
Sign up to save your podcasts
Or
Năm 1980, nhà xã hội học người Mỹ Ronald L. Morris, trong tác phẩm đề tựa « Wait until Dark: Jazz and Underworld » (tạm dịch là Khi màn đêm buông xuống : Jazz và Thế giới ngầm), từng khẳng định nhạc Jazz trong giai đoạn Lệnh cấm (1920-1933) sẽ không còn là Jazz nếu không có sự che chở của các băng đảng tội phạm. Theo ông, Jazz chịu rất nhiều ảnh hưởng từ mafia.
Storyville, New Orleans : Nền tảng đầu tiên của mối liên hệ Jazz - MafiaMối liên hệ này được hình thành tại Storyville, New Orleans vào cuối thế kỷ XIX. Đó là thời điểm làn sóng di cư người Ý diễn ra mạnh mẽ : Trong vòng 20 năm, 1880 – 1900, hơn 650 ngàn người Ý và Sicilia đổ vào nước Mỹ, quốc gia vừa thoát khỏi cảnh Nội Chiến. Họ băng Đại Tây Dương, mơ về một nước Mỹ thịnh vượng và cởi mở. Không chỉ có người Ý, trên các cầu cảng còn có người Ireland, và hàng triệu di dân đến từ Đông Âu, phần lớn là người Do Thái. Họ chạy trốn cảnh nghèo đói, thoát cảnh chiến tranh hay sự truy bức.
Nhưng giấc mộng đó nhanh chóng tan vỡ khi phải đối mặt với thực tế nghiệt ngã : Nạn kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa bản địa. Bị hắt hủi, bị gạt ra bên lề xã hội, thất nghiệp, không được học hành, những di dân gốc Ý, Do Thái hay châu Phi sống chen chúc trong những khu phố nghèo tại các thành phố cảng lớn như Lower East Side ở New York hay như khu Vieux-Carré tại New Orleans. Các băng đảng tội phạm lần lượt xuất hiện : Mano nera, mafia, cosa nostra….
Không được tiếp cận các ngành kinh doanh hợp pháp, những nhóm tội phạm này mở rộng các hoạt động ngầm về đêm, thâu tóm các lĩnh vực giải trí và sân khấu, giang tay đón nhận những người nghệ sĩ lang thang, đặt nên nền tảng đầu tiên cho mối liên hệ giữa Jazz và Mafia trong nhiều thập niên sau đó của thế kỷ XX. Nhạc sĩ dương cầm Earl Hines, từng giải thích : « Các thành viên mafia đã nhanh chóng tìm thấy trong âm nhạc một lớp vỏ bọc tuyệt vời cho những mánh lới được thực hiện trong hậu trường, từ các trò cờ bạc trái phép, buôn thuốc phiện, cho đến cả mãi dâm. »
Steven Jezo – Vannier, tác giả tập sách « Music Connection. Les parrains de la musique américaine au XXè siècle » (tạm dịch là Kết nối âm nhạc. Những người bảo trợ cho âm nhạc Mỹ thế kỷ XX), cho biết, vào năm 1902, người ta ước tính ở Storyville, đã có đến 85 sàn nhảy, gần 800 quán rượu và 230 nhà chứa, nơi hoạt động của khoảng 1.500 gái làng chơi.
Ba phần tư các chủ sở hữu những cơ sở này đều là trùm các băng đảng với những cái tên Joe Segretta, Henry Matranga, Peter Ciacco hay Pete Lala, với câu lạc bộ nổi tiếng Big 25, sàn diễn đầu tiên của Joe Oliver – người sau này trở thành King Oliver. Đó cũng là nơi xuất thân của nhiều tên tuổi khác trong làng nhạc Jazz như Jelly Roll Morton, Kid Ory, Buddy Bolden, Louis Amstrong hay Cab Calloway…
1920 : Thời điểm quyết định cho cuộc hội ngộ Jazz - MafiaTheo nhà sử học Ronald L. Morris, cuộc hội ngộ mang tính quyết định giữa giới nhạc sĩ Jazz và Mafia là vào những năm 1920. Đây là thời điểm chính quyền tổng thống Woodrow Wilson ban hành Lệnh Cấm Rượu (1920-1933), bị cáo buộc là nguồn cội của mọi tệ nạn xã hội, khiến các quán rượu và tụ điểm hội hè bị đóng cửa, kết thúc thời kỳ hoàng kim một thế hệ Mafia tại New Orleans.
Các nhóm tội phạm cùng những người chơi nhạc Jazz rời Storyville đi về phía bắc đến New York, Chicago, Kansas City… Họ sắp xếp lại hoạt động về đêm dọc theo các tuyến đường buôn rượu với sự tiếp tay của giới chức địa phương, và nhiều nghị sĩ Mỹ. Một thế hệ mới các ông trùm băng đảng gốc Ý, Do Thái hay Ireland ra đời, trong số này phải kể đến Al Capone, Alcatraz hay Dutch Schulz…
Đam mê mãnh liệt nhạc Jazz cùng với sự táo bạo trong cách tổ chức và quản lý thế giới ngầm, thế hệ tội phạm mới này đã tái hiện các đêm nhạc với những câu lạc bộ tiện nghi, vui nhộn hơn, mở cửa cho tất cả các thành phần, và do vậy, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ mới của thời kỳ hậu chiến. Tại các cơ sở mới này, nhạc cũ lỗi thời nhường chỗ cho Jazz thống trị với sự xuất hiện của những nhạc sĩ trẻ tài năng : Sydney Bechet, Bessie Smith, Earl Hines, Duke Ellington…
Trong một chương trình trên đài France Culture (15/05/2024), Jacques B. Hesse, nhạc sĩ đại vĩ cầm, dịch giả tập sách của nhà xã hội Ronald L. Morris, giải thích :
« Luận điểm của Ronald L. Morris rất đơn giản. Ông ấy nói rằng giới tội phạm đã góp phần phát triển nhạc Jazz không chỉ bằng cách cung cấp cho các nhạc sĩ Mỹ sự bảo vệ về mặt xã hội và pháp lý, họ còn trả phí luật sư cho các vụ ly hôn, viện phí và tang lễ cho người thân của các nhạc sĩ. Họ còn giúp các nhạc sĩ mua xe trả góp, với mức hoàn trả từ 5 đến 7 đô la một tuần. »
Jazz – Mafia : Mối quan hệ ràng buộcSteven Jazo-Vannier trong tập sách viết : « Mối liên kết lâu dài này được hung đúc, neo giữ sâu đậm cứ như một sự phụ thuộc lẫn nhau, hợp nhất hai mặt của một thế giới về đêm (…) ».
Jacques B. Hesse nhắc tiếp nhận định của Ronald L. Morris : « Bằng cách sử dụng các dàn nhạc có hợp đồng dài hạn từ một đến ba năm trong các hộp đêm và câu lạc bộ nhạc Jazz của mình, các băng đảng Mafia đã khuyến khích sự trưởng thành trong phong cách riêng của từng dàn nhạc, phân biệt phong cách của Duke Ellington với phong cách của Cab Calloway ».
Thế nên, mới có giai thoại rằng, Al Capone, một trong những trùm Mafia lớn, đam mê âm nhạc, có cảm tình đặc biệt với một nhạc sĩ : Fats Waller. Trong tập sách Music Connection, Steven Jazo-Vannier thuật lại rằng, người nghệ sĩ dương cầm, kiêm ca sĩ này, một đêm, vào cuối buổi trình diễn, người ta bịt mắt ông dẫn đến một nơi bí mật.
Khi đến nơi, ông thấy một cây đàn piano, họ đẩy ông về phía cây đàn rồi bảo « Hãy đến chơi đàn đi ! ». Ông không biết nơi đó là ở đâu, nhưng khi nghe tiếng cười giữa đám đông, ông nhận ra tiếng cười nổi tiếng của Al Capone, người đã chọn Fats Waller chơi nhạc cho đêm tiệc của mình với bạn bè và khách mời.
Mafia cung cấp việc làm, và sự bảo vệ nhưng cũng rất chiếm hữu. Ca sĩ Lena Horne, bắt đầu ca hát rất sớm tại Cotton Club, với mức lương nghèo đói : 25 đô la một tuần. Hợp đồng trọn đời ngăn cản cô rời Cotton Club. Mọi nỗ lực thương lượng của cô kết thúc trong bạo lực. Để giải thoát cho cô, gia đình ra một quyết định táo bạo : Bắt cóc cô và bỏ trốn ngay giữa đêm cho đến tận Philadelphia. Tại đây, Lena Horne bắt đầu sự nghiệp mới và sau này trở thành nữ diễn viên người Mỹ gốc Phi đầu tiên ký hợp đồng với MGM.
Sự im lặngNếu như phần lớn giới nghệ sĩ gìn giữ một quy tắc bất thành văn : Ba Không – Không nghe, Không thấy, Không nói – để đổi lấy sự bảo trợ của Mafia, thì Frank Sinatra, nhân vật hiếm có công khai thừa nhận về mối liên hệ với tay trùm Lucky Luciano, đến từ cùng một làng với gia đình Sinatra ở Sicilia.
Thế giới Jazz muôn sắc muôn mầu, vô vàn giai thoại. Danh sách các nhạc sĩ bị lệ thuộc vào Mafia dài vô tận, trong số này nhiều gương mặt điển hình từ Louis Amstrong, Dexter Gordon, Stan Getz, cho đến Billie Holiday hay Chet Baker…
Các băng đảng Mafia không chỉ sở hữu các hộp đêm, phòng nhạc nổi tiếng, mà sau này họ còn trở thành các nhà tuyển dụng, nhà quản lý và sản xuất các nhạc sĩ, sở hữu họ, những người nhạc sĩ và âm nhạc của họ. Mafia thâm nhập vào mọi cấp độ sáng tạo âm nhạc có lợi nhuận. Đối với Earl Hines, trong những năm 1940 chẳng còn chút nghi ngờ, « các băng đảng đã làm cho ngành kinh doanh âm nhạc phát đạt » hơn bao giờ hết !
(Nguồn France Musique, France Culture)
Năm 1980, nhà xã hội học người Mỹ Ronald L. Morris, trong tác phẩm đề tựa « Wait until Dark: Jazz and Underworld » (tạm dịch là Khi màn đêm buông xuống : Jazz và Thế giới ngầm), từng khẳng định nhạc Jazz trong giai đoạn Lệnh cấm (1920-1933) sẽ không còn là Jazz nếu không có sự che chở của các băng đảng tội phạm. Theo ông, Jazz chịu rất nhiều ảnh hưởng từ mafia.
Storyville, New Orleans : Nền tảng đầu tiên của mối liên hệ Jazz - MafiaMối liên hệ này được hình thành tại Storyville, New Orleans vào cuối thế kỷ XIX. Đó là thời điểm làn sóng di cư người Ý diễn ra mạnh mẽ : Trong vòng 20 năm, 1880 – 1900, hơn 650 ngàn người Ý và Sicilia đổ vào nước Mỹ, quốc gia vừa thoát khỏi cảnh Nội Chiến. Họ băng Đại Tây Dương, mơ về một nước Mỹ thịnh vượng và cởi mở. Không chỉ có người Ý, trên các cầu cảng còn có người Ireland, và hàng triệu di dân đến từ Đông Âu, phần lớn là người Do Thái. Họ chạy trốn cảnh nghèo đói, thoát cảnh chiến tranh hay sự truy bức.
Nhưng giấc mộng đó nhanh chóng tan vỡ khi phải đối mặt với thực tế nghiệt ngã : Nạn kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa bản địa. Bị hắt hủi, bị gạt ra bên lề xã hội, thất nghiệp, không được học hành, những di dân gốc Ý, Do Thái hay châu Phi sống chen chúc trong những khu phố nghèo tại các thành phố cảng lớn như Lower East Side ở New York hay như khu Vieux-Carré tại New Orleans. Các băng đảng tội phạm lần lượt xuất hiện : Mano nera, mafia, cosa nostra….
Không được tiếp cận các ngành kinh doanh hợp pháp, những nhóm tội phạm này mở rộng các hoạt động ngầm về đêm, thâu tóm các lĩnh vực giải trí và sân khấu, giang tay đón nhận những người nghệ sĩ lang thang, đặt nên nền tảng đầu tiên cho mối liên hệ giữa Jazz và Mafia trong nhiều thập niên sau đó của thế kỷ XX. Nhạc sĩ dương cầm Earl Hines, từng giải thích : « Các thành viên mafia đã nhanh chóng tìm thấy trong âm nhạc một lớp vỏ bọc tuyệt vời cho những mánh lới được thực hiện trong hậu trường, từ các trò cờ bạc trái phép, buôn thuốc phiện, cho đến cả mãi dâm. »
Steven Jezo – Vannier, tác giả tập sách « Music Connection. Les parrains de la musique américaine au XXè siècle » (tạm dịch là Kết nối âm nhạc. Những người bảo trợ cho âm nhạc Mỹ thế kỷ XX), cho biết, vào năm 1902, người ta ước tính ở Storyville, đã có đến 85 sàn nhảy, gần 800 quán rượu và 230 nhà chứa, nơi hoạt động của khoảng 1.500 gái làng chơi.
Ba phần tư các chủ sở hữu những cơ sở này đều là trùm các băng đảng với những cái tên Joe Segretta, Henry Matranga, Peter Ciacco hay Pete Lala, với câu lạc bộ nổi tiếng Big 25, sàn diễn đầu tiên của Joe Oliver – người sau này trở thành King Oliver. Đó cũng là nơi xuất thân của nhiều tên tuổi khác trong làng nhạc Jazz như Jelly Roll Morton, Kid Ory, Buddy Bolden, Louis Amstrong hay Cab Calloway…
1920 : Thời điểm quyết định cho cuộc hội ngộ Jazz - MafiaTheo nhà sử học Ronald L. Morris, cuộc hội ngộ mang tính quyết định giữa giới nhạc sĩ Jazz và Mafia là vào những năm 1920. Đây là thời điểm chính quyền tổng thống Woodrow Wilson ban hành Lệnh Cấm Rượu (1920-1933), bị cáo buộc là nguồn cội của mọi tệ nạn xã hội, khiến các quán rượu và tụ điểm hội hè bị đóng cửa, kết thúc thời kỳ hoàng kim một thế hệ Mafia tại New Orleans.
Các nhóm tội phạm cùng những người chơi nhạc Jazz rời Storyville đi về phía bắc đến New York, Chicago, Kansas City… Họ sắp xếp lại hoạt động về đêm dọc theo các tuyến đường buôn rượu với sự tiếp tay của giới chức địa phương, và nhiều nghị sĩ Mỹ. Một thế hệ mới các ông trùm băng đảng gốc Ý, Do Thái hay Ireland ra đời, trong số này phải kể đến Al Capone, Alcatraz hay Dutch Schulz…
Đam mê mãnh liệt nhạc Jazz cùng với sự táo bạo trong cách tổ chức và quản lý thế giới ngầm, thế hệ tội phạm mới này đã tái hiện các đêm nhạc với những câu lạc bộ tiện nghi, vui nhộn hơn, mở cửa cho tất cả các thành phần, và do vậy, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ mới của thời kỳ hậu chiến. Tại các cơ sở mới này, nhạc cũ lỗi thời nhường chỗ cho Jazz thống trị với sự xuất hiện của những nhạc sĩ trẻ tài năng : Sydney Bechet, Bessie Smith, Earl Hines, Duke Ellington…
Trong một chương trình trên đài France Culture (15/05/2024), Jacques B. Hesse, nhạc sĩ đại vĩ cầm, dịch giả tập sách của nhà xã hội Ronald L. Morris, giải thích :
« Luận điểm của Ronald L. Morris rất đơn giản. Ông ấy nói rằng giới tội phạm đã góp phần phát triển nhạc Jazz không chỉ bằng cách cung cấp cho các nhạc sĩ Mỹ sự bảo vệ về mặt xã hội và pháp lý, họ còn trả phí luật sư cho các vụ ly hôn, viện phí và tang lễ cho người thân của các nhạc sĩ. Họ còn giúp các nhạc sĩ mua xe trả góp, với mức hoàn trả từ 5 đến 7 đô la một tuần. »
Jazz – Mafia : Mối quan hệ ràng buộcSteven Jazo-Vannier trong tập sách viết : « Mối liên kết lâu dài này được hung đúc, neo giữ sâu đậm cứ như một sự phụ thuộc lẫn nhau, hợp nhất hai mặt của một thế giới về đêm (…) ».
Jacques B. Hesse nhắc tiếp nhận định của Ronald L. Morris : « Bằng cách sử dụng các dàn nhạc có hợp đồng dài hạn từ một đến ba năm trong các hộp đêm và câu lạc bộ nhạc Jazz của mình, các băng đảng Mafia đã khuyến khích sự trưởng thành trong phong cách riêng của từng dàn nhạc, phân biệt phong cách của Duke Ellington với phong cách của Cab Calloway ».
Thế nên, mới có giai thoại rằng, Al Capone, một trong những trùm Mafia lớn, đam mê âm nhạc, có cảm tình đặc biệt với một nhạc sĩ : Fats Waller. Trong tập sách Music Connection, Steven Jazo-Vannier thuật lại rằng, người nghệ sĩ dương cầm, kiêm ca sĩ này, một đêm, vào cuối buổi trình diễn, người ta bịt mắt ông dẫn đến một nơi bí mật.
Khi đến nơi, ông thấy một cây đàn piano, họ đẩy ông về phía cây đàn rồi bảo « Hãy đến chơi đàn đi ! ». Ông không biết nơi đó là ở đâu, nhưng khi nghe tiếng cười giữa đám đông, ông nhận ra tiếng cười nổi tiếng của Al Capone, người đã chọn Fats Waller chơi nhạc cho đêm tiệc của mình với bạn bè và khách mời.
Mafia cung cấp việc làm, và sự bảo vệ nhưng cũng rất chiếm hữu. Ca sĩ Lena Horne, bắt đầu ca hát rất sớm tại Cotton Club, với mức lương nghèo đói : 25 đô la một tuần. Hợp đồng trọn đời ngăn cản cô rời Cotton Club. Mọi nỗ lực thương lượng của cô kết thúc trong bạo lực. Để giải thoát cho cô, gia đình ra một quyết định táo bạo : Bắt cóc cô và bỏ trốn ngay giữa đêm cho đến tận Philadelphia. Tại đây, Lena Horne bắt đầu sự nghiệp mới và sau này trở thành nữ diễn viên người Mỹ gốc Phi đầu tiên ký hợp đồng với MGM.
Sự im lặngNếu như phần lớn giới nghệ sĩ gìn giữ một quy tắc bất thành văn : Ba Không – Không nghe, Không thấy, Không nói – để đổi lấy sự bảo trợ của Mafia, thì Frank Sinatra, nhân vật hiếm có công khai thừa nhận về mối liên hệ với tay trùm Lucky Luciano, đến từ cùng một làng với gia đình Sinatra ở Sicilia.
Thế giới Jazz muôn sắc muôn mầu, vô vàn giai thoại. Danh sách các nhạc sĩ bị lệ thuộc vào Mafia dài vô tận, trong số này nhiều gương mặt điển hình từ Louis Amstrong, Dexter Gordon, Stan Getz, cho đến Billie Holiday hay Chet Baker…
Các băng đảng Mafia không chỉ sở hữu các hộp đêm, phòng nhạc nổi tiếng, mà sau này họ còn trở thành các nhà tuyển dụng, nhà quản lý và sản xuất các nhạc sĩ, sở hữu họ, những người nhạc sĩ và âm nhạc của họ. Mafia thâm nhập vào mọi cấp độ sáng tạo âm nhạc có lợi nhuận. Đối với Earl Hines, trong những năm 1940 chẳng còn chút nghi ngờ, « các băng đảng đã làm cho ngành kinh doanh âm nhạc phát đạt » hơn bao giờ hết !
(Nguồn France Musique, France Culture)
27 Listeners
223 Listeners
13 Listeners
20 Listeners
15 Listeners
2 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
8 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
5 Listeners
2 Listeners
0 Listeners