Giải thích ngắn gọn ý nghĩa phẩm thứ 14 Kinh Pháp Hoa (An Lạc Hạnh)
Phẩm An Lạc Hạnh dạy về bốn pháp an lạc mà Bồ tát cần an trú để thuyết giảng Kinh Pháp Hoa trong đời ác trược sau khi Phật diệt độ: hành xứ (nơi hành đạo), thân cận xứ (nơi thân cận), khẩu hạnh (lời nói an lạc), và ý hạnh (tâm đại bi). Những pháp này giúp Bồ tát tránh chướng ngại, giữ tâm an ổn, từ bi, không phân biệt, không mong cầu, dẫn đến việc thuyết pháp hiệu quả, mang lại an lạc cho bản thân và chúng sinh, khẳng định Kinh Pháp Hoa là pháp tối thượng.
Toàn văn phẩm thứ 14: An Lạc Hạnh
Lúc bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ tát bạch Phật rằng:
Thế Tôn! Các vị Bồ tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: ở nơi đời ác sau, hộ trì đọc nói kinh Pháp Hoa này.
Thế Tôn! Các vị Đại Bồ tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?
Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi:
Nếu vị Bồ tát ở đời ác sau muốn nói kinh này, phải an trụ trong bốn pháp.
Một, an trụ nơi Hành xứ và nơi Thân cận xứ của Bồ tát, thời có thể vì chúng sanh mà diễn nói kinh này.
Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là chỗ Hành xứ của Đại Bồ tát? Nếu vị Đại Bồ tát an trụ trong nhẫn nhục hòa dịu khéo thuận mà không vụt chạc lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt mà quán tưởng như thực của các pháp cũng chẳng vin theo, chẳng phân biệt, đó gọi là chỗ Hành xứ của Bồ tát.
Thế nào gọi là chỗ Thân cận của Đại Bồ tát? Vị Đại Bồ tát chẳng gần gũi quốc vương, vương tử, đại thần, quan trưởng, chẳng gần gũi các ngoại đạo phạm chí, Ni kiền tử,... và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại đạo cùng với phái Lộ Già Da Đà, phái Nghịch Lộ Già Da Đà, cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn Na la,... bày các cuộc chơi biến hiện. Lại chẳng gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời.
Bồ tát vì nói pháp không có lòng mong cầu. Lại chẳng gần gũi những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hạng người cầu quả Thanh văn, hoặc ở trong phòng, hoặc chỗ kinh hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ tát theo cơ nghi nói pháp không lòng mong cầu.
Văn Thù Sư Lợi! Lại vị Đại Bồ tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là tướng có thể sanh tư tưởng dục nhiễm mà vì nói pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa,... chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất nam để làm thân hậu. Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhân duyên cần riêng mình vào thời chuyên một lòng niệm Phật. Nếu vì người nữ nói pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân hậu, huống lại là việc khác. Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa di ít tuổi và các trẻ nhỏ, cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng tu nhiếp tâm mình.
Văn Thù Sư Lợi! Đó gọi là Chỗ thân cận ban đầu.
Lại nữa, vị Đại Bồ tát quán sát Nhất thiết pháp không như thật tướng chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thực không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng, chỉ do nhân duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế đó gọi là Chỗ thân cận thứ hai của vị Đại Bồ tát.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu có vị Bồ tát
Ở trong đời ác sau
Lòng không hề sợ sệt
Muốn nói kinh pháp này
Nên trụ vào Hành xứ
Và trụ Thân cận xứ.
Thường xa rời quốc vương
Và con của quốc vương
Quan đại thần, quan lớn
Kẻ chơi việc hung hiểm
Cùng bọn Chiên đà la
Hàng ngoại đạo phạm chí
Cùng chẳng ưa gần gũi
Hạng người tăng thượng mạn
Hàng học giả tham chấp
Kinh, luật, luận Tiểu thừa
Những Tỳ kheo phá giới
Danh tự A la hán
Và những Tỳ kheo ni
Ưa thích chơi giỡn cười
Các vị Ưu bà di
Tham mê năm món dục
Cầu hiện tại diệt độ
Đều chớ có gần gũi.
Nếu những hạng người đó
Dùng tâm tốt mà đến
Tại chỗ của Bồ tát
Để vì nghe Phật đạo
Bồ tát thời nên dùng
Lòng không chút sợ sệt
Chẳng có niệm mong cầu
Mà vì chúng nói pháp.
Những gái góa, gái trinh
Và các kẻ bất nam
Đều chớ có gần gũi
Để cùng làm thân hậu.
Cũng chớ nên gần gũi
Kẻ đồ tể cắt thái
Săn bắn và chài lưới
Vì lợi mà giết hại
Bán thịt để tự sống
Buôn bán sắc gái đẹp
Những người như thế đó
Đều chớ có gần gũi.
Các cuộc chơi giỡn dữ
Hung hiểm đâm đánh nhau
Và những dâm nữ thảy
Trọn chớ có gần gũi.
Chớ nên riêng chỗ khuất
Vì người nữ nói pháp
Nếu lúc vì nói pháp
Chẳng được chơi giỡn cười
Khi vào xóm khất thực
Phải dắt một Tỳ kheo
Nếu không có Tỳ kheo
Phải một lòng niệm Phật
Đây thời gọi tên là
Hành xứ, Thân cận xứ.
Dùng hai xứ trên đây
Có thể an lạc nói.
Lại cũng chẳng vịn theo
Pháp thượng, trung và hạ
Hữu vi hay vô vi
Thực cùng pháp chẳng thực
Cũng chẳng có phân biệt
Là nam là nữ thảy
Lại chẳng được các pháp
Chẳng biết cũng chẳng thấy
Đây thời gọi tên là
Hành xứ của Bồ tát.
Tất cả các món pháp
Đều không, chẳng chỗ có
Không có chút thường trụ
Vẫn cũng không khởi diệt
Đây gọi là Thân cận
Chỗ người trí hằng nương.
Chớ đảo điên phân biệt
Các pháp có hoặc không
Là thực, chẳng phải thực
Là sanh chẳng phải sanh,
Ở an nơi vắng vẻ
Sửa trao nhiếp tâm mình
An trụ chẳng lay động
Như thể núi Tu Di
Quán sát tất cả pháp
Thảy đều không thực có
Dường như khoảng hư không
Không có chút bền chắc.
Chẳng sanh cũng chẳng xuất
Chẳng động cũng chẳng thối
Thường trụ một tướng thể
Đó gọi là Cận xứ.
Nếu có vị Tỳ kheo
Sau khi ta diệt độ
Vào được Hành xứ đó
Thời lúc nói kinh này
Không có lòng e sợ
Vị Bồ tát có lúc
Vào nơi nhà tịnh thất
Lòng nghĩ nhớ chân chính
Theo đúng nghĩa quán pháp.
Từ trong thiền định dậy
Vì các bậc quốc vương
Vương tử và quan, dân
Hàng Bà la môn thảy
Mà khai hóa diễn bày
Rộng nói kinh điển này
Tâm vị đó an ổn
Không có chút khiếp nhược.
Văn Thù Sư Lợi này!
Đó gọi là Bồ tát
An trụ trong sơ pháp
Có thể ở đời sau
Diễn nói kinh Pháp Hoa.
Lại Văn Thù Sư Lợi! Sau khi Đức Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; chẳng khinh mạn các Pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó. Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an lạc như thế, nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp Tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp đại thừa mà vì đó giải nói làm cho được bậc Nhất thiết chủng trí.
Bấy giờ, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Vị Bồ tát thường ưa
An ổn nói kinh pháp
Ở nơi chỗ thanh tịnh
Mà sắp đặt sàng tòa
Dùng hương dầu xoa thân
Tắm gội các bụi dơ
Mặc y mới sạch sẽ
Trong ngoài đều sạch thơm
Ngồi an nơi pháp tòa
Theo chỗ hỏi vì nói.
Nếu có vị Tỳ kheo
Cùng với Tỳ kheo ni
Các hàng Ưu bà tắc
Và hàng Ưu bà di
Quốc vương và vương tử,
Các quan cùng sĩ dân
Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu
Vui vẻ vì họ nói
Nếu có người gạn hỏi
Theo đúng nghĩa mà đáp
Nhân duyên hoặc thí dụ
Giải bày phân biệt nói
Dùng trí phương tiện này
Đều khiến kia phát tâm
Lần lần thêm đông nhiều
Vào ở trong Phật đạo.
Trừ lòng lười biếng trễ
Cùng với tưởng giải đãi
Xa rời các ưu não
Tâm từ lành nói pháp
Ngày đêm thường tuyên nói
Giáo pháp vô thượng đạo
Dùng các việc nhân duyên
Vô lượng món thí dụ
Mở bày dạy chúng sanh
Đều khiến chúng vui mừng
Y phục cùng đồ nằm
Đồ ăn uống thuốc thang
Mà ở nơi trong đó
Không có chỗ mong cầu
Chỉ chuyên một lòng nhớ
Nhân duyên nói kinh pháp
Nguyện ta thành Phật đạo
Khiến mọi người cũng vậy
Đó là lợi lành lớn
Là an vui cúng dường
Sau khi ta diệt độ
Nếu có vị Tỳ kheo
Có thể diễn nói được
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Lòng không chút ghen hờn
Không các não chướng ngại
Cũng lại không ưu sầu
Và cùng mắng nhiếc thảy
Lại cũng không sợ sệt
Không dao gậy đánh đập
Cũng không xua đuổi ra
Vì an trụ nhẫn vậy
Người trí khéo tu tập
Tâm mình được dường ấy
Thời hay trụ an lạc
Như ta nói ở trên
Công đức của người đó
Trong nghìn muôn ức kiếp
Tánh kể hay thí dụ
Nói chẳng thể hết được.
Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị Đại Bồ tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thụ trì đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ghen ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hoặc cầu Thanh văn, hoặc cầu Duyên giác, hoặc cầu Bồ tát đạo, đều không được làm não đó, khiến cho kia sanh lòng nghi hối mà nói với người rằng: Các người cách đạo rất xa, trọn không thể được bậc nhất thiết chủng trí.
Vì sao? Vì các người là kẻ buông lung, biếng trễ đối với đạo. Lại cũng chẳng nên hí luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi, đối với các Đức Như Lai sanh tưởng như cha lành, đối với các Bồ tát, tưởng là bậc đại sư, với các Đại Bồ tát ở mười phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người ưa pháp cũng chẳng vì nói nhiều.
Văn Thù Sư Lợi! Vị Đại Bồ tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn, được bạn lành đồng học cùng đọc tụng kinh này, có đại chúng lại đến nghe thọ, nghe rồi hay trì, trì rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay viết cùng khiến người viết.
Bấy giờ, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Muốn nói kinh pháp này
Mà trụ nơi an lạc
Ở chỗ vắng lặng lẽ
Chẳng ưa ngủ nhiều lắm
Cũng chẳng ưa thân cận
Hàng vua chúa quan quyền
Cũng chớ nên gần gũi
Hàng quan nhỏ thấp hèn
Dâm nữ cùng bất nam
Thảy đều chớ gần gũi
Cũng chớ nên gần gũi
Hàng đồ tể cắt thái
Săn bắn chài lưới thảy
Vì lợi giết hại sanh
Những người buôn bán thịt
Và kẻ bán sắc nữ
Thảy đều chớ gần gũi
Để cầu lòng an lạc
Khéo nói pháp nhiệm mầu
Chẳng sanh lòng vui mừng
Vì được mặc y tốt
Ăn ngon cùng thuốc thang
Cũng chớ có tư tưởng
Sợ không đủ dùng thảy
Chỉ một lòng nghĩ nhớ
Rộng nói chẳng sai lầm
Nguyện thành Phật đạo quả
Khiến người cũng như vậy
Đó thời là lợi lớn
An vui cúng dường vậy.
Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị Đại Bồ tát ở đời mạt pháp sau, lúc pháp muốn diệt, người thọ trì kinh này, đối với người xuất gia, kẻ tại gia, sanh lòng đại bi, đối với kẻ chẳng phải Bồ tát sanh lòng từ bi nghĩ rằng: Những người này rất là thiệt thòi, Phật phương tiện theo cơ nghi nói pháp mà chẳng hay nghe, chẳng hay biết, chẳng hay tỉnh, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng giải. Những người này tuy chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng giải kinh này, khi ta được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sẽ ở chỗ khác dùng sức thần thông, sức trí huệ dắt dẫn đó khiến trụ trong pháp này.
Văn Thù Sư Lợi! Vị Đại Bồ tát sau khi Như Lai diệt độ nếu thành tựu pháp thứ tư này, thời lúc nói pháp không có lỗi lầm, thường được Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, quốc vương, vương tử, đại thần, nhân dân, Bà la môn, cư sĩ,... cúng dường, cung kính, tôn trọng, ngợi khen. Các trời ở hư không vì nghe pháp thường theo hầu đó. Nếu ở nơi thôn xóm, thành ấp, rừng vắng, có người đến muốn gạn hỏi, các trời vì pháp thường theo hầu hộ vệ đó, khiến người nghe đều vui mừng. Vì sao? Vì kinh này được sức niệm của chư Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Văn Thù Sư Lợi! Như trong vô lượng vô số kiếp ở các cõi nước mười phương, nhẫn đến tên kinh Pháp Hoa còn chưa từng nghe huống là thấy thọ trì đọc tụng.
Văn Thù Sư Lợi! Ví như vị vua có sức mạnh xoay chuyển bánh xe, đánh dẹp các giặc thù rồi, tùy công thưởng cho các binh sĩ: hoặc thưởng voi, ngựa, xe, cộ, hình tượng trang nghiêm thân mình, ruộng đất nhà cửa, thôn ấp, thành quách, hoặc thưởng y phục, các món trân bảo, vàng bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, tôi tớ, xe ngựa, kiệu cáng. Duy có viên ngọc sáng trên mão chẳng đem cho đó, vì sao? Vì viên ngọc ấy chỉ có một viên ở trên đầu vua, nếu đem cho đó thời quyến thuộc của vua tất lấy làm lạ.
Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng vậy, dùng sức thiền định trí huệ được nước pháp, thống trị ba cõi, mà các ma vương chẳng chịu hàng phục, các vị hiền thánh là tướng quân của Như Lai cùng với ma chiến đấu, kẻ có công thời lòng vui mừng, ở trong đại chúng bốn bộ nói các kinh điển khiến lòng chúng vui, dùng tam minh, lục thông, các sức thần thông, các sức thiền định giải thoát, các pháp bất cộng, khiến chúng hoan hỷ, lại dùng vô lượng các pháp khiến vào Phật huệ. Nhưng chưa từng nói kinh Pháp Hoa này.
Văn Thù Sư Lợi! Như vị Luân vương thấy trong hàng binh sĩ kẻ rất có công mới lòng rất vui mừng đem viên ngọc khó cho mà lâu nay ở trên mão chẳng khinh tiện cho, nay mới cho đó. Như Lai cũng vậy, ở trong đại tam thiên thế giới làm vua pháp lớn, dùng pháp giáo hóa tất cả chúng sanh, thấy hiền thánh quân cùng ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma chiến đấu có đại công lực, diệt ba độc, ra ba cõi, phá lưới ma, thời Như Lai rất vui mừng đem kinh Pháp Hoa khiến tất cả chúng sanh được bậc Nhất thiết chủng trí mà các Đức Phật ba đời khó nói nay mới nói đó.
Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của Như Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vị vua kia lâu có viên ngọc sáng rốt sau mới cho. Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của chư Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc nhất, Phật lâu dài hộ trì chẳng khinh tiện nói, hôm nay mới đem phó chúc cho các ngươi.
Bấy giờ, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Thường hành pháp nhẫn nhục
Từ bi thương chúng sanh
Mới đem kinh bí mật
Ta cất dấu lâu nay
Phó chúc cho người khác.
Người ấy ở đời mạt
Đối với kinh điển này
Nói với xuất gia nhân
Và kẻ cầu Đại thừa
Ngươi nếu có thể trì
Đọc tụng hiểu nghĩa kinh
Theo đúng pháp tu hành
Đó gọi là chân thật
Thân cận Phật tử vậy.
Sau khi ta diệt độ
Người nào hay thọ trì
Đọc tụng kinh điển này
Thời ở trước Phật nói
Ta có nguyện lực lớn
Khiến kinh lưu bố rộng
Người ấy lúc mạng chung
Được nghìn Phật tiếp tay
Chớ có lòng sợ sệt
Sau khi mạng chung rồi
Được sanh lên trời Đâu
Chỗ của Đế Thích vương
Ba mươi ba vị trời
Cùng trăm nghìn thiên nữ
Tấu kỹ nhạc muôn thứ
Cùng các việc vui chơi
Đều đến để hầu hạ
Được sanh lên trời đó
Trí huệ vui thần thông
Rộng độ các chúng sanh
Trong vô lượng cõi nước
Lần lần tu Phạm hạnh
Mau thành quả Bồ đề
Người ấy ở cõi này
Khéo biết tướng sanh tử
Và các pháp môn khác
Như trong kinh này nói
Có nghìn muôn ức Bồ tát
Dùng các món thí dụ
Diễn bày phân biệt kinh
Mà hay tự thanh tịnh
Theo người trí tu hành
Lại ở vô lượng kiếp
Hay phân biệt các pháp
Ở trong các chúng sanh
Biết căn tánh lợi độn
Dùng phương tiện khéo hay
Khiến đều được hoan hỷ
Như biển lớn nước mặn
Tất cả đều một vị
Kinh Pháp Hoa như vậy
Dùng một vị mưa pháp
Khắp đầy cả thế gian
Theo sức chịu đựng được
Mà nói các pháp nghĩa
Như biển lớn nước mặn
Tất cả đều một vị
Kinh Pháp Hoa như vậy
Hay sanh trí huệ sạch
Trong nghìn muôn ức kiếp
Rộng nói các pháp môn
Thảy đều được thành Phật
Nay ta nói như vậy
Để khiến các ngươi biết
Kinh Pháp Hoa này đây
Mở bày Phật chủng tánh
Như mây lớn mưa xuống
Khắp các cõi thế gian
Sấm vang chớp sáng chói
Mát mẻ khắp nơi nơi
Che phủ cả đại địa
Như người khát đến suối
Thấy nước trong mát lạnh
Nhưng chưa thể uống được
Chia cát tìm nước suối
Thấy nước trong mát lạnh
Liền uống được no lòng
Bồ tát cũng như vậy
Đã xa lìa sanh tử
Được pháp nhẫn vô sanh
Sau khi được an ổn
Ở trong đời vị lai
Được thành bậc Chánh giác
Dùng các món thần thông
Vui đùa trong mười phương
Rộng độ các chúng sanh.
Lợi lạc của việc nghe, trì niệm Kinh Pháp Hoa
Việc nghe, trì tụng và niệm Kinh Pháp Hoa mang lại công đức vô lượng, như được chư Phật hộ niệm, tiêu trừ nghiệp chướng, tăng trưởng trí huệ, đạt được bình an, và cuối cùng thành tựu quả vị Phật. Người trì kinh sẽ được sinh về cõi tịnh, gần gũi chư Phật, tránh ác đạo, và phổ độ chúng sinh, dẫn đến giác ngộ viên mãn.