
Sign up to save your podcasts
Or
Dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam (1975-2025) là thời điểm tốt để đánh giá lại giai đoạn 1965-1975 ở Anh, khi chính phủ đảng Lao động chịu sức ép nội bộ nên đã chọn quan điểm khác dần Washington về cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam.
Việc tìm hiểu thời kỳ này giúp công chúng hiểu thêm về tính đa diện và tác động đa chiều của nhiều xu thế, trào lưu chính trị-xã hội tại châu Âu một thời, khi mà cuộc chiến tại Việt Nam được nói đến liên tục trên truyền thông và có tác động đến cả một thế hệ người Anh.
Thông tín viên Nguyễn Giang từ Luân Đôn, cũng là nhà nghiên cứu Đông Nam Á tại Luân Đôn, hiện làm việc ở cương vị chuyên gia khách mời (non-resident fellow) với Viện Quan hệ Quốc tế, Đại học NCCU, Đài Bắc, đã nghiên cứu chủ đề này và giới thiệu những gì công chúng chưa được biết về Phong trào chống chiến tranh Việt Nam và di sản của phong trào này đối với đảng Lao động và chính trị Anh ngày nay.
RFI : Phong trào chống Chiến tranh Việt Nam ở Anh sinh ra từ đâu ?
TTV Nguyễn Giang : Vâng, khác với cách hiểu thông thường còn khá phổ biến ở nhiều nơi, phong trào của thanh niên, sinh viên, trí thức ở Anh phản đối sự can dự của quân đội Hoa Kỳ tại Đông Dương có xuất phát điểm không phải từ nhận thức giai cấp và giới công nhân Anh ít có mặt trong các cuộc đấu tranh có trí thức, sinh viên đi đầu.
Theo Claire Mansour, viết trong nghiên cứu mới “The British Movement against the Vietnam War” (2017), thì ngay sau khi Thế Chiến II kết thúc bằng hai trái bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản, ở Anh và các nước Tây Âu nổ ra phong trào giải trừ vũ khí hạt nhân (Nuclear disarmament movement).
Trong thập niên 1950-60, phong trào này phát triển và có sự liên kết của người Anh với những người cùng chí hướng của họ ở Pháp, Tây Đức và Mỹ. Thế nhưng, bối cảnh lịch sử và nhu cầu đấu tranh ở mỗi nước có sự khác nhau. Nếu như ở Mỹ, phong trào phản chiến thường do các trí thức thiên tả lãnh đạo, có mang màu sắc chống phân biệt chủng tộc, ủng hộ quyền vươn lên của người da đen, thì ở Anh, “the British anti-Vietnam War movement” có mục tiêu đạo đức, luân lý.
Luận điểm chính của các nhà vận động đòi Anh đơn phương bỏ vũ khí nguyên tử là Đế quốc Anh đã bị giải thể, nước Anh cần giành lại vị trí lãnh đạo thế giới về đạo đức trên trường quốc tế. Họ lên án chủ nghĩa đế quốc kiểu mới của Hoa Kỳ, và chia sẻ sự đồng cảm với nhân dân các nước vừa thoát ra khỏi chủ nghĩa thực dân.
RFI : Người Anh, thuộc đảng Lao động hay các nhóm chính trị phe tả phái khác, đã làm gì ?
TTV Nguyễn Giang : Điều họ làm là xuống đường, tuần hành để chống sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam. Ví dụ tháng 02/1965 là thời điểm bước ngoặt của phong trào tại Anh. Ủy ban Oxford vì Việt Nam (Oxford Vietnam Committee), tổ chức vẫn còn cánh thanh niên của Cuộc vận động giải trừ vũ khí nguyên tử (Campaign for Nuclear Disarmament), đã làm được cuộc tuần hành lớn đầu tiên trên cả nước, trước cuộc tuần hành đông người ở Hoa Kỳ tới vài tháng. Kể từ đó, phong trào lớn mạnh qua năm tháng về số lượng, với một trong những đợt tuần hành đông người nhất trong năm 1968, đạt con số tới 100 nghìn người ở Quảng trường Trafalgar, London.
RFI: Trí thức Anh đóng vai trò như thế nào trong phong trào này ?
TTV Nguyễn Giang : Nói tới phong trào chống chiến tranh Việt Nam thì phải nhắc tới triết gia Anh Bertrand Russell, người cùng vợ là Edith Russell, đã thành lập vào năm 1963 Quỹ Hòa bình mang tên Bertrand Russell Peace Foundation, để phản đối điều hai ông bà gọi là “Cuộc giết chóc của Mỹ và Anh” (Các báo Anh đã đăng hình họ mang tấm biểu ngữ to: End Anglo-American Butchery in Vietnam trong cuộc tuần hành ngày 30/06/1965 ở London). Sau này, cùng với triết gia Pháp Jean-Paul Sartre, ông Russell lập ra Ủy ban Quốc tế về Tội ác Chiến tranh của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam, đã cử đại diện sang Hà Nội, gặp các ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Ủy ban này được khá nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và chính trị gia ủng hộ, ví dụ như những vị được giải Nobel Prize gồm Max Born, Linus Pauling, Albert Schweitzer, diễn viên Anh Vanessa Redgrave, nhà quý tộc Lord Boyd Orr, Hoàng hậu Elizabeth của Bỉ, thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, tổng thống các nước Pakistan, Ghana, Tanzania và Hoàng thân Campuchia Norodom Sihanouk.
Điều đáng nói về thái độ của trí thức Anh, như ông Russell, là họ ủng hộ miền Bắc Việt Nam và chống hoạt động chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam, nhưng ông Russell không phải là người theo chủ nghĩa cộng sản, và ông vẫn viết thư đều đặn cho tổng thống Mỹ Lyndon Johnson yêu cầu, đề nghị chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và cải thiện quan hệ với Cuba. Thư của ông không được chính quyền Mỹ hồi đáp. Ông Russell không tin vào lý thuyết đấu tranh giai cấp là cách cải thiện xã hội như ý thức hệ chính thống ở các nước theo mô hình XHCN hồi đó vẫn nói, mà chỉ đơn giản muốn thúc đẩy hòa bình, đối thoại, thay cho chiến tranh, dù là chiến tranh nguyên tử hay chiến tranh bằng bom đạn.
Tinh thần của ông ấy là ủng hộ Bắc Việt Nam vì miền Bắc Việt Nam khi đó bị Mỹ ném bom. Xin nhắc rằng trong suốt cuộc chiến Việt Nam, ông Russell chưa hề đến Nam hay Bắc Việt Nam, nhưng trong một bài viết thì ông từng đến thành phố Sài Gòn vào năm 1920 khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Cảm giác của ông về thành phố đó, được ghi lại, nguyên văn là “một đô thị để người châu Âu giàu sang hưởng lạc một cách bệnh hoạn”. Có thể thấy ngay từ hồi trẻ, ông đã không ưa chủ nghĩa thực dân châu Âu.
RFI : Còn về phong trào ở Anh phản đối Chiến tranh VN thì những diễn biến tiếp theo của nó là gì ?
TTV Nguyễn Giang : Càng về sau, tính chất và khẩu hiệu đấu tranh càng thay đổi, và yếu tố nhân sự của phong trào giải trừ vũ khí nguyên tử giảm đi, nhường chỗ cho các khẩu hiệu ủng hộ VNDCCH, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam.
Xin nhắc rằng biểu tình phản chiến ở Anh xảy đến hoàn toàn vì các lý tưởng như đoàn kết quốc tế mà thanh niên Anh theo đuổi, vì họ không phải đi lính. Trái lại, phong trào ở Mỹ có yếu tố chống quân dịch, với lý do thanh niên Mỹ phải phục vụ trong quân đội và bị đưa sang chiến trường Nam Việt Nam. Mặt khác, vì chính phủ Harold Wilson không đồng ý với yêu cầu của Hoa Kỳ đưa quân Anh tham chiến ở Nam Việt Nam, nên mục tiêu đấu tranh của phong trào phản chiến trên đường phố London, Leeds, Manchester là yêu cầu Anh gây sức ép để Mỹ chấm dứt cuộc chiến.
Cũng vì thế, các đợt Không quân Hoa Kỳ oanh kích VNDCCH bị phản đối dữ dội và chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 trở thành mục tiêu phê phán Mỹ kịch liệt. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1968, có cuộc tuần hành lớn, vài chục nghìn người ở London và theo sau bằng cuộc xuống đường đông đảo hơn, 100 nghìn người vào ngày 27 tháng 10 cùng năm.
RFI : Chính phủ Anh đã ứng xử ra sao khi mà Anh có quan hệ đồng minh chặt chẽ với Hoa Kỳ ?
TTV Nguyễn Giang : Theo sử gia cánh tả Keith Flett, phong trào phản chiến tại Anh đã có tác động tới quyết định của chính phủ Harold Wilson thuộc đảng Lao động, không đưa quân Anh tham chiến ở Nam VN hỗ trợ cho quân đội Mỹ theo yêu cầu của Washington năm 1964.
Dư luận Anh, giới truyền thông, như BBC, đã thúc đẩy chính phủ tìm kiếm giải pháp khác cho cuộc chiến Việt Nam. Các đợt Mỹ ném bom rải thảm ở Campuchia làm dấy lên một làn sóng đấu tranh mới, nhưng cũng có lo ngại về sự vươn dậy của lực lượng Khmer Đỏ, theo các tài liệu Anh nhắc lại giai đoạn 1970-71.
Ví dụ khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1972, báo chí Anh đã chỉ trích chính phủ là quá nhượng bộ Washington, trong khi chính quyền các nước châu Âu như Bỉ, Ý, Hà Lan, Na Uy, Phần Lan lên án các đợt oanh kích. Biểu tình nổ ra ở London, Rome, Amsterdam và Copenhagen. Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme ví các trận bom của Mỹ dội xuống khu dân cư và bệnh viện (Bạch Mai) như "bom của phát-xít Đức" tàn phá các đô thị châu Âu trong Thế Chiến II.
RFI : Sau cuộc chiến Việt Nam, phong trào phản chiến trong đảng Lao động Anh có còn tồn tại hay không và nếu có thì họ hoạt động ra sao ?
TTV Nguyễn Giang : Câu chuyện sau ngày 30/04/1975 tưởng như đã chỉ còn là hoài niệm nhưng vẫn đóng vai trò định hình chính sách đối ngoại của đảng Lao động và phe tả Anh cho tới hôm nay.
Khi còn làm việc ở London, tôi đã có dịp gặp và nghe lời kể từ nhà ngoại giao Michael Williams, cố vấn cho bộ trưởng Ngoại Giao Jack Straw của đảng Lao động, về lý do thời trẻ có khá nhiều sinh viên Anh phản đối điều họ nói là “sự can thiệp tàn khốc của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam”.
Cả hai ông Williams và Straw thời trẻ đều từng tham gia các cuộc tuần hành nổi tiếng ở London vốn bắt đầu năm 1965, mở đường cho một phong trào có chất lượng đấu tranh đô thị và các khẩu hiệu khác trước. Vào những năm 2019-20, tôi cũng có dịp phỏng vấn ông Jack Straw, khi đó đã rời vị trí bộ trưởng, trong sự kiện ông bảo trợ trong Quốc hội Anh nhằm ủng hộ cuộc đấu tranh đòi bồi thường cho nạn nhân chất da cam ở Việt Nam.
Vể sau này thì có 3-4 cuộc chiến đã khiến di sản chống chiến tranh Việt Nam lên tiếng ở Anh. Đó là năm 1982 khi nữ thủ tướng thuộc đảng Bảo thủ Anh, Margaret Thatcher, quyết định đưa quân sang quần đảo Falklands (Malvinas) đẩy quân Argentina ra khỏi đó. Lãnh đạo đảng Lao động đối lập, Michael Foot, đã ủng hộ hành động của bà Thatcher, dù bị nhiều nhân vật trong đảng Lao động phản đối.
Vào các năm 1997 và 2010, Anh lại đưa quân ra nước ngoài, sang Iraq, Afghanistan và Libya. Các nhân vật phản chiến hàng đầu của đảng này như Tony Benn và Jeremy Corbyn đã phản đối chính phủ của Tony Blair cùng đảng đưa quân giúp Mỹ. Ông Corbyn sau trở thành lãnh tụ đảng Lao động và kiên trì chống cuộc chiến mới nhất của Israel ở Gaza.
RFI : Với tình hình hiện nay thì sao ?
TTV Nguyễn Giang : Xin nhắc là đương kim thủ tướng Anh, luật sư nhân quyền Keir Starmer, đã xuống đường cùng ‘Liên minh ngăn chiến tranh’ (Stop the War Coalition) với chừng 1 triệu người khi nổ ra cuộc chiến Iraq năm 2003. Đó là hình ảnh gợi lại các cuộc tuần hành ở London phản đối chiến tranh Việt Nam.
Nhưng gần đây nhất, khi lên cầm quyền, ông Starmer lại đưa đảng Lao động vào một con đường hỗ trợ Ukraina tới cùng, kể cả khi Mỹ và Nga đang đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Tất nhiên bối cảnh của cuộc chiến Ukraina rất khác chiến tranh Iraq và hiện nay, các đảng tả và hữu hay trung dung như Tự do Dân chủ (LibDem) đều ủng hộ Ukraina chống lại Nga.
Nhưng như sử gia Keith Flett đánh giá thì ở Anh luôn có hai xu thế: chiến tranh đế quốc và phong trào phản chiến. Đảng Lao động luôn là nơi có những người theo phái hòa bình (pacifists) và phản chiến nói chung và đó đã là truyền thống của họ, kể cả khi có những lãnh đạo như ông Tony Blair hay Keir Starmer, được bầu lên lãnh đạo quốc gia và chọn con đường khác.
Dịp kỷ niệm 50 năm kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước Việt Nam (1975-2025) là thời điểm tốt để đánh giá lại giai đoạn 1965-1975 ở Anh, khi chính phủ đảng Lao động chịu sức ép nội bộ nên đã chọn quan điểm khác dần Washington về cuộc chiến tranh ở Nam Việt Nam.
Việc tìm hiểu thời kỳ này giúp công chúng hiểu thêm về tính đa diện và tác động đa chiều của nhiều xu thế, trào lưu chính trị-xã hội tại châu Âu một thời, khi mà cuộc chiến tại Việt Nam được nói đến liên tục trên truyền thông và có tác động đến cả một thế hệ người Anh.
Thông tín viên Nguyễn Giang từ Luân Đôn, cũng là nhà nghiên cứu Đông Nam Á tại Luân Đôn, hiện làm việc ở cương vị chuyên gia khách mời (non-resident fellow) với Viện Quan hệ Quốc tế, Đại học NCCU, Đài Bắc, đã nghiên cứu chủ đề này và giới thiệu những gì công chúng chưa được biết về Phong trào chống chiến tranh Việt Nam và di sản của phong trào này đối với đảng Lao động và chính trị Anh ngày nay.
RFI : Phong trào chống Chiến tranh Việt Nam ở Anh sinh ra từ đâu ?
TTV Nguyễn Giang : Vâng, khác với cách hiểu thông thường còn khá phổ biến ở nhiều nơi, phong trào của thanh niên, sinh viên, trí thức ở Anh phản đối sự can dự của quân đội Hoa Kỳ tại Đông Dương có xuất phát điểm không phải từ nhận thức giai cấp và giới công nhân Anh ít có mặt trong các cuộc đấu tranh có trí thức, sinh viên đi đầu.
Theo Claire Mansour, viết trong nghiên cứu mới “The British Movement against the Vietnam War” (2017), thì ngay sau khi Thế Chiến II kết thúc bằng hai trái bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản, ở Anh và các nước Tây Âu nổ ra phong trào giải trừ vũ khí hạt nhân (Nuclear disarmament movement).
Trong thập niên 1950-60, phong trào này phát triển và có sự liên kết của người Anh với những người cùng chí hướng của họ ở Pháp, Tây Đức và Mỹ. Thế nhưng, bối cảnh lịch sử và nhu cầu đấu tranh ở mỗi nước có sự khác nhau. Nếu như ở Mỹ, phong trào phản chiến thường do các trí thức thiên tả lãnh đạo, có mang màu sắc chống phân biệt chủng tộc, ủng hộ quyền vươn lên của người da đen, thì ở Anh, “the British anti-Vietnam War movement” có mục tiêu đạo đức, luân lý.
Luận điểm chính của các nhà vận động đòi Anh đơn phương bỏ vũ khí nguyên tử là Đế quốc Anh đã bị giải thể, nước Anh cần giành lại vị trí lãnh đạo thế giới về đạo đức trên trường quốc tế. Họ lên án chủ nghĩa đế quốc kiểu mới của Hoa Kỳ, và chia sẻ sự đồng cảm với nhân dân các nước vừa thoát ra khỏi chủ nghĩa thực dân.
RFI : Người Anh, thuộc đảng Lao động hay các nhóm chính trị phe tả phái khác, đã làm gì ?
TTV Nguyễn Giang : Điều họ làm là xuống đường, tuần hành để chống sự can thiệp của quân đội Hoa Kỳ ở Nam Việt Nam. Ví dụ tháng 02/1965 là thời điểm bước ngoặt của phong trào tại Anh. Ủy ban Oxford vì Việt Nam (Oxford Vietnam Committee), tổ chức vẫn còn cánh thanh niên của Cuộc vận động giải trừ vũ khí nguyên tử (Campaign for Nuclear Disarmament), đã làm được cuộc tuần hành lớn đầu tiên trên cả nước, trước cuộc tuần hành đông người ở Hoa Kỳ tới vài tháng. Kể từ đó, phong trào lớn mạnh qua năm tháng về số lượng, với một trong những đợt tuần hành đông người nhất trong năm 1968, đạt con số tới 100 nghìn người ở Quảng trường Trafalgar, London.
RFI: Trí thức Anh đóng vai trò như thế nào trong phong trào này ?
TTV Nguyễn Giang : Nói tới phong trào chống chiến tranh Việt Nam thì phải nhắc tới triết gia Anh Bertrand Russell, người cùng vợ là Edith Russell, đã thành lập vào năm 1963 Quỹ Hòa bình mang tên Bertrand Russell Peace Foundation, để phản đối điều hai ông bà gọi là “Cuộc giết chóc của Mỹ và Anh” (Các báo Anh đã đăng hình họ mang tấm biểu ngữ to: End Anglo-American Butchery in Vietnam trong cuộc tuần hành ngày 30/06/1965 ở London). Sau này, cùng với triết gia Pháp Jean-Paul Sartre, ông Russell lập ra Ủy ban Quốc tế về Tội ác Chiến tranh của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam, đã cử đại diện sang Hà Nội, gặp các ông Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng. Ủy ban này được khá nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và chính trị gia ủng hộ, ví dụ như những vị được giải Nobel Prize gồm Max Born, Linus Pauling, Albert Schweitzer, diễn viên Anh Vanessa Redgrave, nhà quý tộc Lord Boyd Orr, Hoàng hậu Elizabeth của Bỉ, thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru, tổng thống các nước Pakistan, Ghana, Tanzania và Hoàng thân Campuchia Norodom Sihanouk.
Điều đáng nói về thái độ của trí thức Anh, như ông Russell, là họ ủng hộ miền Bắc Việt Nam và chống hoạt động chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt Nam, nhưng ông Russell không phải là người theo chủ nghĩa cộng sản, và ông vẫn viết thư đều đặn cho tổng thống Mỹ Lyndon Johnson yêu cầu, đề nghị chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam và cải thiện quan hệ với Cuba. Thư của ông không được chính quyền Mỹ hồi đáp. Ông Russell không tin vào lý thuyết đấu tranh giai cấp là cách cải thiện xã hội như ý thức hệ chính thống ở các nước theo mô hình XHCN hồi đó vẫn nói, mà chỉ đơn giản muốn thúc đẩy hòa bình, đối thoại, thay cho chiến tranh, dù là chiến tranh nguyên tử hay chiến tranh bằng bom đạn.
Tinh thần của ông ấy là ủng hộ Bắc Việt Nam vì miền Bắc Việt Nam khi đó bị Mỹ ném bom. Xin nhắc rằng trong suốt cuộc chiến Việt Nam, ông Russell chưa hề đến Nam hay Bắc Việt Nam, nhưng trong một bài viết thì ông từng đến thành phố Sài Gòn vào năm 1920 khi Việt Nam là thuộc địa của Pháp. Cảm giác của ông về thành phố đó, được ghi lại, nguyên văn là “một đô thị để người châu Âu giàu sang hưởng lạc một cách bệnh hoạn”. Có thể thấy ngay từ hồi trẻ, ông đã không ưa chủ nghĩa thực dân châu Âu.
RFI : Còn về phong trào ở Anh phản đối Chiến tranh VN thì những diễn biến tiếp theo của nó là gì ?
TTV Nguyễn Giang : Càng về sau, tính chất và khẩu hiệu đấu tranh càng thay đổi, và yếu tố nhân sự của phong trào giải trừ vũ khí nguyên tử giảm đi, nhường chỗ cho các khẩu hiệu ủng hộ VNDCCH, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam.
Xin nhắc rằng biểu tình phản chiến ở Anh xảy đến hoàn toàn vì các lý tưởng như đoàn kết quốc tế mà thanh niên Anh theo đuổi, vì họ không phải đi lính. Trái lại, phong trào ở Mỹ có yếu tố chống quân dịch, với lý do thanh niên Mỹ phải phục vụ trong quân đội và bị đưa sang chiến trường Nam Việt Nam. Mặt khác, vì chính phủ Harold Wilson không đồng ý với yêu cầu của Hoa Kỳ đưa quân Anh tham chiến ở Nam Việt Nam, nên mục tiêu đấu tranh của phong trào phản chiến trên đường phố London, Leeds, Manchester là yêu cầu Anh gây sức ép để Mỹ chấm dứt cuộc chiến.
Cũng vì thế, các đợt Không quân Hoa Kỳ oanh kích VNDCCH bị phản đối dữ dội và chiến dịch Tết Mậu Thân 1968 trở thành mục tiêu phê phán Mỹ kịch liệt. Vào ngày 17 tháng 3 năm 1968, có cuộc tuần hành lớn, vài chục nghìn người ở London và theo sau bằng cuộc xuống đường đông đảo hơn, 100 nghìn người vào ngày 27 tháng 10 cùng năm.
RFI : Chính phủ Anh đã ứng xử ra sao khi mà Anh có quan hệ đồng minh chặt chẽ với Hoa Kỳ ?
TTV Nguyễn Giang : Theo sử gia cánh tả Keith Flett, phong trào phản chiến tại Anh đã có tác động tới quyết định của chính phủ Harold Wilson thuộc đảng Lao động, không đưa quân Anh tham chiến ở Nam VN hỗ trợ cho quân đội Mỹ theo yêu cầu của Washington năm 1964.
Dư luận Anh, giới truyền thông, như BBC, đã thúc đẩy chính phủ tìm kiếm giải pháp khác cho cuộc chiến Việt Nam. Các đợt Mỹ ném bom rải thảm ở Campuchia làm dấy lên một làn sóng đấu tranh mới, nhưng cũng có lo ngại về sự vươn dậy của lực lượng Khmer Đỏ, theo các tài liệu Anh nhắc lại giai đoạn 1970-71.
Ví dụ khi Hoa Kỳ ném bom miền Bắc Việt Nam vào cuối năm 1972, báo chí Anh đã chỉ trích chính phủ là quá nhượng bộ Washington, trong khi chính quyền các nước châu Âu như Bỉ, Ý, Hà Lan, Na Uy, Phần Lan lên án các đợt oanh kích. Biểu tình nổ ra ở London, Rome, Amsterdam và Copenhagen. Thủ tướng Thụy Điển Olof Palme ví các trận bom của Mỹ dội xuống khu dân cư và bệnh viện (Bạch Mai) như "bom của phát-xít Đức" tàn phá các đô thị châu Âu trong Thế Chiến II.
RFI : Sau cuộc chiến Việt Nam, phong trào phản chiến trong đảng Lao động Anh có còn tồn tại hay không và nếu có thì họ hoạt động ra sao ?
TTV Nguyễn Giang : Câu chuyện sau ngày 30/04/1975 tưởng như đã chỉ còn là hoài niệm nhưng vẫn đóng vai trò định hình chính sách đối ngoại của đảng Lao động và phe tả Anh cho tới hôm nay.
Khi còn làm việc ở London, tôi đã có dịp gặp và nghe lời kể từ nhà ngoại giao Michael Williams, cố vấn cho bộ trưởng Ngoại Giao Jack Straw của đảng Lao động, về lý do thời trẻ có khá nhiều sinh viên Anh phản đối điều họ nói là “sự can thiệp tàn khốc của quân đội Mỹ ở Nam Việt Nam”.
Cả hai ông Williams và Straw thời trẻ đều từng tham gia các cuộc tuần hành nổi tiếng ở London vốn bắt đầu năm 1965, mở đường cho một phong trào có chất lượng đấu tranh đô thị và các khẩu hiệu khác trước. Vào những năm 2019-20, tôi cũng có dịp phỏng vấn ông Jack Straw, khi đó đã rời vị trí bộ trưởng, trong sự kiện ông bảo trợ trong Quốc hội Anh nhằm ủng hộ cuộc đấu tranh đòi bồi thường cho nạn nhân chất da cam ở Việt Nam.
Vể sau này thì có 3-4 cuộc chiến đã khiến di sản chống chiến tranh Việt Nam lên tiếng ở Anh. Đó là năm 1982 khi nữ thủ tướng thuộc đảng Bảo thủ Anh, Margaret Thatcher, quyết định đưa quân sang quần đảo Falklands (Malvinas) đẩy quân Argentina ra khỏi đó. Lãnh đạo đảng Lao động đối lập, Michael Foot, đã ủng hộ hành động của bà Thatcher, dù bị nhiều nhân vật trong đảng Lao động phản đối.
Vào các năm 1997 và 2010, Anh lại đưa quân ra nước ngoài, sang Iraq, Afghanistan và Libya. Các nhân vật phản chiến hàng đầu của đảng này như Tony Benn và Jeremy Corbyn đã phản đối chính phủ của Tony Blair cùng đảng đưa quân giúp Mỹ. Ông Corbyn sau trở thành lãnh tụ đảng Lao động và kiên trì chống cuộc chiến mới nhất của Israel ở Gaza.
RFI : Với tình hình hiện nay thì sao ?
TTV Nguyễn Giang : Xin nhắc là đương kim thủ tướng Anh, luật sư nhân quyền Keir Starmer, đã xuống đường cùng ‘Liên minh ngăn chiến tranh’ (Stop the War Coalition) với chừng 1 triệu người khi nổ ra cuộc chiến Iraq năm 2003. Đó là hình ảnh gợi lại các cuộc tuần hành ở London phản đối chiến tranh Việt Nam.
Nhưng gần đây nhất, khi lên cầm quyền, ông Starmer lại đưa đảng Lao động vào một con đường hỗ trợ Ukraina tới cùng, kể cả khi Mỹ và Nga đang đàm phán để chấm dứt chiến tranh. Tất nhiên bối cảnh của cuộc chiến Ukraina rất khác chiến tranh Iraq và hiện nay, các đảng tả và hữu hay trung dung như Tự do Dân chủ (LibDem) đều ủng hộ Ukraina chống lại Nga.
Nhưng như sử gia Keith Flett đánh giá thì ở Anh luôn có hai xu thế: chiến tranh đế quốc và phong trào phản chiến. Đảng Lao động luôn là nơi có những người theo phái hòa bình (pacifists) và phản chiến nói chung và đó đã là truyền thống của họ, kể cả khi có những lãnh đạo như ông Tony Blair hay Keir Starmer, được bầu lên lãnh đạo quốc gia và chọn con đường khác.
37 Listeners
4 Listeners
6 Listeners
220 Listeners
13 Listeners
21 Listeners
2 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
24 Listeners
8 Listeners
6 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners
0 Listeners