệ nhân tạo hỗ trợ chẩn đoán ung thư vú và ung thư da và đang phát triển thêm công cụ để hỗ trợ chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt và ung thư cổ tử cung cho những năm tới. Đó là hướng đầu tiên.
Hướng thứ hai là nghiên cứu về dự báo, tức là không chỉ dựa trên cách chẩn đoán cổ điển, mà tìm ra những nhân tố mới có thể cho tới nay không được chú ý đến, vì bác sĩ chưa nhìn thấy mối liên hệ giữa những yếu tố đó. Lợi thế to lớn của công nghệ trí tuệ nhân tạo là có thể dựa trên những cơ sở dữ liệu rất dồi dào để tìm ra những phân khúc ung thư mà cho tới nay chưa được biết. Đó chính là tiềm năng của trí tuệ nhân tạo trong việc chẩn đoán ung thư.”
Tại Paris, Viện Curie đã đi đầu việc tạo ra công cụ dựa trên trí tuệ nhân tạo có khả năng xác định nguồn gốc của những căn bệnh ung thư đặc biệt nguy hiểm, với tỷ lệ thành công rất cao. Nói cách khác, trí tuệ nhân tạo có khả năng phát hiện nguồn gốc của một số bệnh ung thư với độ chính xác và tốc độ cao hơn nhiều so với các nhà chuyên môn, có thể giúp điều chỉnh các phương pháp điều trị tốt hơn và do đó tăng tỷ lệ sống sót của hàng ngàn người Pháp mỗi năm.
Công cụ AI đầy hứa hẹn này phần lớn chính là nhờ công lao của bà Sarah Watson, vừa là bác sĩ chuyên khoa ung thư, vừa là nhà nghiên cứu tại Viện Curie. Bà Watson chủ yếu nghiên cứu về các khối u hiếm gặp, trong đó có các khối u gọi là “ung thư chưa rõ nguyên phát” (cancers de primitifs inconnus - CPI).
Trên kênh truyền hình Pháp BFMTV ngày 13/11/2023, bác sĩ Sarah Watson giải thích: “CPI là bệnh ung thư xuất hiện ở giai đoạn di căn, tức là có những tổn thương ở những vị trí khác nhau trên cơ thể, nhưng chúng tôi không biết những di căn này đến từ đâu. Vấn đề là ngày nay trong ngành ung thư, chúng ta không điều trị ung thư ban đầu xuất phát từ vú, đại tràng, thận, v.v. với cùng một phương pháp.”
Vì vậy, nếu không biết nguồn gốc của bệnh ung thư thì không thể điều trị chính xác được và hiệu quả sẽ bị ảnh hưởng. Bác sĩ Sarah Watson nhấn mạnh: “Chúng tôi mất rất nhiều thời gian để cố gắng xác định khối u nguyên phát. Các bệnh nhân mắc loại ung thư này có thời gian sống chưa đầy một năm kể từ khi được chẩn đoán”.
Để cải thiện việc chăm sóc các ca ung thư CPI (khoảng từ 6.000 đến 7.000 bệnh nhân mỗi năm ở Pháp), bác sĩ Sarah Watson quyết định sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo. Nhà nghiên cứu của Viện Curie dựa trên giả thuyết: “Có lẽ các đặc điểm phân tử của những di căn này vẫn giữ lại những dấu hiệu đặc biệt về nguồn gốc mô của chúng”. Nói cách khác, các di căn phân bố khắp cơ thể có lưu giữ, trên “thẻ căn cước” di truyền của chúng, một dấu vết cụ thể về khu vực xuất phát của chúng.
Vậy điều này có thể giúp định vị nó và từ đó điều trị ung thư tận gốc không? Để nghiên cứu theo hướng này, Viện Curie, hợp tác với các chuyên gia từ một số trung tâm khác ở Pháp, đã “huấn luyện” một phần mềm chuyên trách nhiệm vụ duy nhất: nhận biết nguồn gốc của ung thư từ chuỗi RNA của các khối u được lấy sinh thiết ( biopsie ).
Công cụ AI này đã được thử nghiệm trên khoảng 50 khối u vốn không thể xác định được nguồn gốc bằng các công cụ thông thường. Bác sĩ Sarah Watson cho biết: “Trong hơn 80% trường hợp, AI có thể cho chúng tôi biết mô gốc với tỷ lệ chính xác rất cao. Những bệnh nhân mà chúng tôi có thể xác định được mô gốc có thời gian sống sót cao gấp ba lần so với những bệnh nhân trong trường hợp ngược lại”.
Nằm giữa hành trình vắt ngang hay bờ biển đầy những danh thắng miền nam nước Ý, Matera là một điểm dừng chân không thể bỏ lỡ của du khách. Cùng với Pompei bên bờ Tây vùng Campanie, nhà hát Hy lạp cổ đại Syracuse trên đảo Sicile, Matera góp mặt vào những địa danh cổ xưa nhất của lịch sử các nền văn minh cổ đại hàng ngàn năm trước trên vùng đất này.
Được mệnh danh là “cái nôi của nhân loại” bởi các di chỉ khảo cổ cho thấy dấu vết sinh sống liên tục của người tiền sử trải suốt từ cuối thời đồ đá cũ đến thời kỳ đồ đá mới, thành phố thuộc Basilicata này là 1 trong 3 thành phố cổ đại nhất trên trái đất, cùng với Alep của Syria và Jéricho ở Cisjordanie. Những dấu vết người tiền sử trong hang đá vẫn còn giữ được đến ngày nay trong các hang sâu dưới lòng thành phố.
Một trong 3 ngôi làng có niên đại cổ nhất thế giớiNếu mới liếc qua vài bức hình quảng bá du lịch, du khách không thể hình dung ra ngôi làng thực tế lại khác hoàn toàn với tưởng tượng khi xem ảnh! Trong hình, Matera hiện ra giống như nhiều ngôi làng dựng trên đỉnh một ngọn đồi cao, nhìn từ xa đã thấp thoáng chóp nhà thờ cao vút, các nếp nhà lô xô thoải dần xuống chân đồi. Nhưng thực tế lại khác xa, nên Matera còn hay được gọi là “điểm đến gây kinh ngạc”! Như trò đùa, khách thăm quan lần theo bản đồ, khu thành phố cổ dường như ngay bên cạnh họ, nhưng xung quanh bằng phẳng, chẳng nhìn thấy ngọn đồi hay đỉnh tháp nào cả! Bước thêm vài bước, qua những vòm cong khiêm tốn, đến bên một lan can nhỏ… ta mới hiểu vì sao Matera lại đáng kinh ngạc đến vậy. Trải ra trước mắt là cả một lòng chảo sâu hút, lớn gấp mấy lần đấu trường Colisée, và cả ngôi làng kỳ vĩ gọt đẽo trong vách đá vôi, sừng sững toạ lạc dưới chân du khách!
Những ngôi nhà chồng chất lên nhau, những cầu thang thoắt ẩn thoắt hiện, như một bức tranh đánh lừa thị giác. Thêm vào đó, sự khép kín trong lòng vách đá và sự điệp màu đá khối của Matera làm nó mang một sự đồng nhất đáng kinh ngạc và một nét bí ẩn, xưa cũ đặc biệt.
Khu thành cổ đồ sộ với kiểu nhà ở đào sâu vào trong hang đá này mang tên Sassi, khởi đầu là những hang khai thác đá vôi, sau chuyển thành nơi ở. Trong các ngôi nhà dạng mái vòm thấp này, ngay cả chỗ nằm nghỉ, vách ngăn, bàn ăn, bếp lò hay băng ghế ngồi, đều được đẽo gọt từ vách đá. Vì địa hình đá vôi không thể giữ thảm nước ngầm, người dân và các thầy tu từ xa xưa đã đào một khu hang động chứa nước mưa lớn, với sức chứa 5 triệu mét khối nước, mang tên Palombaro Lungo, và đưa nước về giữa khu dân cư thông qua hệ thống những đường kênh đào dẫn nước trong lòng núi đá. Quần thể đô thị này còn đặc biệt giá trị khi quy tụ hơn 150 nhà thờ, tu viện cổ đại xây tạc trong vách đá bởi các thầy tu Byzantin từ thế kỷ VIII. Khách tham quan có thể được chiêm ngưỡng những bức tranh tường lớn mang nội dung tôn giáo vẫn còn được lưu giữ trong những nhà thờ này.
Từ đô thị thịnh vượng thành khu ổ chuộtMảnh đất này chính thức được định danh Matheola, dưới thời cai trị của Đế chế La Mã vào năm 251 trước Công nguyên. Matera đặc biệt phát triển thịnh vượng trong khoảng thế kỷ thứ X do nằm trên trung điểm của các con đường giao thương nối hai bờ biển Adriantique và Tyrrhénienne. Ngôi thành này lần lượt nằm dưới sự cai trị của các nền văn minh từ Lombards, Byzantins, Normands, qua đến Ả Rập rồi sang đế chế Ottoman đến sự chiếm đóng của người Aragon (Tây Ban Nha) vào thế kỷ XV. Vì vậy, nơi đây chứng kiến nhiều văn hóa đến từ nhiều dân tộc đa dạng, cũng như biết bao đổi rời, từ hưng thịnh đến suy tàn.
Khôi phục lại vị thế, trở thành thủ phủ của vùng Basilicata vào thế kỷ XVI, Matera bắt đầu xây dựng rộng ra phần bờ vách phía trên, chia cắt dần dần thành hai khu vực : giới trung lưu tư sản ở khu Civita phía trên, nông dân, dân nghèo sống chật chội trong những khu nhà sassi cổ dưới vách núi. Khu vực này không được đầu tư chăm sóc, dần bị đẩy ra bên lề. Tình trạng quá tải dân cư làm điều kiện sống ở đây đã không được cải thiện, lại ngày càng xuống cấp tệ hại. Hậu quả của việc không có sự tác động lớn nào trong suốt nhiều thế kỷ, là khu vực này trở nên lạc hậu trong thời đại mới. Đến tận đầu những năm 50 của thể kỷ XX, những người dân cư ngụ tại đây vẫn phải sống trong điều kiện ở như thời Trung Cổ: không có đường điện, nước sinh hoạt, nước thải thoát thẳng ra cống lộ thiên. Với dân cư quá tải trầm trọng, kiến trúc nhà ở như những hang động đào sâu trong núi khiến thông thoáng kém, bệnh dịch tràn lan và vệ sinh không đảm bảo. Tỉ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh vượt ngưỡng 40%, bệnh lao phổi, sốt rét phổ biến, thêm vào đó là nạn mù chữ tăng cao. Khu nhà ở này trở thành một khu ổ chuột khổng lồ bị bỏ lại bên rìa xã hội.
Một trong nhiều cây bút đã viết miêu tả về sự khốn cùng chứng kiến tại Matera, nhà văn, nhà báo Carlo Levi, và đồng thời là chính trị gia Ý, đã viết trong tiểu thuyết hồi ký nổi tiếng của mình, “Chúa Kito đã dừng lại ở Eboli”: “tôi liếc nhìn vào trong những ngôi nhà chỉ được chiếu sáng và lấy thoáng qua cửa vào. Một số thậm chí còn không có cả cửa vào, bạn vào nhà từ trên nóc, qua một nắp lật để xuống thang. (..) Mỗi gia đình có 1 cái hang duy nhất là nơi diễn ra mọi sinh hoạt, người lớn phụ nữ, trẻ con và động vật đều ngủ cùng nhau.(..) Hai mươi ngàn người sống như vậy. Những người phụ nữ với những đứa trẻ suy dinh dưỡng và bẩn thỉu bám trên bộ ngực khô héo, chào đón tôi bằng sự tử tế buồn bã và cam chịu : tôi tưởng như, dưới ánh mắt trời lóa mắt này, lạc vào giữa một thành phố đang bị dịch hạch hoành hành”. Cùng với sự thành công của cuốn sách, sự thật về Matera bị phơi bày, như tác giả so sánh “như Địa ngục của Danté”. Các nhà chức trách Ý thời bấy giờ coi Matera và khu nhà ở Sassi như “nỗi hổ thẹn của nước Ý”!
Từ nỗi xấu hổ thành niềm tự hào của nước Ý
Vào năm 1953, không thể làm ngơ, chính quyền buộc di rời toàn bộ dân cư ra những khu tái định cư mới bên ngoài. Lần đầu tiên, khu đô thị 8.000 năm tuổi không còn người sinh sống! Cùng với việc thảo đồ án quy hoạch vùng, các nhà chuyên môn và quản lý quyết định coi Matera như một phòng thí nghiệm cho chính sách tái định cư và cải tạo đô thị. Các lý thuyết đô thị theo chủ nghĩa duy lý, chức năng được nghiên cứu. Các đô thị mới được xây dựng để di dân, tái định cư. Suốt 1 thập kỷ sau đó, Sassi bị bỏ hoang. Quá xuống cấp và hoàn toàn không ở được, phương án phá dỡ để xây lại đô thị mới được tính đến - không khó hiểu trong bối cảnh tư duy kiến trúc hiện đại những năm 50. Sau gần chục ngàn năm trường tồn qua biến thiên lịch sử, mảnh đất ghi bao dấu ấn văn hóa nhân loại, với khối kiến trúc độc đáo Sassi xây “âm bản” đào sâu trong lòng vách núi đá vôi trắng, đứng trước bước ngoặt định mệnh, có nguy cơ hoàn toàn bị san phẳng!
Chỉ đến giữa những năm 60, cùng với những quan điểm khai mào về bảo tồn di sản được đánh dấu bằng Hiệp ước Venise - Charte Venise, câu hỏi ứng xử với khu vực bỏ hoang một thập kỷ qua lại trỗi dậy. May mắn thay, nước Ý đã đặt cược vào một kế hoạch trùng tu và hồi sinh quy mô tổng thể đô thị cổ này. Một cuộc thi quốc tế cải tạo đô thị được phát động, đặt khu Sassi vào vai trò trung tâm lịch sử đô thị và cảnh quan của thành phố Matera. Hàng loạt quảng trường mới được thiết kế, cùng với chỉnh trang, mở rộng những trục tiếp cận, để kết nối và đặt khu thành cổ vào một tổng thể lõi lịch sử. Những trục phố, lối cầu thang mới được xây dựng hài hòa trong tổng thể, đôi khi trên mái những căn nhà cổ. Matera có diện mạo như ngày nay, phải kể đến vai trò quyết định của chính quyền từ cấp quốc gia đến địa phương. Các nhà quản lý cùng phối hợp đưa ra những khung pháp lý, điều luật riêng về bảo tồn cảnh quan, chính sách hỗ trợ tài chính, quy định sở hữu, quản lý cải tạo khu vực này. Toàn bộ hạ tầng điện nước, chiếu sáng đô thị được lắp đặt, hệ thống thông gió được trang bị thêm.
Bên cạnh đó, phải kể đến những nỗ lực lớn của chính những thanh niên sinh ra trong khu ổ chuột, đã lập nên “Scaletta”- hiệp hội hành động để hồi sinh Sassi. Nhờ công sức của họ trong nhiều thập kỷ, đi khắp vùng để liệt kê 159 nhà thờ bằng đá có niên đại xây dựng từ thời những thầy tu Byzantin thế kỷ XIII. Họ tìm kiếm và thu gom lại những tác phẩm điêu khắc bị đánh cắp, thất lạc. Không dừng lại ở đó, họ tiếp nối những nghề truyền thống của vùng, đấu tranh để lịch sử và giá trị kiến trúc của Matera được biết đến rộng rãi hơn. Theo chân họ, những đoàn làm phim, nhà văn, nghệ sỹ, trí thức lũ lượt tìm đến thăm Matera. Một trong số đó là bộ phim điện ảnh gây tiếng vang lớn “La passion du Christ - Cuộc khổ nạn của Chúa Gesu” của Mel Gibson ra mắt năm 2004 hay những cảnh quay phim Điệp viên 007 tại đây. Tất cả cùng đầu tư, cải tạo, dọn dẹp lại Matera. Thành quả của công cuộc “trả lại ánh hào quang” này là sự công nhận của UNESCO, đưa Matera vào danh sách Di sản thế giới vào năm 1993, và được lựa chọn trở thành Thủ đô văn hóa Châu Âu vào năm 2019.
Kiến trúc độc đáo và điểm hẹn văn hoá trở thành dấu ấn chỉ có ở Matera“Ông của tôi là một nông dân đã 90 tuổi, ông từng sống ở trong một ngôi nhà Sassi này. Ông không thể hình dung nổi ngày nay ở đó lại có wifi và bể bơi Jacuzzi” - một thanh niên 27 tuổi nói vui khi trả lời AFP. “Quả thật, chúng tôi đã trải qua từ sự hổ thẹn biến thành niềm vinh quang”- thị trưởng Matera - Raffaello De Ruggieri tự hào thừa nhận. “Chúng tôi mong muốn phát triển hoạt động du lịch “chậm”(…) Chúng tôi muốn rằng mỗi người đến thăm Matera sẽ được sống trong một trải nghiệm riêng”, Paolo Verri, giám đốc Quỹ Matera 2019 giải thích chiến lược phát triển Thủ đô văn hóa châu Âu tại Matera theo hướng thu hút người đam mê nghệ thuật văn hóa, hơn là điểm du lịch đại trà với toàn những nhà hàng khách sạn và du khách ghé qua trong ngày. Vì thế, các căn nhà cổ chỉ có những hợp đồng thuê 30 năm, khuyến khích các hoạt động đa dạng cùng chung sống : nhà nghỉ cho thuê, galerie nghệ thuật, trung tâm văn hoá, xưởng thiết kế, xưởng nghề thủ công, nhà hàng ... Những hoạt động văn hoá thường niên được tổ chức tại đây. Những nghệ sỹ được mời đến Matera để giới thiệu các tác phẩm mới của họ.
Vậy là, sau hơn nửa thế kỷ, Matera lột xác từ khu ổ chuột trở thành điểm đến du lịch và văn hoá của nước Ý vốn đã giàu di sản. Được bầu chọn là Thủ đô Văn hoá châu Âu, Matera giờ đây là niềm tự hào cho nước Ý! Thế nên khi đặt chân đến đây, trước khi nhìn thấy khu thành cổ, ấn tượng mà du khách bắt gặp đầu tiên, là trên quảng trường Vittorio Veneto, ở góc này góc kia, bắt gặp một buổi giao lưu văn hoá với một nghệ sỹ, nhà văn, hay buổi gặp gỡ trao đổi bàn tròn của một hội nhóm. Những gian hàng bán đồ thủ công mỹ nghệ địa phương rải rác trước mặt nhà hát thành phố. Bên những bức điêu khắc đồng điểm xuyết quảng trường, bên những bức họa hiện đại được trưng bày đây đó, tất cả đều diễn ra một cách ấm cúng, thân mật.
Nơi đây, kiến trúc hàng ngàn năm tuổi, quy hoạch hiện đại và những hoạt động văn hoá mang nhịp thở đương đại vẫn tìm được chỗ đứng bên nhau. Ghi nhận và tôn trọng những nỗ lực đó của người Ý, những đoàn khách du lịch dường như cũng ít xô bồ ào ạt hơn khi đến đây. Bên nhau, cùng thả bước nhẹ nhàng, khoan thai hơn, để hòa mình trong không khí đời sống văn hóa bao trùm không gian, để cùng hy vọng sự cân bằng này sẽ giữ cho đô thị cổ trường tồn thêm hàng ngàn năm nữa cùng hậu thế.
Một mùa hè « có một không hai », vừa sôi động, bùng nổ không khí thể thao, vừa đong đầy cảm xúc và những giá trị nhân văn đã khép lại tại Paris cùng với lễ bế mạc Para Thế Vận tối 08/09/20240. Tiếp nối bầu không khí lễ hội của Olympic, phong cách tổ chức cởi mở, táo bạo của Pháp và việc đưa thêm các môn thi mới lạ đã góp phần không nhỏ giúp cho Thế Vận Para có sức lan tỏa hơn và lắng đọng hơn trong tâm trí mọi người.
Biện pháp bảo vệ an toàn như đối với sự kiện thể thao lớn nhất hành tinhThành công của kỳ Para Thế Vận « đẹp nhất lịch sử » có được dĩ nhiên phải kể đến sự đóng góp hết mình của hàng chục ngàn tình nguyện viênParalympic, hàng chục ngàn nhân viên bảo vệ trật tự, an toàn thuộc giới tư nhân mỗi ngày đồng hành cùng lực lượng an ninh Nhà nước tại các địa điểm thi đấu.
Về an ninh, cho dù quy mô của Paralympic nhỏ hơn Olympic, nhưng nước chủ nhà Pháp đã giành cho Para Thế Vận sự đối xử công bằng, trân trọng không khác gì Olympic, sự kiện thể thao lớn nhất hành tinh. Sau hôm bế mạc Para Thế Vận, chị Phạm Thùy Dương, thuộc một công ty an ninh tư nhân, tham gia bảo vệ trật tự, an toànở các địa điểm thi đấu tại cả Thế Vận Hội và Para Thế Vận chia sẻ với RFI Tiếng Việt :
Sự cổ vũ đông đảo bất ngờ
Về trình độ thể thao của các vận động viên Para, cũng giống như chị Thùy Dương, ông Antonio, một khán giả đã đi xem thi đấu trực tiếp, bày tỏ lòng thán phục :
« Khi xem các vận động viên tranh tài Paralympic, chúng tôi rất ấn tượng về trình độ, kết quả thi đấu của họ, so với tình trạng khuyết tật của họ. Chúng tôi rất ấn tượng bởi khả năng hòa nhập, khả năng tham gia hết mình vào môn thi, khán giả cũng vậy. Chúng ta biết là các vận động viên para có trình độ khá cao, dĩ nhiên ở mức độ của người khuyết tật. Khả năng tập trung của họ cũng rất tốt. Tôi đã xem một trận đấu goal ball. Tương tự như môn bóng đá cho người khiếm thị, các đội thi đấu với nhau, thay vì dùng chân chơi bóng thì họ dùng tay.
Họ phải cực kỳ tập trung, khán giả cũng được yêu cầu giữ yên lặng trong suốt trận đấu. Khả năng tập trung của họ thực sự gây ấn tượng, khả năng tập trung của khán giả cũng vậy. Điều này không đơn giản chút nào. Chơi thể thao khi bị khiếm thị là rất phức tạp, thể hiện bản thân mình như vậy trước công chúng cũng không dễ. Thế nên, đi xem họ thi đấu khá là ấn tượng. Tôi nghĩ đó thực sự là sự nỗ lực vượt lên chính mình, để có thể đạt đến đích như một người bình thường.
Chúng tôi đã ngạc nhiên và vui khi thấy các sân vận động đầy ắp khán giả và lễ khai mạc cũng đông chật kín người. Thực sự là Paralympic mang lại nhiều ngạc nhiên, bất ngờ. Và thực sự, các thử thách, khó khăn đã dễ dàng được vượt qua. Không khí thì rất nồng nhiệt, quả thực là tôi thấy thậm chí còn hơn cả ở những trận đá bóng hay các trận thi đấu của các vận động viên bình thường khác mà chúng tôi đến sân vận động xem. Tôi thực sự thấy sự phấn khích từ công chúng. Khán giả vỗ tay hoan hô, động viên khích lệ các vận động viên Para. Chúng tôi thực sự đã thấy một bầu không khí rất nồng nhiệt.
Thực ra là trước đó tôi cũng không hình dung ra đâu, tôi không biết mọi việc sẽ diễn ra thế nào, liệu mọi người có nhiệt tình xem các vận động viên là người khuyết tật hay không … Nhưng rồi trái lại, tôi đã rất ngạc nhiên và thấy thật tuyệt. Tôi cũng có hy vọng thấy được bầu không khí nồng nhiệt, nhưng đúng là trên cả sự trông đợi của tôi, tôi không nghĩ mọi người lại nhiệt tình đến mức đó. Quả thực là bất ngờ một cách tuyệt vời ! »
Khán giả và tình nguyện viên đồng hànhSự cổ vũ hào hứng của đông đảo khán giả cũng là điều gây ấn tượng mạnh cho một khán giả khác là bà Malika. Khán giả và các tình nguyện viên chính là những người đồng hành của các vận động viên Para :
« Quả thực, đó là lòng nhiệt thành, sôi nổi và sự ủng hộ. Tôi không nghĩ là (Thế Vận Para) lại được theo dõi rộng rãi đến vậy, được nhiều người thuộc mọi lứa tuổi xem đến vậy. Tôi đã may mắn được xem trận chung kết của vận động viên Para cử tạ Rafiq Arabat. Anh ấy đến từ thành phố Courneuve. Thế nên, chúng tôi đã đi xem. Thật là tuyệt diệu ! Tuyệt diệu đối với tôi, tuyệt diệu đối với tất cả mọi người, nhờ có sự ủng hộ, lòng nhiệt thành, niềm hứng khởi, không khí vui vẻ.
Tôi nghĩ rằng (Thế Vận Para) đã soi sáng, làm mọi người hiểu về các môn thể thao dành cho người khuyết tật. Mọi người đã có thể xem, và như như tôi đã nói, tất cả mọi người, ở mọi lứa tuổi, đều có thể khám phá ra rằng mình có thể thành công, hoàn toàn có khả năng làm được. Và không chỉ những người ở Paris mà tất cả mọi người trên thế giới đều có thấy được điều đó.
Về mặt tổ chức, đối với tôi, mọi chuyện đều rất tốt đẹp. Tôi đã thấy khá bất ngờ, mọi thứ đều diễn ra suôn sẻ, trôi chảy. Có rất nhiều tình nguyện viên. Chúng tôi đã nói chuyện với các tình nguyện viên. Họ rất vui mừng. Có những người thậm chí còn không đi nghỉ hè, chỉ vì họ muốn giúp đỡ trong việc tổ chức Thế Vận Hội và Thế Vận Hội Cho Người Khuyết Tật.
Và đối với tôi, thực sự mà nói thì còn đọng lại cho đến tận bây giờ vẫn là ấn tượng về sự sôi nổi, lòng nhiệt thành, tình đoàn kết tương thân tương ái. Tất cả mọi người đều đứng sau hỗ trợ các vận động viên.
Tôi đã từng nghĩ rằng Paralympic sẽ không tạo ra nhiều ảnh hưởng, nhưng thực tế cho thấy là Thế Vận Hội Cho Người Khuyết Tật đã tạo ra những ảnh hưởng vô cùng quan trọng. Mọi người đã nghĩ Paralympic ít được theo dõi hơn nhiều so với Olympic, nhưng thực ra thì không phải như vậy đâu. Quả thực, chúng tôi đã cảm nhận được lòng nhiệt thành, niềm vui, lòng phấn khởi hân hoan, một sức mạnh, lòng can đảm và tình đoàn kết ở Thế Vận Para ».
Đà thay đổi cho tương laiĐể tạo đà thay đổi nhận thức trong xã hội về người khuyết tật, một cách có hệ thống, bền lâu, nước chủ nhà Pháp lần này đặc biệt hướng tới học sinh các cấp, bắt đầu từ tiểu học : khoảng 200.000 vé đã được phát cho các em, so với khoảng 2,5 triệu vé đã bán được. Sự hiện diện đông đảo của giới học sinh cũng đã được chị Thùy Dương ghi nhận khi thực hiện công tác bảo đảm an toàn, trật tự tại các điểm tranh tài Paralympic :
« Có những cuộc gặp gỡ chạm vào trái tim mọi người. Có những cuộc gặp gỡ làm chúng ta thay đổi. Có những cuộc gặp gỡ giúp cho chúng ta trở nên tốt đẹp hơn » và những cuộc gặp ở Thế Vận Hội Cho Người Khuyết Tật sẽ « ghi dấu ấn suốt cuộc đời ». Đó là phát biểu của Tony Estanguet, chủ tịch Ủy ban tổ chức Thế Hội Vận Paris 2024 tại lễ bế mạc Paralympic.
Từ góc nhìn của các khán giả, thông điệp đặc biệt lần này của ban tổ chức Thế Vận Hội Cho Người Khuyết Tật là gì ? Ông Antonio chia sẻ cảm nhận :
« Tôi nghĩ Thế Vận Para được tổ chức rất tốt. Tôi nghĩ rằng thông điệp mà Paris muốn truyền tải là Paralympic đã bị bỏ lại phía sau trong suốt nhiều năm, thông điệp được truyền đi là họ cũng bị những hạn chế, nhưng vận động viên Paralympic có trình độ, phù hợp với khả năng của họ, cũng như các vận động viên bình thường có trình độ thi đấu ở Thế Vận Hội Olympic.
Tôi nghĩ rằng và tôi hy vọng rằng dẫu có thế nào thì Paralympic Paris cũng sẽ là một cánh cửa rộng mở, mang lại cơ hội cho các câu lạc bộ, dù là nghiệp dư hay chuyên nghiệp, ngày càng phát triển các môn thể thao cho người khuyết tật, rằng các Paralympic tới đây sẽ ngày càng có thêm nhiều những môn thể thao Para đầy tính sáng tạo. Và nước Pháp sẽ khuyến khích và phát triển các câu lạc bộ vận động viên khuyết tật, nhiều câu lạc bộ mới sẽ thành hình. Đó chính là những điều tôi mong muốn ».
The podcast currently has 253 episodes available.
40 Listeners
27 Listeners
37 Listeners
4 Listeners
2 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
21 Listeners
8 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
1 Listeners